Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân Hàng TMCP Ngọai Thương Việt Nam

Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) có ý nghĩa rất quan trọng với nền kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Loại hình này không những thích hợp với các nước công nghiệp phát triển mà còn đặc biệt thích hợp với nền kinh tế của các nước đang phát triển. Từ những bước đi ban đầu theo đường lối đổi mới và chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần do Đảng và nhà nước ta khởi xướng có thể khẳng định việc đẩy mạnh phát triển DNVVN là bước đi hợp quy luật với nước ta. DNVVN là công cụ góp phần khai thác toàn diện mọi nguồn lực kinh tế, góp phần giải quyết vấn đề : Tăng trướng kinh tế- công ăn việc làm. Đặc biệt là khi Việt Nam hội nhập sâu vào kinh tế khu vực và thế giới từ một nền kinh tế chưa phát triển. Những biến động của thị trường hàng hóa, thị trường tài chính thế giới đã và đang có tác động ảnh hưởng đối với nền kinh tế đất nước trong mối quan hệ thị trường thông qua các hoạt động đầu tư, họat động thương mại dịch vụ giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Chính vì thế vấn đề tăng trưởng và phát triển ổn định, bền vững nền kinh tế trong điều kiện hiện nay và trong dài hạn được đặt ra và quan tâm hơn bao giờ hết. Trong đó, việc phát huy hiệu quả nội lực nền kinh tế có ý nghĩa đặc biệt, mà vai trò của DNVVN là rất quan trọng. Tuy có vai trò lớn như vậy nhưng hoạt động của loại hình doanh nghiệp này ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn, chưa phát huy được tiềm năng to lớn của nó. Nguyên nhân, một mặt do hạn chế của bản thân các doanh nghiệp, mặt khác cơ chế, chính sách và biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nước còn chưa đồng bộ. Để thúc đẩy DNVVN ở nước ta phát triển đòi hỏi phải giải quyết các vấn đề trên, trong đó vấn đề lớn nhất, cơ bản và phổ biến nhất đó là thiếu vốn sản xuất, đổi mới công nghệ. Thực tế hiện nay cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho phát triển DNVVN còn rất hạn chế vì DNVVN khó đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn mà ngân hàng đề ra, hơn nữa khi tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng thì các doanh nghiệp lại sử dụng vốn chưa hiệu quả và hợp lí. Vì thế việc tìm ra giải pháp nhằm mở rộng tín dụng cho DNVVN một cách hiệu quả đang là yêu cầu bức thiết hiện nay. Xuất phát từ quan điểm đó, và thực trạng hoạt động của các DNVVN hiện nay nên em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân Hàng TMCP Ngọai Thương Việt Nam” cho khóa luận tốt nghiệp lần này.

docx92 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 1566 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân Hàng TMCP Ngọai Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) có ý nghĩa rất quan trọng với nền kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Loại hình này không những thích hợp với các nước công nghiệp phát triển mà còn đặc biệt thích hợp với nền kinh tế của các nước đang phát triển. Từ những bước đi ban đầu theo đường lối đổi mới và chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần do Đảng và nhà nước ta khởi xướng có thể khẳng định việc đẩy mạnh phát triển DNVVN là bước đi hợp quy luật với nước ta. DNVVN là công cụ góp phần khai thác toàn diện mọi nguồn lực kinh tế, góp phần giải quyết vấn đề : Tăng trướng kinh tế- công ăn việc làm. Đặc biệt là khi Việt Nam hội nhập sâu vào kinh tế khu vực và thế giới từ một nền kinh tế chưa phát triển. Những biến động của thị trường hàng hóa, thị trường tài chính thế giới đã và đang có tác động ảnh hưởng đối với nền kinh tế đất nước trong mối quan hệ thị trường thông qua các hoạt động đầu tư, họat động thương mại dịch vụ giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Chính vì thế vấn đề tăng