Đồ án Tối ưu hóa việc sử dụng dầu thô trong nhà máy lọc dầu (kèm bản vẽ)

Dầu thô là một chất lỏng nhớt có màu thay đổi từ xanh (dầu Monie: Australia) đến nâu đen (dầu Ghawar: Saudi Arabia), có mùi của H2S, nhựa thông hay đơn giản của hydrocacbon. Các đặc trưng của dầu thô thường thay đổi trong giới hạn rất rộng: chúng thay đổi theo từng mỏ và trong cả từng mỏ. Trong các vỉa dầu thì chúng lại thay đổi theo từng giếng và trong từng giếng thì các đặc trưng vật lý thay đổi theo từng lớp khoan. Một số đặc trưng vật lý quan trọng của dầu thô.

doc58 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2269 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Tối ưu hóa việc sử dụng dầu thô trong nhà máy lọc dầu (kèm bản vẽ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1 : MỞ ĐẦU Giới thiệu về dầu thô. Tính chất vật lý của dầu thô. Dầu thô là một chất lỏng nhớt có màu thay đổi từ xanh (dầu Monie: Australia) đến nâu đen (dầu Ghawar: Saudi Arabia), có mùi của H2S, nhựa thông hay đơn giản của hydrocacbon. Các đặc trưng của dầu thô thường thay đổi trong giới hạn rất rộng: chúng thay đổi theo từng mỏ và trong cả từng mỏ. Trong các vỉa dầu thì chúng lại thay đổi theo từng giếng và trong từng giếng thì các đặc trưng vật lý thay đổi theo từng lớp khoan. Một số đặc trưng vật lý quan trọng của dầu thô. Tỷ trọng. Tỷ trọng của dầu thô thường từ 0.8 ÷ 1.0. Tỷ trọng dầu thô có quan hệ mật thiết đến thành phần hóa học của dầu thô. Do đó, thông qua tỷ trọng của dầu thô có thể nhận định sơ bộ thành phần hoá học của dầu, và nó còn có ý nghĩa thương mại vì đại lượng này quyết định đến hiệu suất thu các sản phẩm thương mại và sơ đồ công nghệ chế biến, thể tích trong mua bán dầu thô. Độ nhớt. Việc xác định chính xác độ nhớt của dầu thô có ý nghĩa đối với vận chuyển dầu bằng đường ống, việc tính toán tổn thất áp suất trong các đường ống dẫn dầu cũng như việc chọn các thiết bị bơm chuyển và thiết bị trao đổi nhiệt thích hợp. Ap suất hơi và điểm chớp cháy của dầu thô. Việc xác định áp suất hơi và điểm chớp cháy của dầu thô cho phép dự đoán hàm lượng các Hydrocacbon nhẹ, mức độ hoả hoạn trong quá trình vận chuyển và tồn trữ dầu. Nói chung, người ta chấp nhận dầu thô có áp suất hơi lớn hơn 0.2 bar ở 37.8 0C và điểm chớp nháy nhỏ hơn 20 0C. Điểm chảy, điểm vẩn đục của dầu thô. Điểm chảy của dầu thô thường nằm trong khoảng: - 60 ÷ + 30 0C. Điểm chảy là một tính chất nó quyết định khả năng vận chuyển bằng bơm của dầu thô. Với dầu có điểm chảy quá cao thì trong quá trình vận chuyển bằng đường ống đòi hỏi phải được gia nhiệt để đảm bảo tính linh động cho dầu. Tuy nhiên, điểm này có một số bất lợi về mặt kinh tế do phải tiêu tốn năng lượng. Thành phần phân đoạn. Đối với dầu thô, người ta dùng phương pháp chưng cất điểm sôi thực TBP (True Boiling Point) để thu được đường cong biểu diễn mối quan hệ giữa phần trăm chưng cất được và nhiệt độ hoặc nhiệt độ tại đó thu được phần trăm xác định. Từ đó có thể đánh giá hiệu suất của từng phân đoạn và khả năng