Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty cổ phần Intimex Việt Nam

Trong những năm gần đây, với mục tiêu đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, đồng thời từng bước tham gia hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, việc đẩy mạnh xuất khẩu được Nhà nước đặc biệt coi trọng. Xuất khẩu phát triển đã đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, thúc đẩy các ngành công nghiệp khác phát triển. Ngành nông nghiệp nước ta là một ngành mũi nhọn trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước. Công ty cổ phần Intimex Việt Nam là một trong những doanh nghiệp xuất khẩu của Nhà nước đứng đầu trong lĩnh vực xuất khẩu, đã có những thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới. Trong thời gian qua Công ty cổ phần Intimex Việt Nam ngày càng chiếm lĩnh các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Mỹ…đồng thời tạo được uy tín của công ty trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh tự do hoá thương mại ngày nay, công ty đang vấp phải sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ cạnh tranh lớn mạnh trong xuất khẩu nông sản là Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia…đặc biệt là Trung Quốc. Đây là thách thức to lớn đòi hỏi công ty phải có biện pháp giải quyết, nhằm tăng sức cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao uy tín của công ty trên trường quốc tế. Sau một thời gian thực tập tại công ty và những kiến thức tích luỹ được ở nhà trường đã giúp em viết khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty cổ phần Intimex Việt Nam”.

doc75 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3805 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty cổ phần Intimex Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, với mục tiêu đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, đồng thời từng bước tham gia hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, việc đẩy mạnh xuất khẩu được Nhà nước đặc biệt coi trọng. Xuất khẩu phát triển đã đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, thúc đẩy các ngành công nghiệp khác phát triển. Ngành nông nghiệp nước ta là một ngành mũi nhọn trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước. Công ty cổ phần Intimex Việt Nam là một trong những doanh nghiệp xuất khẩu của Nhà nước đứng đầu trong lĩnh vực xuất khẩu, đã có những thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới. Trong thời gian qua Công ty cổ phần Intimex Việt Nam ngày càng chiếm lĩnh các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Mỹ…đồng thời tạo được uy tín của công ty trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh tự do hoá thương mại ngày nay, công ty đang vấp phải sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ cạnh tranh lớn mạnh trong xuất khẩu nông sản là Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia…đặc biệt là Trung Quốc. Đây là thách thức to lớn đòi hỏi công ty phải có biện pháp giải quyết, nhằm tăng sức cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao uy tín của công ty trên trường quốc tế. Sau một thời gian thực tập tại công ty và những kiến thức tích luỹ được ở nhà trường đã giúp em viết khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty cổ phần Intimex Việt Nam”. Em hy vọng rằng những giải pháp mà em đề xuất dưới đây có thể phần nào giúp ích cho công ty đưa ra những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản trên thị trường thế giới, đưa kim ngạch xuất khẩu của công ty ngày càng tăng và đóng góp nhiều hơn vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, bản khóa luận này có ba chương chính: - Chương 1: Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu và thị trường nông sản thế giới. - Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty cổ phần Intimex Việt Nam - Chương 3: Định hướng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty cổ phần Intimex Việt Nam. CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN THẾ GIỚI I. Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu: 1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu: Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh thu lợi bằng cách bán sản phẩm hoặc dịch vụ ra thị trường nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán theo nguyên tắc ngang giá, và sản phẩm hay dịch vụ đó phải di chuyển qua biên giới của một quốc gia, tiền tệ được sử dụng ở đây phải là ngoại tệ đối với một, hai hay nhiều bên tham gia trong hoạt động này. Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Hoạt động này diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện từ sản xuất hàng tiêu dùng cho đến máy móc thiết bị, tư liệu sản xuất và cả công nghệ kỹ thuật cao. Dù ở lĩnh vực nào thì hoạt động xuất khẩu cũng đều nhằm mục đích mang lại lợi nhuận cho các quốc gia tham gia. Hoạt động xuất khẩu thể hiện sự kết hợp chặt chẽ và tối ưu giữa khoa học quản lý và nghệ thuật kinh doanh của doanh nghiệp, giữa nghệ thuật kinh doanh và các yếu tố khác như: pháp luật, văn hóa, khoa học kỹ thuật, Hoạt động xuất khẩu hàng hóa không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức ở cả bên trong và bên ngoài đất nước nhằm thu được ngoại tệ, những lợi ích kinh tế xã hội thúc đẩy hoạt động sản xuất hàng hóa trong nước phát triển góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế và từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Hơn nữa, mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế qua đó phát huy được lợi thế bên trong và tận dụng được những lợi thế bên ngoài. Từ đó đẩy nhanh quá trình Công nghiệp hóa – hiện đại hóa, rút ngắn khoảng cách giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển, mặt khác tạo ra doanh thu và lợi nhuận giúp cho doanh nghiệp ngày càng phát triển. 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu: Đối với một quốc gia: Xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ để đảm bảo nhu cầu nhập khẩu. Sự tăng trưởng của một quốc gia phụ thuộc vào 4 nhân tố là: Vốn, công nghệ, nhân lực và tài nguyên. Nhưng không phải quốc gia nào cũng có đầy đủ cả 4 yếu tố trên, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển. Hầu hết các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển đều thiếu vốn nên họ không có cơ hội để nhập khẩu công nghệ hiện đại và không thể đầu tư nâng cao trình độ nguồn nhân lực do đó trình độ sản xuất của họ rất thấp. Và vì trình độ sản xuất thấp chính là nguyên nhân làm cho quốc gia này thiếu vốn, vì vậy đây chính là một vòng luẩn quẩn của các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển. Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn này các quốc gia buộc phải có vốn để nhập khẩu công nghệ tiên tiến mà trong nước chưa sản xuất được và nâng cao trình độ nguồn nhân lực qua đó nâng cao khả năng sản xuất. Nhưng một câu hỏi được đặt ra với các quốc gia này là: Làm thế nào để có được lượng ngoại tệ cần thiết đáp ứng cho nhu cầu này? Thực tiễn cho thấy, để có đủ được lượng ngoại tệ đáp ứng cho nhu cầu này, các quốc gia có thể sử dụng các nguồn huy động vốn chính sau: Nguồn thu từ các hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ Nguồn từ các dịch vụ thu ngoại tệ như ngân hàng, du lịch Nguồn vay nợ, viện trợ Nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Trên thực tế thì các quốc gia này gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động được nguồn vốn từ các hoạt động đầu tư, vay nợ, viện trợ và các dịch vụ thu ngoại tệ. Hơn nữa, với các nguồn vốn này các quốc gia phải chịu những thiệt thòi và những ràng buộc về chính trị nhất định. Vì vậy, nguồn vốn quan trọng nhất mà các quốc gia này có thể trông chờ là nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu phát huy được lợi thế của các quốc gia. Để hoạt động xuất khẩu có hiệu quả thì các quốc gia phải lựa chọn các mặt hàng sản xuất mà các quốc gia đó có lợi thế hơn các quốc gia khác. Đây chính là những mặt hàng có sử dụng nguồn nguyên liệu dồi dào, lao động rẻ, ứng dụng nền sản xuất trong nước. Chính vì vậy mà hoạt động xuất khẩu phát huy được lợi thế của quốc