Giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam

TTCK, theo nghĩa rộng được gọi là thị trường vốn (Capital market). Ở đây các giấy nợ trung, dài hạn (chứng khoán có thời hạn trên 1 năm) và các loại cổ phiếu được mua bán. TTCK là thị trường tạo lập và cung ứng vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Các công cụ ở TTCK bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu chính quyền địa phương, các hợp đồng vay thế chấp. Các công cụ trên thị trường vốn thường có thời hạn dài như trái phiếu, cổ phiếu… do đó giá cả của nó dao động rộng hơn so với các công cụ của thị trường tiền tệ. Vì vậy, nó được coi là những CK có độ rủi ro cao hơn, và vì vậy cơ chế phát hành và lưu thông chúng khá chặt chẽ nhằm hạn chế những biến động và thiệt hại cho nền kinh tế

doc14 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2448 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 1.1 NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ TTCK 1.1.1 Khái niệm TTCK TTCK, theo nghĩa rộng được gọi là thị trường vốn (Capital market). Ở đây các giấy nợ trung, dài hạn (chứng khoán có thời hạn trên 1 năm) và các loại cổ phiếu được mua bán. TTCK là thị trường tạo lập và cung ứng vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Các công cụ ở TTCK bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu chính quyền địa phương, các hợp đồng vay thế chấp. Các công cụ trên thị trường vốn thường có thời hạn dài như trái phiếu, cổ phiếu… do đó giá cả của nó dao động rộng hơn so với các công cụ của thị trường tiền tệ. Vì vậy, nó được coi là những CK có độ rủi ro cao hơn, và vì vậy cơ chế phát hành và lưu thông chúng khá chặt chẽ nhằm hạn chế những biến động và thiệt hại cho nền kinh tế 1.1.2 Phân loại TTCK  Căn cứ vào tính chất phát hành hay lưu hành chứng khoán, TTCK được chia làm 2 cấp: - Thị trường sơ cấp: hay thị trường phát hành; là hoạt động chào bán ra công chứng lần đầu tiên một loại chứng khoán của Chính Phủ hay doanh nghiệp, đó chính là việc phát hành chứng khoán ra công chúng. Trừ trái phiếu chính phủ, tất cả các tổ chức kinh tế muốn phát hành chứng khoán đều phải được phép của UBCKNN. Thông thường việc phát hành CK ra công chứng được sự giúp đỡ của các tổ chức tài chính trung gian như công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư… - Thị trường thứ cấp hay thị trường lưu hành CK là hoạt động chuyển nhượng quyền sở hữu CK từ tay nhà đầu tư này sang tay nhà đầu tư khác. Trên thị trường này các nhà đầu tư có thể mua và bán chứng khoán rất nhiều lần. Hàng ngày một khối lượng rất lớn chứng khoán được giao dịch qua các TTCK trên thế giới lên đến hàng ngàn tỷ USD. - Mối liên quan giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là tiền đề cho hoạt động của thị trường thứ cấp bởi vì chính nơi đây đã tạo ra hàng hĩa cho thị trường giao dịch. Ngược lại, thị trừơng thứ cấp tạo động lực cho sự phát triển của thị trường sơ cấp. Chính việc giao dịch mua đi bán lại trên thị trường thứ cấp đã tạo ra tính thanh khoản cho CK, đó là tính chất dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt. Các nhà đầu tư nắm giữ các loại CK thường nhắm các cơ hội bán đi CK để kiếm lời, chính tính thanh khoản đã thu hút các nhà đầu tư đến với TTCK  Căn cứ vào tính chất pháp lý của hình thức tổ chức thị trường chia ra: TTCK tập trung (SGDCK) hay TTCK không tập trung (OTC) TTCK tập trung: là địa điểm hoạt động chính thức của các giao dịch chứng khoán gọi là SGDCK. Đó là nơi các nhà môi giới kinh doanh chứng khoán gặp gỡ để đấu giá, thương lượng mua bán chứng khoán cho khách hàng hay cho chính mình theo những nguyên tắc và quy chế giao dịch của SGDCK đề ra trên cơ sở của Luật chứng khoán. TTCK không tập trung ( thị trường OTC): là hoạt động giao dịch của CK không thông qua SGDCK, mà thực hiện bởi các công ty chứng khoán thành viên ở rải rác khắp nơi trên đất nước. Phương thức giao dịch thông qua mạng điện thoại và vi tính.  