bay hơi của dầu thô. Bản chất hóa học của dầu thô. Dầu thô là hợp chất chủ yếu của C, H nhưng được kết hợp với nhiều tỷ lệ và cấu tạo những vòng khác nhau tạo nên sự đa dạng các họ Hydrocacbon. Trong thành phần của dầu thô còn có mặt các nguyên tố phi kim như S, N, O ... và một số kim loại như Vanadi, Niken. . . . Hợp chất Hydrocacbon. Những hợp chất hydrocacbon là thành phần chủ yếu nhất, có thể chiếm tới 90% trọng lượng của dầu. Chúng thường thuộc các họ Parafinic, Naphtenic và Aromatic với với số lượng nguyên tử Cacbone khác nhau do đó tạo nên sự đa dạng về cấu trúc trong chính mỗi họ. Đồng thời trong dầu thô còn có các Hydrocacbon lai hợp. Hàm lượng các Hydrocacbon kể trên trong các dầu thô rất khác nhau. Đây là yếu tố quyết định các quá trình chế biến dầu thô cũng như hiệu suất, chất lượng sản phẩm thu được. Họ Hydrocacbon Parafin (alkan). Các Alkan trong dầu thô tồn tại ở trạng thái khí, lỏng, rắn. Hàm lượng chiếm khoảng 25 ÷ 30% thể tích dầu thô (không kể khí hòa tan). Nếu tính cả lượng khí hòa tan thì hàm lượng cúa chúng có thể lên đến 40 ÷ 50% thậm chí 50 ÷ 70% thể tích. Tuy nhiên có loại dầu thô lượng Alkan chỉ chiếm 10 ÷ 15% thể tích. Họ Hydrocacbon Olefin (Alken). Các Alken hầu như không có trong dầu thô hoặc nếu có thì chỉ ở dạng vết. Họ Hydrocacbon Cyclo Alkan (Naphten). Naphten chiếm một lượng đáng kể trong dầu thô: 25 ÷ 75% khối lượng. Chúng có mặt hầu như trong tất cả các phân đoạn dầu mỏ. Thường gặp nhất là loại đơn vòng, chủ yếu là vòng 5 nguyên tử Cacbone và vòng 6 nguyên tử Cacbone. Ngoài ra, trong các phân đoạn có nhiệt độ sôi cao thường gặp vòng Naphten dạng ngưng tụ, có thể là với vòng Naphten hay với vòng thơm. Họ Hydrocacbon thơm (Aromatic). Họ hợp chất này chiếm khoảng 10 ÷ 20% khối lượng dầu thô. Các Aromatic thường gặp trong phần nhẹ của dầu thô là benzen và các dẫn xuất có nhánh alkyl. Các hợp chất đa vòng ngưng tụ có hàm lượng thấp tìm thấy trong các phần nặng. Các hợp chất phi hydrocacbon. Các hợp chất phi Hydrocacbon thường gặp trong dầu thô là các hợp chất của Hydrocacbone với sự có mặt nguyên tố lưu huỳnh, oxy, các kim loại, nước và muối khoáng. Các chất này nói chung đều là chất có hại. Trong quá trình chế biến, chúng thường tạo ra các hợp chất gây ăn mòn thiết bị, gây ngộ độc xúc tác, làm giảm chất lượng của các sản phẩm chế biến. Một số chất khi cháy sinh ra các khí gây ô nhiễm môi trường. Do đó khi chế biến dầu thô cần phải có các biện pháp tách loại chúng. Các sản phẩm. Các sản phẩm của quá trình lọc dầu nói chung được chia làm 2 loại: các sản phẩm sử dụng cho mục đích năng lượng và những sản phẩm không năng lượng. Sản phẩm năng lượng. Các sản phẩm năng lượng gồm có nhiên liệu và chất đốt. Nhiên liệu là những cấu tử hóa học, dạng lỏng hoặc khí, mà quá trình cháy với sự toả ra năng lượng và cho phép chuyển thành động năng như ở động cơ xăng, động cơ Diezen, động cơ máy bay phản lực. Với chất đốt thì đây là những sản phẩm được sử dụng để sinh ra năng lượng nhiệt trong nồi hơi, lò