gia. Theo qui luật lợi thế so sánh, cả hai quốc gia sẽ cùng có lợi nếu chuyên môn hóa vào sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế, sau đó hai nước sẽ mang trao đổi sản phẩm cho nhau, tỷ lệ trao đổi phải lớn hơn tỷ lệ trao đổi nội địa. - Hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Thông thường các quốc gia xuất khẩu sẽ tập trung vào xuất khẩu những mặt hàng mà quốc gia đó có lợi thế. Khi lợi nhuận thu được từ xuất khẩu mặt hàng ấy càng lớn thì số người tập trung và sản xuất mặt hàng đó càng nhiều. Do vậy, cơ cấu sản xuất trong nước sẽ thay đổi, sự thay đổi này không chỉ diễn ra trong ngành mà còn diễn ra ở cả những ngành phụ trợ cho ngành xuất khẩu. Ví dụ: Khi hoạt động xuất khẩu hàng nông sản phát triển kéo theo sự phát triển của ngành sản xuất phân bón, ngành vận tải; ngành công nghiệp thực phẩm phát triển kéo theo ngành trồng trọt, chăn nuôi phát triển; ngành dệt may phát triển kéo theo ngành trồng bông đay, ngành nhuộm, ngành thiết kế thời trang phát triển. Hoạt động xuất khẩu góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo nguồn thu nhập nâng cao đời sống và trình độ người lao động. Hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động mang lại nguồn lợi nhuận lớn trong các hoạt động kinh doanh, chính vì vậy số lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng hóa không ngừng tăng, hàng năm ngành xuất khẩu giải quyết việc làm cho một số lượng lớn lao động trong khu vực. Thêm vào đó, do có điều kiện tiếp xúc với thị trường mới, phương thức quản lý mới, khoa học công nghệ tiên tiến nên trình độ của người lao động cũng được cải thiện để đáp ứng yêu cầu chung của thị trường quốc tế. Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín của quốc gia trên trường quốc tế. Để đánh giá uy tín của một quốc gia người ta thường dựa vào 4 yếu tố đó là: GDP, lạm phát, thất nghiệp và cán cân thanh toán . Hoạt động xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán và đó là một trong bốn điều kiện đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia, hơn nữa, hoạt động xuất khẩu làm tăng tích lũy ngoại tệ của một quốc gia và có thể biến quốc gia đó thành một quốc gia xuất siêu và tạo sự đảm bảo trong thanh toán cho đối tác, tăng được uy tín trong kinh doanh. Thông qua hoạt động xuất khẩu, hàng hóa của quốc gia này được bày bán trên thị trường thế giới, khuếch trương tiếng vang và sự hiểu biết từ nước ngoài. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu làm tiền đề cho các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như: Dịch vụ, ngân hàng, đầu tư, hợp tác liên doanh... và làm cho mối quan hệ giữa các quốc gia trở nên chặt chẽ hơn. Đối với doanh nghiệp: Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia vào cuộc cạnh tranh về giá cả, chất lượng, mẫu mã hàng hóa trên thị trường thế giới. Chính yếu tố này buộc doanh nghiệp phải năng động sáng tạo hơn, phải không ngừng nâng cao trình độ quản trị kinh doanh, tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị để tự hoàn thiện mình. Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng quan hệ buôn bán với các đối tác nước ngoài từ đó người lao động trong doanh nghiệp có thể nâng cao năng lực chuyên môn, tiếp thu học hỏi kinh nghiệm quản lý của các đối tác. Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp để mở rộng và nâng cao trình độ sản xuất đồng thời tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động trong doanh nghiệp. 3.Các hình thức xuất khẩu chủ yếu. 3.1 Xuất khẩu trực tiếp: Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu các hàng hóa dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới các khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là: Các doanh nghiệp có thể giao dịch trực tiếp và đều đặn với khách hàng, với thị trường nước ngoài, biết được yêu cầu của khách hàng và tình hình bán hàng ở đó nên có thể chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, hình thức xuất khẩu này làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp do giảm chi phí trung gian. Xuất khẩu ủy thác: Trong hình thức này đơn vị xuất khẩu (bên nhận ủy thác) nhận xuất khẩu một lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình và nhận được một khoản thù lao theo thỏa thuận với đơn vị có hàng xuất khẩu (bên ủy thác). Ưu điểm của hình thức này là: Bên ủy thác không phải bỏ ra một khoản vốn lớn để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài do đó giảm được rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên họ lại không trực tiếp giao dịch với khách hàng và thị trường nước ngoài nên không chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra họ còn phải đáp ứng những yêu sách của bên nhận ủy thác. 3.3 Buôn bán đối lưu: Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, bên bán hàng đồng thời cũng là bên mua hàng và lượng hàng hóa mang trao đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích ở đây không nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà là nhằm mục đích có được lô hàng có giá trị tương đương với lô hàng xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu này giúp doanh nghiệp tránh được sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối, đồng thời có lợi khi các bên không có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. 3.4. Giao dịch qua trung gian: Là phương thức giao dịch mà mọi việc thiết lập quan hệ giữa người bán và người mua đều thông qua người thứ ba còn gọi là người trung gian buôn bán. Trung gian buôn bán trên thị trường phổ biến là môi giới và đại lý. Do quá trình trao đổi giữa người bán và người mua phải thông qua một bên thứ ba nên tránh được những rủi ro như: do không am hiểu thị trường hoặc do sự biến động của nền kinh tế. Tuy nhiên, phương thức giao dịch này phải qua trung gian và phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm xuống. Hình thức ngày thường áp dụng ở những doanh nghiệp mới vươn ra thị trường nước ngoài, sản phẩm xuất khẩu thường là những sản phẩm mới hoặc những sản phẩm mang tính cạnh tranh cao. . Gia công quốc tế: Là một hình thức kinh doanh, trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên (đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm và giao lại cho bên đặt gia công để thu lại một khoản phí gọi là phí gia công. Hình thức này áp dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển có nhiều tài nguyên, lao động dồi dào với giá rẻ nhưng lại thiếu vốn và yếu kém về công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Gia công quốc tế đem lại lợi ích cho cả hai bên. Bên đặt gia công tận dụng được giá rẻ về nhân công, nguyên phụ liệu của nước gia công. Bên nhận gia công tạo được việc làm cho lao động trong nước, nhập được máy móc thiết bị, công nghệ mới. Tuy nhiên, họ dễ bị phụ thuộc vào nước đặt gia công về số lượng, chủng loại, mẫu mã hàng hóa gia công và đặc biệt là dễ bị ép giá gia công. Tái xuất khẩu: Là xuất khẩu trở lại nước ngoài những hàng hóa trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ có thể thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất. Tuy nhiên nếu không được kiểm soát tốt, việc lưu chuyển hàng hóa nhập về nước tái xuất nhằm tránh thuế có thể sẽ gây thông tin nhiễu về cung cầu trên thị trường, điều này tác động trở lại các doanh nghiệp dễ có quyết định sai. Hình thức này được áp dụng rất phổ biến, nhất là với những nước, những doanh nghiệp chuyên kinh doanh buôn bán quốc tế. 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Bất kỳ một hoạt động thương mại nào cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh có thể tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, song cũng có thể tạo ra những khó khăn, kìm hãm sự phát triển của hoạt động này. Đối với hoạt động xuất khẩu – một trong những hoạt động quan trọng của thương mại thì ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến hoạt động này càng trở nên mạnh mẽ bởi trong thương mại quốc tế các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh rất đa dạng và phức tạp. Có thể phân chia các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp theo các