Căn cứ vào phương thức giao dịch của thị trường, chia ra 2 loại thị trường Thị trường giao ngay (Spot market) là thị trường của những giao dịch CK mà lệnh của khách hàng được thực hiện ngay căn cứ vào giá trị hiện tại và sẽ thanh tốn vào một ngày gần sau đó. Thị trường kỳ hạn hay thị trường tương lai ( Future market) là thị trường của các hợp đồng tương lai và các công cụ dẫn xuất từ chứng khoán. Hợp đồng được ký kết căn cứ vào giá cả hiện tại, nhưng giao dịch thanh tốn lại diễn ra một ngày ở tương lai trong kỳ hạn. 1.1.3 Chức năng của TTCK  Công cụ tập trung vốn cho nền kinh tế: vai trị quan trọng đầu tiên của TTCK là thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân để hình thành các nguồn vốn khổng lồ có khả năng tài trợ cho các dự án đầu tư dài hạn phát triển kinh tế cũng như tài trợ tăng vốn mở rộng sản xuất kinh doanh. TTCK là công cụ huy động vốn hết sức hữu hiệu không những trong nước mà cả nước ngoài. Đối với nước ta, các nguồn vốn lớn cịn tiềm tang trong nhân dân chưa được đưa vào sản xuất kinh doanh, thì việc cần có một TTCK song hành với sự ra đời của các công ty cổ phần là một chiến lược kinh tế trước mắt cũng như lâu dài.  Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư:TTCK tạo ra cơ hội thuận tiện khuyến khích mọi người dân tiết kiệm và biết cách sử dụng tiền tiết kiệm một cách tích cực mang lại hiệu quả qua việc đầu tư vào các loại chứng khoán. Khả năng sinh lời của các loại CK gây ra ý muốn tiết kiệm để đưa tiền vào đầu tư. Mỗi người trong xã hội chỉ có một số tiền tiết kiệm bé nhỏ, nhưng tổng số tiền tiết kiệm của cả xã hội sẽ to lớn hơn bất cứ tài sản của cá nhân nào. Mặt khác, trong xã hội cũng tồn tại các quỹ tiền tệ tập trung: ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại, quỹ bảo hiểm…đều có mục đích khuyến khích tiết kiệm, nhưng các quỹ tiền tệ này cũng chỉ phát huy hết tác dụng của nó khi có một TTCk tồn tại song hành với nó. 1.1.4 Vai trị của TTCK  Công cụ đảm bảo thanh khỏan cho sổ tiết kiệm phục vụ đầu tư dài hạn: Vai trị của TTCK bảo đảm cho việc nhanh chóng chuyển tiền mặt của các chứng khoán có giá. Đây chính là yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư đến với TTCK, với một TTCK hoạt động càng hữu hiệu thì tính thanh khỏan càng cao.  Công cụ đo lường giá trị các tích sản của doanh nghiệp: Những thông tin doanh nghiệp cung cấp cho các nhà đầu tư trên TTCK qua các bảng phân tích đánh giá năng lực sản xuất của doanh nghiệp, triển vọng của doanh nghiệp trên thị trường, khả năng sinh lợi của hoạt động sản xuất kinh doanh, xu thế phát triển của doanh nghiệp trong thời kỳ tương lai từ 3 đến 5 năm đã phần nào lượng giá được tích sản của doanh nghiệp khách quan và khoa học. Mặt khác, với tính chất đặc biệt nhạy bén của TTCK, sự lên xuống gía cả chứng kháon trên thị trường cũng nói lên sự biến động của giá trị doanh nghiệp tại bất kỳ thời điểm nào  Thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả: với nguyên tắc hoạt động chủ đạo trên TTCK là công khai, công bằng và trung thực, mọi thông tin về doanh nghiệp đều được công chứng kiểm tra đánh giá. TTCK vừa tạo điều kiện vừa bắt buộc các doanh nghiệp không những phải hoạt động sản xuất kinh doanh đúng pháp luật mà cịn phải hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả  Vai trị chống lạm phát của TTCK: TTCK cịn làm giảm áp lực lạm phát, Ngân hàng TW với vai trị điều hịa hệ thống tiền tệ sẽ tung ra nhiều trái phiếu kho bạc bán trên TTCK với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền lưu hành, nhờ đó số tiền sẽ giảm bớt và áp lực lạm phát cũng giảm đi.  