đốt, nhà máy nhiệt điện... Cách phân loại này chỉ có tính tương đối. Theo đó, xăng, gasoil... không phải là chất đốt mà là nhiên liệu. Tuy nhiên, dầu đốt nặng có thể được xem như vừa là chất đốt vừa là nhiên liệu tùy theo mục đích sử dụng: trong đầu đốt hoặc trên động cơ Diezen của tàu thủy... Các sản phẩm nhiên liệu bao gồm: khí dầu mỏ hóa lỏng, xăng động cơ, nhiên liệu phản lực, gasoil, xăng máy bay, dầu đốt dân dụng, dầu đốt nặng. Khí dầu mỏ hóa lỏng (GPL). GPL sử dụng làm nhiên liệu. Việc sử dụng GPL làm nhiên liệu chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Trên thế giới, phần GPL sử dụng trong các phương tiện vận tải khoảng 5%, các ứng dụng khác chủ yếu liên quan đến hóa dầu (25%) và lĩnh vực chất đốt (70%). Tiêu chuẩn Châu Âu năm 1992 quy định các đặc trưng của loại nhiên liệu này như sau: chỉ số Octane động cơ MON > 89, hàm lượng Butadien tối đa là 0.5% khối lượng, áp suất hơi. Mặt khác, để đảm bảo sự khởi động dễ dàng, người ta ấn định một giá trị tối thiểu của áp suất hơi trong mùa đông, khác nhau tùy theo điều kiện khí hậu của mỗi quốc gia. Ỏ Châu Âu xác định 4 loại sản phẩm a, b, c, d với áp suất hơi tối thiểu 250 mbar tương ứng ở -100C (a), -50C (b), 00C (c) và 100C (d). GPL sử dụng làm chất đốt. GPL chia làm 2 loại sản phẩm: Propan thương mại và Butan thương mại, được lưu trữ ở trạng thái lỏng dưới áp suất 13 bar, nhiệt độ môi trường. Propan thương mại chứa khoảng 90% C3, d15 ³ 0.502 kg/l, áp suất hơi Reid từ 8.3 ÷ 14.4 bar, hàm lượng lưu huỳnh £ 50 ppm khối lượng, điểm sôi cuối £ -150C. Butan thương phẩm chứa chủ yếu là C4, Propan và Propen nhỏ hơn 19% thể tích, d154 ³ 0.559 kg/l, áp suất hơi tối đa là 6.9 mbar ở 50 0C và điểm sôi cuối £ 1 0C. Xăng động cơ. Xăng thường và xăng super dùng trong động cơ đánh lửa cưỡng bức là một trong những sản phẩm tương đối lớn của công nghệ chế biến dầu mỏ. Xăng động cơ không phải đơn thuần chỉ là sản phẩm của một quá trình chưng cất nào đó mà là một sản phẩm được phối trộn từ một số nguồn nhất định, kết hợp với một số phụ gia nhằm đảm bảo hoạt động của động cơ trong những điều kiện vận hành thực tế cũng như các yêu cầu về tồn chứa, dự trữ khác nhau... Các chỉ tiêu kỹ thuật cơ bản. Khối lượng riêng. Thường được đo bằng phù kế ở 150C, được biểu diễn bằng kg/l. Khối lượng riêng liên quan mật thiết đến các chỉ tiêu khác như thành phần cất, áp suất hơi bão hòa...Chỉ tiêu này thường nằm trong một giới hạn phổ biến, đối với xăng ô tô là 0.68 ÷ 0.75 kg/l. Khối lượng riêng cho phép phân loại xăng hay các loại nhiên liệu khác và đánh giá sơ bộ chất lượng tương đối của xăng là nhẹ hay nặng. Ap suất hơi của xăng. Ap suất hơi bão hoà đặc trưng cho khả năng bay hơi của xăng. Ap suất hơi càng cao thì độ bay hơi càng cao, dễ tạo nút hơi trong động cơ, gây ra hao hụt trong tồn chứa và gây ô nhiểm môi trường. Tuy nhiên áp suất hơi quá thấp cũng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng khởi động cảu động cơ. Đường cong chưng cất của xăng. Người ta quan tâm đến