trưởng và phát triển ổn định, bền vững nền kinh tế trong điều kiện hiện nay và trong dài hạn được đặt ra và quan tâm hơn bao giờ hết. Trong đó, việc phát huy hiệu quả nội lực nền kinh tế có ý nghĩa đặc biệt, mà vai trò của DNVVN là rất quan trọng. Tuy có vai trò lớn như vậy nhưng hoạt động của loại hình doanh nghiệp này ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn, chưa phát huy được tiềm năng to lớn của nó. Nguyên nhân, một mặt do hạn chế của bản thân các doanh nghiệp, mặt khác cơ chế, chính sách và biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nước còn chưa đồng bộ. Để thúc đẩy DNVVN ở nước ta phát triển đòi hỏi phải giải quyết các vấn đề trên, trong đó vấn đề lớn nhất, cơ bản và phổ biến nhất đó là thiếu vốn sản xuất, đổi mới công nghệ. Thực tế hiện nay cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho phát triển DNVVN còn rất hạn chế vì DNVVN khó đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn mà ngân hàng đề ra, hơn nữa khi tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng thì các doanh nghiệp lại sử dụng vốn chưa hiệu quả và hợp lí. Vì thế việc tìm ra giải pháp nhằm mở rộng tín dụng cho DNVVN một cách hiệu quả đang là yêu cầu bức thiết hiện nay. Xuất phát từ quan điểm đó, và thực trạng hoạt động của các DNVVN hiện nay nên em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân Hàng TMCP Ngọai Thương Việt Nam” cho khóa luận tốt nghiệp lần này. 2. Mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về DNVVN và phân tích thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với DNVVN tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra hệ thống các giải pháp kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng đối với DNVVN tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNVVN tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp mở rộng hoạt động này. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động tín dụng đối với DNVVN tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009. 4. Phương pháp nghiên cứu. Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp và phân tích thống kêkết hợp giữa lý luận và thực tiễn. 5. Kết cấu của đề tài. Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận được kết cấu thành 3 chương : Chương 1: Lý luận về DNVVN và tín dụng của ngân hàng đối với DNVVN Chương 2: Thực trạng mở rộng tín dụng đối với DNVVN tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam. Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng đối với DNVVN tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam. Do sự hạn chế về mặt kiến thức và nguồn tài liệu nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý bổ sung để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Kim Anh đã tận tình hướng dẫn và đóng góp ý kiến, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành tốt khóa luận này. Hà Nội, ngày tháng năm 2010 Sinh viên Quách Thị Dương CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ. Lý luận về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo cách xác định của các nước trên thế giới thì tiêu chí để xét DNVVN thường dựa vào các yếu tố : vốn, lao động, doanh thu. Tuy nhiên từng nước sử dụng các tiêu chí này khác nhau : Bảng 1.1. Tiêu chí xác định DNVVN ở một số nước Nước Các tiêu chí áp dụng Số lao động (người) Tổng vốn hoặc giá trị tài sản Doanh thu Canada <500 <20triệu CAD Nhật <50 (bán lẻ) <100 (bán buôn) <300 (ngành khác) <10 triệu Yên <30 triệu Yên <100 triệu Yên Singapore <100 <499 triệu SGD Thái Lan <100 <20 triệu Bath Mỹ <500 Hong Kong <100 (Cnghiệp) <50 (dịch vụ) Phillipin <200 <100 triệu Pêsô (Nguồn: tổng hợp từ internet) Sự khác nhau về tiêu chí xác định DNVVN của các nước là khách quan và hợp lí, vì mỗi nước có trình độ phát triển kinh tế khác nhau cũng như có các chính sách, biện