Hỗ trợ và thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và phát triển: có thể nói, hai loại định chế tài chính này đi đơi với nhau như hình với bĩng. Thật vậy, TTCK là điều kiện không thể thiếu trong việc đưa cổ phiếu ra công chứng giúp cho quá trình phát hành và lưu hành cổ phiếu đạt hiệu quả. Những đóng góp của TTCK đối với nền kinh tế hiển nhiên là rất to lớn. Hiện nay, hầu hết các quốc gia theo cơ chế thị trường đều có tổ chức TTCK, ngay cả các quốc gia đang phát triển cũng hình thành và phát triển TTCK của họ làm công cụ đắc lực trong việc huy động vốn cho đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, TTCK được coi là một công cụ cực kỳ nhạy bén và tinh xảo cũng có những mặt trái của nó, những tác động tiêu cực vơ cùng nguy hiểm đối với nền tài chính của một quốc gia nếu nó không được điều hành một cách lành mạnh, hợp pháp và đúng quy luật. 1.2 ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGỒI 1.2.1 Khái niệm “ Đầu tư gián tiếp nước ngoài” Lý thuyết và thực tiễn hoạt động đầu tư đã phân biệt hai hình thức đầu tư chủ yếu: trực tiếp và gián tiếp. Đầu tư trực tiếp nước ngoài dùng chỉ các hoạt động đầu tư vật chất của nhà đầu tư của một nền kinh tế vào việc hình thành nên một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác nhằm mục đích kinh doanh lâu dài. Khái niệm đầu tư gián tiếp xuất hiện khi TTCK phát triển, việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu trở nên phổ biến, nhiều nhà đầu tư thay vì phương thức đầu tư trực tiếp truyền thống đã lựa chọn phương thức đầu tư thông qua một công ty khác (thường là các tổ chức tài chính) hoặc mua cổ phiếu, trái phiếu của các doanh nghiệp, các tổ chức tự trị có hạch tốn hoặc của Chính phủ. Để phản ánh các hoạt động đầu tư nêu trên, thuật ngữ “Portfolio investment” được đưa ra. Như vậy, Portfolio Investment là thuật ngữ phản ánh các hoạt động đầu tư không phải là đầu tư trực tiếp truyền thống. Khi TTCK phát triển ở quy mơ quốc tế, hoạt động mua bán chứng khoán được mở rộng cho các nhà đầu tư quốc tế và được tổ chức liên thông ở nhiều TTCK khác nhau, ranh giới giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) trở nên khĩ phân định, từ đó cách hiểu về FDI và FPI có sự thay đổi đáng kể. Vì vậy, đầu tư gián tiếp nước ngoài có thể tạm hiểu theo nghĩa khá rộng thông qua 3 hình thức: - “Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác” (kể cả của doanh nghiệp, các tổ chức tự trị được phép phát hành và của chính phủ) - Đầu tư “thông qua Quỹ đầu tư chứng khoán” - “Thông qua các định chế tài chính trung gian khác”. Với nghĩa rộng như vậy, đầu tư gián tiếp nước ngoài được hiểu tương đương với thuật ngữ Foreign Portfolio Investment (FPI) 1.2.2 Các kênh, hình thức FPI: Xét trên bình diện quốc tế, FPI có 2 kênh chính: FPI trực tiếp và FPI gián tiếp. Mỗi kênh này lại có một số hình thức đầu tư cụ thể.. 1.2.2.1 FPI theo phương thức trực tiếp: kênh FPI này có hai hình thức: - Mua các chứng chỉ đầu tư nước ngoài tại thị trường nước ngoài. - Mua các chứng chỉ đầu tư nước ngoài tại thị trường tài chính trong nước. 1.2.2.2 FPI theo phương thức gián tiếp: kênh này có 3 hình thức: - Mua các trái phiếu Châu