một số điểm đặc biệt trên đường cong: điểm đầu PI, điểm cuối PF, phần trăm thể tích chưng cất được ở 70, 100, 180 và 2100C, ký hiệu E70, E100, E180, E210. Điểm cuối của xăng không được vượt quá một giá trị giới hạn, hiện nay ở Châu Âu là 2150C. Trị số Octan. Về nguyên tắc, trị số Octane càng cao càng tốt, tuy nhiên phải phù hợp với từng loại động cơ. Xăng có RON = 80 - 83 (MON = 72 - 76) thường được dùng cho các loại xe có tỷ số nén 95 là loại xăng đặc biệt, cao cấp, thường dùng cho các loại xe có tỷ số nén > 9.5 như xe đua, xe ô tô cao cấp, xe đặc nhiệm... Một trong các biện pháp tăng trị số octane là dùng phụ gia chống kích nổ. Loại phụ gia được sử dụng phổ biến nhất trước đây là Alkyl Pb dưới dạng PTE, PTM hoặc hỗn hợp của cả hai. Hàm lượng tối đa của chì trong xăng tuỳ theo qui định từng khu vực, từng quốc gia. Ngày nay, do các yêu cầu về bảo vệ môi trường, buộc phải loại bỏ các phụ gia chì. Thay vào đó người ta sử dụng các phụ gia dạng oxygen, chủ yếu bao gồm: Methanol, Ethanol, Tertiary - Butyl Alcohol (TBA), Methyl Tertiary - Buthyl Ether (MTBE). Hàm lượng của chúng trong xăng thường được giới hạn bởi tuỳ theo yêu cầu từng nơi. Theo tiêu chuẩn của EU: EC - EN 228 nồng độ tối đa được phép là 2.8 % m. Ngoài các phụ gia trên, để đáp ứng được các yêu cầu của động cơ, xăng còn được pha các phụ gia: phụ gia chống oxy hóa, phụ gia tẩy rửa, phụ gia chống gỉ, phụ gia biến đổi cặn... Hàm lượng lưu huỳnh tổng: mức qui định hiện nay nằm trong khoảng từ 0.05 ÷ 1% khối lượng. Sự có mặt của lưu huỳnh trong dầu mỏ nói chung và trong xăng nói riêng là nguyên nhân của sự ăn mòn thiết bị và đặc biệt sự có mặt của H2S trong khí cháy không hết gây ô nhiểm môi trường. Phối liệu xăng động cơ. Những thành phần chủ yếu trong phối trộn xăng động cơ có thể như sau. Thành phần phối liệu RON MON Butan 95 92 Isopentan 92 89 Xăng nhẹ 68 67 Reformat áp suất trung bình 94 85 Reformat áp suất thấp 99 88 Reformat nặng 113 102 Xăng tổng FCC 91 80 Xăng nhẹ FCC 93 82 Xăng nặng FCC 95 85 Alkylat 95 92 Isomerat 85 82 Dimersol 97 82 MTBE 115 99 ETBE 114 98 Nhiên liệu gasoil. Loại nhiên liệu này được cung cấp cho các động cơ Diezel, đây là các phương tiện tương đối phổ biến và đa dạng chủng loại từ các loại xe đặc biệt, xe chuyên dụng, từ xe tải nhỏ cho đến các xe tải nặng tải trọng đến 38 tấn và các động cơ Diezel không thuộc đường bộ: đầu máy xe lửa, tàu đánh cá, xe chuyên cho nghành xây dựng, máy kéo nông nghiệp, tàu thủy lớn... Và một phần được sử dụng cho các Turbin khí. Các chỉ tiêu kỹ thuật cơ bản. Khối lượng riêng. Khối lượng riêng của gasoil theo tiêu chuẩn Châu Âu (EW 590) có giá trị từ 0.82 đến 0.86 kg/l. Tỷ trọng ảnh hưỡng trực tiếp đến công suất của động cơ vì nhiên liệu được nạp vào động cơ và điều chỉnh theo thể tích. Mặt khác, phải khống giá trị tối đa của tỷ trọng để tránh hiện tượng đưa vào nhiên liệu các phân đoạn nặng gây khó khăn cho quá trình tự bốc cháy, làm tăng độ giàu cuả nhiên liệu, tăng sự thải khói và muội than. Độ nhớt. Độ nhớt của nhiên liệu rất quan trọng, độ nhớt quá cao sẽ ảnh hưởng đến chế độ tạo sương của nhiên liệu khi đưa vào buồng đốt. Ngoài ra, còn khả năng bơm và phun nhiên liệu vào buồng đốt, kích thước và hình dạng của kim phun. Độ nhớt của Gas oil ở 40 o C nằm trong khoảng 2.5 mm2/s ÷ 4.5 mm2/s. Các đặc trưng ở nhiệt độ thấp. Điểm vẩn đục: thông thường có giá trị từ -10 ÷ 0 0C. Điểm chảy: điểm chảy thay đổi theo loại Gas oil, thông thường có giá trị từ -15 ÷ -30 0C. Nhiệt độ lọc tới hạn: đối với Gas oil cổ điển, trong mùa đông nhiệt độ lọc tới hạn thường có giá trị từ -15 ÷ 25 0C. Để cải thiện các đặc trưng ở nhiệt độ thấp, người ta sử dụng các phụ gia hạ điểm chảy, đó là các Copolymere. Các phụ gia này có nhiệm vụ biến đổi cấu trúc tinh thể Parafin, tránh không để hình thành các tinh thể có cấu trúc bền vững. Các phụ gia này làm giảm đáng kể nhiệt độ lọc tới hạn và điểm chảy, nhưng hầu như không tác động lên điểm vẩn đuc. Đường cong chưng cất. Tiêu chuẩn của Pháp và Châu Âu quy định phần trăm thể tích chưng cất được như sau. < 65 % ở T = 250 0C. > 85 % ở T = 350 0C. > 95 % ở T = 3700C. Chỉ số Cetane. Theo tiêu chuẩn Châu Âu, đối với vùng ôn hòa, chỉ số Cetane tối thiểu là 49. Các sản phẩm phân bố ở Châu Âu và Pháp có chỉ số cetane trong khoảng 49 - 55. Đối với các nước ở cực bắc, chỉ số Cetane thấp hơn thường từ 45 - 46. Ở Mỹ và Canada, chỉ số Cetane thông thường <50. Để cải thiện chỉ số cetane người ta dùng các phụ gia gọi là Procetane. Có hai họ sản phẩm hữu cơ được thử nghiệm: các Peroxyde và các Nitrat. Trong thực tế thì Nitrat được sử dụng phổ biến do có sự thỏa hiệp giữa giá cả , hiệu quả và lắp đặt tốt hơn. Được biết đến nhiều hơn là các Nitrat alkyl, chính xác hơn là Nitrat của 2 - Ethyl - Hexyl. Phối liệu gasoil. Gasoil thường được phối liệu từ các phân đoạn sau. Phân đoạn GO của quá trình chưng cất trực tiếp dầu thô: tính chất của nó phụ thuộc đồng thời vào bản chất của dầu thô và việc chọn khoảng chưng cất. Dầu thô Parafinic cung cấp phân đoạn GO có chỉ số Cetane thỏa mãn nhưng các đặc trưng ở nhiệt độ thấp kém. Đối với dầu thô Naphtenic và Aromatic thì ngược lại. Việc gia tăng nhu cầu của GO buộc các nhà lọc dầu phải tăng điểm cuối của phân đoạn, điều này dẫn đến sự xuống cấp của điểm vẩn đục. Người ta nhận thấy khi tăng hiệu suất GO trên dầu thô 0.5 % m thì điểm vẩn đục tăng 10C. Phân đoạn GO từ quá trình Cracking xúc tác (LCO) được đặc trưng bởi chỉ số Cetane rất thấp (khoảng 20), hàm lượng Aromatic, S và N cao. Điều này dẫn đến việc hạn chế rất nhiều việc đưa phân đoạn này vào phối trộn GO (tối đa là 5 - 10%). Việc xử lý bằng Hydro LCO cho phép tăng chỉ số Cetane lên khoảng 40 và nhằm đạt được hàm lượng lưu huỳnh ở mức cho phép. Tuy nhiên công nghệ này tiêu tốn rất nhiều H2 mà kết quả nói chung là thấp, các Aromatic được chuyển hóa thành Naphten, quá trình tự bốc cháy thì khó khăn. Vì vậy, LCO được định hướng ưu tiên cho phối trộn dầu đốt dân dụng (FOD). Quá trình Hydrocracking cung cấp một phân đoạn GO có