pháp hỗ trợ và định hướng phát triển các DNVVN của riêng mình. Tiêu chí xác định DNVVN ở mỗi nước cũng có thể được thay đổi phù hợp với chiến lược phát triển của từng thời kì. Ở Việt Nam, theo nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 23/11/2001 thì: “tiêu chí xác định DNVVN đó là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Theo cách phân loại này thì Việt Nam có khoảng 483.500 DNVVN chiếm hơn 90% trong tổng số doanh nghiệp. Việc xác định DNVVN như trên là phù hợp với thự tế khách quan của nước ta vì các doanh nghiệp với nguồn vốn có hạn, lao động dồi dào, đáp ứng được yêu cầu bức bách của xã hội là đảm bảo công ăn việc làm, nâng cao mức sống của đại đa số nhân dân lao động, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo 1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ. * Những đặc điểm thuận lợi : - Về vốn : Do điều kiện để thành lập một DNVVN không đòi hỏi cần số vốn lớn nên hầu hết các DNVVN ở Việt Nam có quy mô vốn tự có nhỏ. So với các doanh nghiệp qui mô lớn, DNVVN thường có hiệu suất sử dụng vốn cao hơn do lĩnh vực sản xuất kinh doanh chủ yếu hướng tới phục vụ trực tiếp đời sống xã hội, nhằm vào những sản phẩm có sức mua cao, ngoài ra chu kì sản xuất kinh doanh ngắn, lại diễn biến theo mùa nên tốc độ quay vòng vốn nhanh từ đó mang lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp. - Về bộ máy tổ chức quản lý của DNVVN: cơ cấu tổ chức thường nhỏ gọn, ít cấp bậc và khộng bị chồng chéo, vì thế đã đem lại hiệu quả điều hành hết sức linh hoạt và tích cực trong quản trị doanh nghiệp. - DNVVN tồn tại phát triển ở mọi ngành nghề, mọi thành phần kinh tế và hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả trong những lĩnh vực mà DN lớn không muốn tham gia hoặc không thể vươn tới hết. Chúng chiếm tới hơn 90% số DN nước ta, tạo ra một lượng hàng hoá dịch vụ đáp ứng đầy đủ và kịp thời mọi nhu cầu dù là nhỏ nhất của tất cả các tầng lớp xã hội - Về lao động : DNVVN có quy mô lao động nhỏ, chủ yếu sử dụng lao động giản đơn trình độ tay nghề chưa cao do đó có thể tận dụng nguồn nhân lực dồi dào của nước ta. * Những đặc điểm tạo nên bất lợi cho DNVVN: - Về công nghệ thiết bị : Do điều kiện ban đầu nhỏ bé nên công nghệ thiết bị của DNVVN thường lạc hậu hơn so với các DN lớn. Nhất là đối với những nước kinh tế đang phát triển như nước ta thì điều kiện để DNVVN tiếp cận với công nghệ tiên tiến là không dễ dàng như các nước phát triển, do đó làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm. - Về thông tin của các DNVVN : thường không minh bạch do hạn chế kiến thức về kế toán, tài chính, việc lập các BCTC có độ chính xác không cao. Hơn nữa chủ yếu các DNVVN không có tài sản đảm bảo để vay vốn nên gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình thẩm định tài chính, thẩm định tài sản thế chấp, do đó DNVVN không thể tiếp cận nguồn vốn ngân hàng và luôn trong tình trạng “khát vốn, thiếu vốn” cho việc mở rộng SXKD, đầu tư cải tiến máy móc thiết bị. - Việc lập kế hoạch kinh doanh và phương án kinh doanh của chủ DNVVN còn kém, thiếu tính chuyên nghiệp. - Trình độ lao động trong DNVVN còn hạn chế. Người lao động ít được đào tạo bồi dưỡng chuyên môn do kinh phí hạn hẹp, do vậy kỹ năng tay nghề của người lao động không cao. Ngoài ra sự không ổn định khi làm việc cho các DNVVN, cơ hội phát triển thấp cũng tác động làm nhiều lao động có tay nghề cao không muốn làm việc cho khu vực doanh nghiệp này. - Chưa có khả năng liên kết hợp tác giữa các DNVVN với nhau, với các hiệp hội, với phòng thương mại, với ngân hàng 1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế. DNVVN có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng và không thể thiếu trong nền kinh tế của mỗi nước kể cả những nước có trình độ phát triển cao. Vị trí, vai trò của các DNVVN được thể