Âu có quyền mua cổ phiếu (Equity- linked Eurobonds). Trên thị trường tài chính có lưu hành 2 loại trái phiếu Châu Âu: trái phiếu gắn với quyền mua cổ phiếu (Eurobonds with warrante) và trái phiếu chuyển đổi (transation eurobond). - Mua cổ phiếu của các công ty liên quốc gia ( MNC), các MNC luơn có đầu tư (trực tiếp và gián tiếp) vào các quốc gia khác. - Đầu tư thông qua các quỹ tương hỗ quốc tế (International Mutul funds) Mỗi một kênh, hình thức đầu tư nêu trên có đặc điểm nhất định. Xét về hình thức chứng từ có giá trong đầu tư gián tiếp, ta có các hình thức FPI sau: - Mua cổ phiếu công ty và các tổ chức được phép phát hành. - Mua trái phiếu công ty. - Mua trái phiếu Chính phủ. 1.2.3.2 Tác động của FPI: FPI có vai trị lớn trong nển kinh tế tịan cầu nói chung và đối với từng nước nói riêng. FPI có tác động nhiều mặt, cả tích cực và tiêu cực đối với nước đầu tư và nước nhận vốn đầu tư. 1.2.3.2.1 Tác động tích cực Đối với nước đầu tư o Đa dạng hĩa cơ cấu đầu tư, cho phép các nhà đầu tư có thể chuyển vốn đến những thị trừơng mới nổi có mức lợi nhuận kinh doanh cao (kèm theo hệ số rủi ro lớn). Bằng cách đầu tư FPI, các nhà đầu tư có thể nhanh chóng khắc phục xu hướng lợi nhuận bình quân giảm dần, nâng cao hiệu quả kinh doanh. o San sẽ rủi ro kinh doanh sang các khu vực khác, đặc biệt là các khu vực thị trường mới nổi. So với đầu tư trực tiếp (FDI), khả năng san sẽ rủi ro qua đầu tư gián tiếp (FPI) nhạy bén hơn và đa dạng hơn. o Thông qua đầu tư gián tiếp, nhà đầu tư có cơ hội tìm hiểu và thâm nhập thị trường mới, thích nghi từng bước với thị trường mới. Đối với nước nhận đầu tư: o Trước hết FPI là một kênh dẫn vốn có quy mơ lớn hơn nhiều so với đầu tư trực tiếp truyền thống, cho phép có thể thu hút lượng vốn lớn của nước ngoài đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và các mục tiêu tài chính. Hơn nữa, chính hình thức đầu tư FPI cịn giúp đẩy mạnh FDI (thông qua mua cổ phiếu, NĐTNN có thể dễ dàng sở hữu và trực tiếp quản lý doanh nghiệp trong nước). Ngoài ra FPI giúp các doanh nghiệp trong nước có thể hoạt động hiệu quả hơn, năng động hơn và nâng cao giá trị của mình (Ví dụ: Công Ty VINAMILK đã nâng cao giá trị của mình lên rất nhiều do có sự tham gia mua cổ phiếu của NĐTNN). Hơn nữa, đối với nền kinh tế, FPI là hình thức giúp các nước có nền kinh tế mới nổi và chuyển đổi như Việt Nam nhanh chóng hơn trong việc mở cửa, tham gia hội nhập vào thị trường vốn quốc tế, nâng cao sự tín nhiệm trong hoạt động kinh tế đối với nước ngoài. o Bên cạnh đó, vốn FPI chảy vào có thể đầy nhanh tốc độ tăng trưởng của một nước bằng cách làm tăng khả năng thanh tốn và hiệu suất của thị trường vốn nội địa. Thị trừơng vốn với khả năng thanh khỏan và hiệu suất cao cho phép nguồn lực được sử dụng một cách có hiệu quả nhất dẫn đến đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. o Khi nguồn vốn FPI chảy vào sẽ có tác động làm tăng tính thanh khỏan của thị trường, bởi các giao dịch vốn trên thị trường trở nên sơi động hơn khi có sự tham gia của các NĐTNN, qua đó sẽ tạo điều kiện phát triển phân phối nguồn lực và từ đó có tác động tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. o Thị trường vốn phát triển có tác động làm giảm rủi ro thanh khoản. Thị trường vốn với khả năng thanh khỏan cao làm cho đầu tư dài hạn hấp dẫn hơn, bởi vì nó cho phép người gửi tiết kiệm có thể nhanh chóng bán chứng khĩan với chi phí giao dịch thấp khi họ cần sử dụng khỏan tiền tiết kiệm của mình. Khi đầu tư dài hạn trở nên hấp dẫn hơn sẽ tạo điều kiện cải thiện tình hình phân phối vốn và tăng