chất lượng rất tốt, bao gồm cả chỉ số Cetane, các tính chất ở nhiệt độ thấp, tính ổn định và hàm lượng S. Tuy nhiên, loại phối hiệu này chỉ có thể sử dụng với một lượng giới hạn vì phương pháp này vẫn còn ít phát triển, nguyên nhân chính là do chi phí cao. Ngoài ra còn có các quy trình mới khác cung cấp các phối liệu có thể sử dụng để phối trộn GO. Quy trình Olygome hóa các Olefin nhẹ, quy trình Hydro hóa liên tục, cung cấp các sản phẩm có chỉ số Cetane từ 40 - 50 không có S và Aromatic. Nhiên liệu phản lực. Đây là loại sản phẩm được dùng chủ yếu cho máy bay phản lực, ngoài ra có thể được dùng trong các Turbin trên mặt đất. Tồn tại nhiều loại nhiên liệu phản lực, tùy theo chúng được áp dụng cho dân sự hoặc quân sự. Sản phẩm được sử dụng phổ biến nhất là TRO hoặc JP8 còn được gọi là OTAN F34 va F35. Ở Mỹ, các nhiên liệu tương ứng, có cùng đặc trưng, được gọi là JETA1. Trong quân đội đôi khi còn sử dụng các loại nhiên liệu phản lực có độ bay hơi cao hơn gọi là TR4, JP4, JETB, F45 hoặc F40. Còn có một loại nhiên liệu phản lực khác hơi nặng hơn và ít bay hơi hơn TRO, mà cho phép dự trữ không gây nguy hiểm trong chiến đấu cơ, đó là TR5 hoặc JP5. Trong tất cả sản phẩm trên, TRO hoặc JET A1 có thị trường tiêu thụ mạnh hơn, bởi vì nó cung cấp cho hầu như toàn bộ các máy bay dân sự trên thế giới. Các chỉ tiêu kỹ thuật cơ bản. Tính chất vật lý của nhiên liệu phản lực. Để quá trình cháy diễn ra thuận lợi, nhiên liệu phải hóa hơi nhanh và trộn lẫn tốt với không khí. Điều này gắn liền với các chỉ tiêu kỹ thuật liên quan đến khối lượng riêng (từ 0.775 - 0.84 kg/l), đường cong chưng cất (>10% chưng cất ở 204 0C, điểm cuối < 300 0C) và độ nhớt động học (< 8 mm2/s ở -20 0C). Tính chất hóa học của nhiên liệu phản lực. Để duy trì một hiệu suất năng lượng cao và đảm bảo tuổi thọ của các vật liệu cấu tạo nhiên liệu phản lực cần phải có các tiêu chuẩn sau. Điểm khói: là chiều cao tối đa có thể của ngọn lửa mà không hình thành khói. Các giá trị nhận được thường từ 10 ÷ 40 mm và tiêu chuẩn của TRO ấn định ngưỡng tối thiểu là 25 mm. Điểm khói liên quan trực tiếp đến cấu trúc hóa học của nhiên liệu. Nó cao với các Parafin mạch thẳng thấp hơn với các Parafin mạch nhánh và còn thấp hơn nữa với các Naphten và Aromatic. Chỉ số độ sáng: Đối với các sản phẩm thương mại giá trị này thường từ 40 ÷ 70, đối với TRO bằng 45. Chỉ số độ sáng phụ thuộc trực tiếp vào hàm lượng các hợp chất Monoaromatic và Diaromatic. Vì lý do này, các chỉ tiêu kỹ thuật ấn định hàm lượng tối đa của Aromatic trong Kerosen là 20%. Hàm lượng lưu huỳnh: lưu huỳnh trong nhiên liệu bị hạn chế trong khoảng từ 0.2 ÷ 0.4% khối lượng. Tồn chứa nhiên liệu phản lực ở nhiệt độ thấp. Sau một vài giờ bay, bình chứa của máy bay phản lực có nhiệt độ khoảng từ -40 ÷ -500C. Trong trường hợp này cần phải quan tâm xem nhiên liệu có còn đủ lỏng để đảm bảo việc cung cấp cho động cơ hay không ?. Tính chất này được biểu thị bởi nhiệt độ biến mất tinh thể hoặc điểm đông đặc (ASTM D2386). Đối với JETA1 