hiện qua những điểm sau: Thứ nhất, DNVVN góp phần giải quyết các mục tiêu kinh tế xã hội . Vai trò của các DNVVN không chỉ thể hiện ở giá trị kinh tế mà nó tạo ra, quan trọng hơn và có ý nghĩa then chốt là tạo công ăn việc làm. DNVVN là thành phần kinh tế tạo ra một khối lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động, giúp người lao động có điều kiện làm việc, có thu nhập ổn định và có điều kiện để cải thiện cuộc sống. Theo thống kê, có tới 90% việc làm mới được tạo ra từ khu vực này, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển đồng đều giữa các vùng, khu vực trong cả nước. + Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, các DNVVN đang chiếm khoảng 60% GDP và 70% lực lượng lao động tại những nước có tổng thu nhập quốc dân (GNP) từ 100-500 USD/năm/người, đóng góp 50% GDP và chiếm 65% lực lượng lao động tại các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Còn ở Việt Nam, theo thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư thì mỗi năm các DNVVN tạo ra khoảng 30% trong GDP của cả nước, 31% tổng giá trị sản lượng công nghiệp. + Khai thác và phát huy tốt nguồn lực tại chỗ, góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong dân cư. Thực tế cho thấy DNVVN có mặt ở hầu hết các vùng, địa phương từ đó tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lí, chuyên môn hoá và tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng của cả nước. + Góp phần khai thác tiềm năng của ngành nghề truyền thống ở cả nước từ đó tăng nguồn hàng xuất khẩu cho các sản phẩm truyền thống, đóng góp đáng kể vào sự phát triển và ổn định kinh tế của mỗi nước. Thứ hai, DNVVN cung cấp một khối lượng lớn về sản phẩm. DNVVN có quy mô nhỏ nhưng có số lượng rất lớn trong nền kinh tế, là loại hình doanh nghiệp chiếm 90% tổng doanh nghiệp trong nền kinh tê. Chính vì vậy, các doanh nghiệp này có thể hoạt động trên nhiều lĩnh vực sản xuất khác nhau của nền kinh tế: từ sản xuất, kinh doanh, chế biến, thương mại, dịch vụ, du lịch trong tất cả lĩnh vực của nền kinh tế như: công nghiệp, tiểu thủ công, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và hoạt động cả ở khu vực thành thị cũng như các khu vực nông thôn, miền núi. Do đó, các sản phẩm của DNVVN hết sức phong phú, ngày càng đáp ứng được mọi nhu cầu xã hội. Thứ ba, DNVVN có vai trò đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng và thế mạnh của vùng. Do quy mô vừa và nhỏ nên các DNVVN có thể đặt văn phòng, nhà xưởng, kho bãi khắp nơi trên đất nước nhằm khai thác tiềm năng và thế mạnh về đất đai, tài nguyên và lao động của từng vùng nhất là các ngành nông- lâm- hải sản và nghành công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản. Chính vì thế, trong những năm qua Đảng ta đã rất chú trọng đến việc phát triển các DNVVN như đưa ra các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại ở vùng núi phía Bắc, vùng cao nguyên Nam Trung Bộ và các làng nghề truyền thống. nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở các địa phương. Thứ tư, DNVVN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Phát triển DNVVN sẽ chuyển biến hết sức quan trọng về cơ cấu kinh tế, từ nền sản xuất thuần nông là chủ yếu sang một nền kinh tế công nghiệp phát triển mạnh, làm tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Sự phát triển của các doanh nghiệp này ở các vùng nông thôn tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại dịch vụ, tiểu thuơng phát triển. Tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân vì thế mà có thể được thu hẹp dần. Ngoài ra, các DNVVN thúc đẩy quá trình đô thị hóa, thu hút và tập trung dân cư vào các vùng trọng điểm. Từ đó thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. Ngoài ra DNVVN còn có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa, cung ứng dịch vụ, là