năng lực sản xuất. o Thị trường phát triển đồng thời làm tăng hiệu quả quản lý doanh nghiệp. TTCK phát triển tạo điều kiện quản lý doanh nghiệp hiệu quả hơn vì tính công khai, minh bạch thông tin của thị trường, buộc các nhà quản lý doanh nghiệp phải thực hiện vai trị quản lý tốt hơn. Mặt khác, nếu TTCK phát triển tạo điều kiện cho các nhà đầu tư bên ngoài có thể mua lại các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, thay đổi bộ máy quản lý và khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển. 1.2.3.2.2 Tác động tiêu cực Đối với nước đầu tư Cùng với lợi ích cơ bản, các nhà đầu tư FPI phải chịu những rủi ro nhất định.  Thứ nhất, những rủi ro đặc biệt của thị trừơng tài chính nước ngoài, đáng chú ý là rủi ro chính trị, rủi ro đạo đức và rủi ro kinh tế của thị trường mới nổi.  Thứ hai, các rào cản về thủ tục hành chính và nhất là về thuế có thể làm triệt tiêu lợi ích thu được.  Thứ ba, những chính sách điều tiết thị trường vốn của các nước nhận vốn FPI.  Thứ tư, chi phí giao dịch trong đầu tư FPI có thể cao hơn so với dự kiến. Đối với nước nhận đầu tư:  So với các hình thức đầu tư nước ngoài, đầu tư gián tiếp có xu hướng không ổn định hơn so với các hình thức đầu tư khác do đặc tính thị trường và khả năng thanh khỏan cao. Sự không ổn định của nguồn vốn FPI ở một mức độ nhất định là có giá trị, bởi vì nó tạo cơ hội tiềm năng thu hút các nhà đầu tư và kích thích thị trừơng hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên, tính không ổn định cũng sẽ gây ra rủi ro, những rủi ro này nếu không được quản lý hiệu quả có thể gây ra tình trạng mất ổn định của hệ thống tài chính và các khĩ khăn kinh tế khác.  Những rủi ro có thể xảy ra khi đầu tư nước ngoài chảy vào nhiều, nhất là đầu tư gián tiếp đó là những rủi ro vĩ mơ: Dịng vốn lớn chảy vào cũng có thể làm mất cân bằng vĩ mơ, đặc biệt là khi chính sách vĩ mơ không nhất quán và hướng tới những mục tiêu mâu thuẫn. Nguy cơ phổ biến nhất là tỷ giá tăng lên quá mức (đồng bản tệ lên giá), chính điều đó phá vỡ cân bằng tài khỏan vốn và làm tích tự nợ nước ngoài (tỷ gía hối đối thực tăng sẽ thúc đầy khả năng vay ngoại tệ không có bảo đảm và gieo mầm cho tình trạng mất vốn khi tỷ giá giảm xuống mức thấp hơn mức có thể kiểm sốt được). Tuy nhiên những rủi ro này sẽ được hạn chế trong bối cảnh các yếu rố kinh tế cơ bản được cải thiện, đó là: cán cân thanh tốn có vị thế, lạm phát thấp so với thế giới hoặc tăng năng suất lao động cao hơn so với các nước khác. Và chính những yếu tố cơ bản này sẽ giàm sức ép tăng tỷ giá hối đối thực.  Bên cạnh đó, vốn đổ vào có thể gây ra áp lực lạm phát trong một số trường hợp như: khi tỷ giá cố định đươc duy trì, dịng vốn đổ vào dẫn đến tình trạng mở rộng điều kiện tiền tệ trong nền kinh tế, qua đó sẽ tác động đến mức giá, tỷ lệ lạm phát có thể gia tăng. Điều đó sẽ gây bất lợi cho hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động của hệ thống trung gian tài chính nói riêng. Rủi ro khủng hoảng tài chính tiền tệ có thể xảy ra khi các NĐTNN rút vốn ào ạt, nhất là đối với các nguồn đầu tư gián tiếp. Các cuộc khủng hỏang tài chính tiền tệ ở Mêxicơ (1994), Thái Lan (1997) là một minh chứng rất rõ nét về rút vốn ồn ạt của các nhà đầu tư gián tiếp. Mặc dù các cuộc khủng hỏang tài chính tiền tệ, có thể xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau (khủng hỏang lịng tin, khủng hỏang các chỉ số kinh tế cơ bản…), nhưng bối cảnh đó, nguồn vốn đầu tư gián tiếp chiếm tỷ trọng cao trong các khỏan vay nợ nước ngoài sẽ càng làm trầm trọng thêm mức độ khủng hoảng. Chính vì