tối đa phải là -50 0C, nhưng thông thường chấp nhận giá trị -470C. Để cải thiện tính chất này có thể sử dụng các phụ gia chống tạo băng để hút nước và làm giảm điểm đông. Đó là các Ether - Alcol với lượng dùng tối đa là 1500 ppm. Phối liệu nhiên liệu phản lực. Các phối liệu để chế tạo nhiên liệu phản lực gần như duy nhất đến từ quá trình chưng cất trực tiếp dầu thô, tương ứng với khoảng phân đoạn từ 145 ÷ 2400C. Hiệu suất của phân đoạn phụ thuộc nhiều vào bản chất của dầu thô, nhưng thường là lớn hơn so với nhu cầu và hầu như là các tính chất của sản phẩm đều được thoả mãn. Ỏ Châu Âu nhiên liệu phản lực chiếm khoảng 6% thị trường dầu mỏ. Ngoài ra các phân đoạn trung bình nhận được từ quá trình Hydrocracking là đặc biệt thích hợp cho việc phối trộn nhiên liệu phản lực. Dầu đốt dân dụng (FOD). Nhu cầu về dầu đốt dân dụng đang giảm dần do sự phát triển của năng lượng hạt nhân và năng lượng điện. Dầu đốt dân dụng cũng bị cạnh tranh mạnh mẽ bởi khí tự nhiên. Tuy nhiên sự có mặt của nó trong cân bằng dầu mỏ, ở Pháp, Châu Âu và trên thế giới vẫn còn rất lớn sau năm 2000. Các chỉ tiêu kỹ thuật cơ bản. Tính chất vật lý. Dầu đốt dân dụng có một sự tương tự lớn với GO. Sự khác nhau chủ yếu giữa chúng là các tính chất ở nhiệt độ thấp. Đối với dầu đốt dân dụng chỉ tiêu này là như nhau cho tất cả các mùa. Các giá trị đòi hỏi là 20C, -40C và -90C tương ứng với điểm vẩn đục, nhiệt độ lọc tới hạn và điểm chảy. Đối với các tính chất vật lý khác, sự khác biệt các chỉ tiêu kỹ thuật giữa hai sản phẩm này rất nhỏ. Do đó để phân biệt giữa FOD và GO thường thì người ta pha thêm màu đặc trưng vào FOD (nhuộm màu đỏ thắm). Nói chung dầu đốt dân dụng nặng hơn, nhớt hơn, điểm đầu và điểm cuối chưng cất cao hơn GO. Đặc tính hóa học của FOD. Để dầu đốt hoạt động hiệu quả không hình thành cặn và gây ô nhiễm thấp nhất, thì cần thiết khi đốt FOD phải không sinh ra cặn. Tính chất này được biểu diễn bởi một đại lượng gọi là Carbon Conradson. Các tiêu chuẩn kỹ thuật ấn định Carbon Conradson tối đa là 0.35 %. Giới hạn này rất dễ thỏa mãn, trong thực tế giá trị thông dụng nhận được với các sản phẩm thương phẩm hiếm khi vượt qúa 0,1 %. Đối với các động cơ Diesel (xe tải, máy nông nghiệp hoặc máy công trình công cộng) mà dùng nhiên liệu là FOD tiêu chuẩn qui định: chỉ số Cetane tối thiểu là 40. Trong thực tế, chỉ số Cetane của sản phẩm này khá cao và thường lớn hơn 45. Hàm lượng lưu huỳnh của FOD. Tiêu chuẩn châu âu quy định đối với FOD, kể từ ngày 1/10/1994, hàm lượng lưu huỳnh tối đa là 0.2 %. Phối trộn FOD. Sự phối trộn của FOD hiện nay được thực hiện mà không gây khó khăn cho các nhà lọc dầu, trong số các phân đoạn trung bình có sẵn, FOD đòi hỏi một số đặc tính (chỉ số Cetane, tính chất ở nhiệt độ thấp) không khe khắt như của GO. Dầu nặng. Dầu nặng được áp dụng chủ yếu trong ha

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThuyet minh do an cong nghe 2.doc
  • rarDACN2.rar
  • xlsDACN2.xls
  • pdfHuong dan Do an Cong nghe I.pdf
Luận văn liên quan