các vệ tinh gắn kết, hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp lớn. DNVVN còn là tiền đề tạo ra những doanh nghiệp lớn, với những doanh nghiệp thành công, quy mô của các doanh nghiệp được mở rộng và nhiều doanh nghiệp trong số này dần trở thành những doanh nghiệp lớn. => Với những vai trò quan trọng như vậy thì yêu cầu phát triển DNVVN là nhiệm vụ vô cùng cấp thiết. Để góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ đó chúng ta cần quan tâm tới việc hỗ trợ vốn cho DNVVN, nhất là nguồn vốn tín dụng ngân hàng. 1.1.4 Các kênh huy động vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế. Vốn là nguồn lực quan trọng nhất và không thể thiếu cho doanh nghiệp khi bắt đầu hoạt động, vốn được sử dụng trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất. Ngoài nguồn vốn tự có doanh nghiệp còn có thể tận dụng các nguồn tài trợ từ bên ngoài như sau: * Nguồn phi chính thức: - Vay gia đình và bè bạn : Họ là những người tin tưởng vào chủ doanh nghiệp, đây là nguồn vốn dễ tiếp cận thứ nhì sau vốn tự có. Tuy nhiên lượng vốn huy động được không nhiều và không có sẵn mọi lúc cần thiết . - Vay thông qua hình thức trả chậm, chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp có quan hệ đối tác. Nguồn này có ưu điểm là khá linh hoạt và chi phí thấp, dựa trên cơ sở lòng tin và không cần tài sản thế chấp. Tuy nhiên nó cũng có nhiều hạn chế như: qui mô nhỏ, ngắn hạndo đó khó có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển DNVVN. * Các nguồn chính thức: - Các chương trình của chính phủ: Nhiều chính phủ và chính quyền địa phương có các chương trình xúc tiến DNVVN. VD: ở Mỹ, Cục Quản lý Doanh nghiệp nhỏ (SBA) hỗ trợ nhiều doanh nghiệp nhỏ bằng cách bảo lãnh cho các khoản vay từ các tổ chức tư nhân cho những người bình thường không có đủ tài sản thế chấp cho khoản vay thương mại. Còn ở nước ta thì chủ yếu thông qua hoạt động của quĩ hỗ trợ phát triển và ngân hàng chính sách xã hội . - Các chương trình tín dụng của tổ chức và chính phủ nước ngoài như: Quỹ phát triển DNVVN của cộng đồng Châu Âu SMEDF, tín dụng hỗ trợ của ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản JBIC, công ty tài chính quốc tế tại Việt Nam IFC - Nguồn huy động vốn trên TTCK thông qua việc niêm yết và phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Tuy nhiên không phải DNVVN nào cũng có thể đáp ứng được các điều kiện niêm yết, phát hành hết sức chặt chẽ trên TTCK. - Thuê tài chính : Việc cho thuê tài chính rất hữu ích cho các DNVVN thông qua việc cung cấp thiết bị để nâng cao chất lượng và năng suất sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh. Ở Việt Nam hình thức này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng. - Vay vốn từ các TCTD hiện hành bao gồm NHTM nhà nước, NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh hoặc chi nhánh các ngân hàng nước ngoài Tuy nhiên theo điều tra mới đây về thực trạng DNVVN của Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho thấy chỉ có 32,38% DNVVN có khả năng tiếp cận được các nguồn của các ngân hàng . 1.2 Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1.2.1 Khái niệm, đặc trưng, phân loại tín dụng ngân hàng. 1.2.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng. Tín dụng là một phạm trù kinh tế khách quan, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hóa, điều hòa vốn tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế từ nơi thừa sang nơi thiếu ,nhằm đáp ứng được yêu cầu về vốn của nền kinh tế. Theo C.Mac, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu này sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Xét trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng được hiểu như sau: “ Tín dụng ngân hàng là một quan hệ giao dịch về tài sản giữa hai chủ thể trong đó một bên là người cho vay (ngân hàng) chuyển giao một lượng giá trị (tiền hoặc hàng hóa) cho người đi vay (cá nhân, doanh nghiệp, và các chủ thể khác) sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận đồng thời bên đi vay phải cam kết hoàn trả vốn gốc kèm theo một khoản lãi khi đến hạn thanh toán”. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng. - Tín dụng ngân hàng được thiết lập trên cơ sở lòng tin - Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn có thời hạn. Nếu không có thời hạn thì không gọi là quan hệ tín dụng hoàn chỉnh - Tín dụng ngân hàng mang tính hoàn trả cả gốc và lãi - Hoạt động tín dụng luôn chứa đựng khả năng xảy ra rủi ro. Đó là những khoản lỗ tiềm năng mà ngân hàng phải gánh chịu khi đến hạn mà khách hàng không thực hiện, không có khả năng thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình. - Ngoài ra hoạt động tín dụng luôn bị chi phối bởi các qui luật kinh tế khách quan của thị trường như: qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh, qui luật giá trị, qui luật lưu thông tiền tệ 1.2.1.3 Phân loại tín dụng ngân hàng. Căn cứ vào thời hạn cho vay và mục đích sử dụng vốn của người đi vay tín dụng ngân hàng được phân chia thành: - Tín dụng ngắn hạn tài trợ cho kinh doanh Tín dụng ngắn hạn là hình thức cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu này, tín dụng ngắn hạn cung cấp nguồn vốn để doanh nghiệp mua vật tư, hàng hóa và các khoản chi phí để thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh với thời hạn cho vay ngắn hạn tùy thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh hoặc thời hạn thu hồi vốn của phương án sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng nhưng tối đa không quá 12 tháng. + Các phương thức cho vay ngắn hạn được áp dụng : Cho vay theo hạn mức tín dụng Phương thức này áp dụng cho các đơn vị vay vốn có nhu cầu vay vốn phát sinh thường xuyên, liên tục. Và đơn vị vay vốn là đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi ổn định, vững chắc, có uy tín trong giao dịch, thanh toán, có công tác quản lý tổ chức kế toán nề nếp, ổn định lập bảng cân đối kế toán hàng tháng, quý và có tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh. Cho vay từng lần ( cho vay theo món ) Phương thức này áp dụng cho các đơn vị tổ chức kinh tế có nhu cầu vay vốn không thường xuyên có tính chất đột xuất. Cho vay trả góp Phương thức này áp dụng cho khách hàng không có nhiều vốn hoặc những cá nhân có nhu cầu vay vốn để xây nhà, sửa chữa nhà, mua sắm phương tiện. Cho vay theo hạn mức thấu chi Thấu chi là một kỹ thuật cấp tín dụng cho khách hàng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng chi vượt số dư có trên tài khoản thanh toán của khách hàng để thực hiện các giao dịch thanh toán kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Chiết khấu: là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó khách hàng chuyển nhượng giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để nhận lấy khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức chiết khấu và hoa hồng phí. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng Các phương thức cho vay khác - Tín dụng trung và dài hạn + Cho vay trung hạn: là các khoản có thời hạn vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, máy móc thiết bị, nhằm mở rộng, cải tạo, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ mới. Tín dụng trung hạn còn nhằm đầu tư xây dựng các dự án mới có qui mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. + Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 60 tháng trở lên, thời hạn tối đa có thể lên đến 30 năm. Tín dụng dài hạn được cấp cho các nhu cầu xây dựng cơ bản, xây dựng cơ sở hạ tầng như đường bộ, đường sắt, đường thủy, bến bãi, cầu phà, xây dựng mới cơ sở vật chất cho các ngành kinh tế mũi nhọn, mua sắm tài sản