vậy, để tránh những tác động xấu của nhà đầu tư gián tiếp, việc kiểm sốt chặt chẽ luồng vốn này là rất cần thiết. PHẦN II KHÁI QUÁT VỀ NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Trong những năm qua, tuy Việt Nam đã khá thành công trong việc thu hút dịng vốn đầu tư gián tiếp, nhưng dịng vốn này chảy vào nước ta cịn khá khiêm tốn. Từ năm 2005 trở về trước, nguồn vốn FII này có tăng nhưng quy mơ cịn nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp so với vốn FDI. Cụ thể là, năm 2001 tỷ trọng vốn FII/FDI chỉ 1.2%, năm 2003 là 2.3% và tăng lên 3.7% năm 2004. Tình hình này được thể hiện qua hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài tại thị trường chứng khoán cịn yếu và vai trị của họ không được nổi bật. Điều này có thể giải thích là do hoạt động chưa đạt mức độ tăng trưởng mạnh của thị trường chứng khoán, cũng như giai đoạn nằm ngang kéo dài quá lâu của chỉ số chứng khoán đã khiến cho không chỉ rất nhiều nhà đầu tư trong nước mà cả các nhà đầu tư nước ngoài cũng không đánh giá cao về tiềm năng hồi phục và phát triển của giá cả cổ phiếu Năm 2006 thực sự là một năm “bản lề” đối với dịng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, với việc xuất hiện thêm nhiều quỹ đầu tư mới với quy mơ lớn hơn, cũng như việc cam kết tăng vốn của các quỹ hiện hữu. Đến cuối năm 2006, tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài tại thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng vọt gấp gần ba lần, từ 6% lên 17% với hơn khoảng 2 tỷ USD FII được công bố thông qua các quỹ đầu tư chính thức. Và tính đến tháng 4/2007, nhà đầu tư nước ngoài vẫn mạnh nhất trên thị trường niêm yết, trong đó giá trị đầu tư vào cổ phiếu của các công ty niêm yết chiếm đến 68% trong tổng giá trị đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài; đầu tư vào trái phiếu niêm yết chiếm 25%; đầu tư vào trái phiếu không niêm yết chỉ chiếm 6% và đầu tư vào cổ phiếu không niêm yết chỉ vỏn vẹn có 1%. Như vậy, so sánh hai mốc thời điểm đầu năm 2006 với những tháng đầu năm 2007, tỷ lệ sở hữu giá trị cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài đã tăng gấp gần 4 lần. Tình hình đó cũng có tính tương ứng với thông tin của Ngân hàng thế giới ước tính các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư khoảng 4 tỷ USD vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Tại thị trường niêm yết, nhà đầu tư nước ngoài đã nhanh chóng sở hữu đến 49% hoặc đang có xu hướng đạt đến 49% (tỷ lệ cao nhất cho phép đối với nhà đầu tư nước ngoài) đối với một số mã cổ phiếu như AGF, CII, BT6, GIL, GMD, IFS, SAM, TDH, TMS, TYA, VNM, chứng chỉ quỹ VFMVF1. Hiện nay, có những quỹ đầu tư nước ngoài được đánh giá là hoạt động thành công trên thị trường Việt Nam là Vina Capital, Indochina Capital, Dragon Capital, IDG Vietnam, PXP Vietnam, City Group, HSBC, JP Morgan, Deutsch AG... Trong số các nhà đầu tư nước ngoài, các quỹ đầu tư có người quản lý quỹ tại Việt Nam chiếm tỷ trọng 70% trên tổng quy mơ vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong số các quỹ đầu tư nước ngoài chưa có mặt các quỹ Mutual Fund và Pension Fund - là các quỹ có mục tiêu đầu tư rất dài hạn. Trong cuộc chơi chứng khoán tại thị trường chứng khoán Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài có một động thái rất đặc biệt: trong đa số trường hợp biến động về giá cổ phiếu, dường như nhà đầu tư nước ngoài luơn giữ một tư thế độc lập và tách rời hẳn tâm lý đám đơng của các nhà đầu tư Việt Nam. Trong đợt điều chỉnh đầu tiên của VN-Index xuống dưới ngưỡng 1.000 điểm, việc mua vào củ