nhóm sau: 4.1 Các yếu tố thuộc phạm vi quốc gia: Các công cụ của nhà nước trong quản lý kinh tế: Các quốc gia khác nhau thường có những chính sách thương mại khác nhau thể hiện ý chí và mục tiêu của nhà nước trong việc can thiệp và điều tiết các hoạt động thương mại quốc tế có liên quan đến nền kinh tế của quốc gia đó. Để nền kinh tế quốc dân vận hành có hiệu quả thì những chính sách thương mại thích hợp là thực sự cần thiết. Trong lĩnh vực xuất khẩu, các công cụ chính sách chủ yếu thường được sử dụng để điều tiết hoạt động này gồm: Thuế quan: Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản lý hoạt động xuất khẩu theo hướng có lợi nhất cho quốc gia. Công cụ này thường chỉ được áp dụng với một số ít mặt hàng xuất khẩu nhằm bổ xung cho ngân sách nhà nước, hạn chế xuất khẩu để đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng mặt hàng trong nước. Ngoài thuế quan xuất khẩu, thuế quan nhập khẩu cũng có tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Thuế quan nhập khẩu là thuế quan mà nước nhập khẩu đánh vào một đơn vị hàng nhập khẩu. Do vậy nó sẽ làm tăng giá bán hàng xuất khẩu của doanh nghiệp tại thị trường nhập khẩu. Vì vậy hàng xuất khẩu của doanh nghiệp sẽ giảm sức cạnh tranh. Hạn ngạch: Hạn ngạch được hiểu như là qui định của nhà nước về số lượng nhiều nhất một mặt hàng hay một nhóm mặt hàng mà doanh nghiệp được phép xuất khẩu hay nhập khẩu. Quốc gia xuất khẩu sẽ qui định hạn ngạch xuất khẩu nhằm điều chỉnh lượng hàng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Quốc gia nhập khẩu sẽ qui định hạn ngạch nhằm hạn chế lượng hàng nhập khẩu vào trong nước, bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên và cải thiện cán cân thanh toán. Tương tự thuế quan, cả hạn ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu của doanh nghiệp. Tỷ giá hối đoái và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuyến khích xuất khẩu: Tỷ giá hối đoái là sức mua của một đồng tiền so với đồng tiền khác. Sức mua của đồng tiền là khả năng thanh toán của một đơn vị tiền tệ với một khối lượng hàng xuất khẩu nhất định gắn liền với thanh toán quốc tế. Trong thanh toán quốc tế, người ta sử dụng những đồng tiền mạnh như USD, EUR để thanh toán. Nếu tỷ giá hối đoái tăng tương đương với giá trị ngoại tệ tăng so với nội tệ khi đó hoạt động xuất khẩu sẽ được khuyến khích. Ngược lại nếu tỷ giá hối đoái giảm sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp có tác dụng thúc đẩy, mở rộng xuất khẩu đối với mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Biện pháp này thường được nhiều quốc gia sử dụng vì: Khi xâm nhập vào thị trường nước ngoài, doanh nghiệp sẽ gặp phải rủi ro cao hơn so với thị trường trong nước. Việc trợ cấp xuất khẩu có thể được nhà nước sử dụng dưới nhiều hình thức như: trợ giá, miễn giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi xuất vốn vay, hoặc cho bạn hàng nước ngoài vay ưu đãi để họ có điều kiện mua sản phẩm của nước mình. Các chính sách đối với cán cân thanh toán và thương mại: Việc đảm bảo cán cân thanh toán và cán cân thương mại sẽ góp phần củng cố lòng tin của các đối tác nước ngoài với quốc gia, nâng cao uy tín của quốc gia trên trường quốc tế. Biện pháp để các quốc gia có thể giữ cán cân thanh toán, cán cân thương mại có thể là: Khuyến khích xuất khẩu, cấm nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu hoặc vay vốn. Tuy nhiên sự cân bằng theo các hình thức cấm nhập khẩu là cân bằng tiêu cực gây tác động xấu đến sự phát triển kinh tế của quốc gia.Chính vì vậy, để cải thiện cán cân thanh toán và cán cân thương mại các quốc gia không còn con đường nào khác ngoài khuyến khích xuất khẩu, trong đó chú trọng tới mặt hàng chủ lực. Như vậy, nhìn chung việc giữ cân bằng cán cân thanh toán và cán cân thương mại đã chứa đựng trong đó yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của quốc gia. Các quan hệ kinh tế quốc: Các mối quan hệ quốc tế sẽ có tác động cực kỳ mạnh mẽ tới hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia nói chung và tác động tới hoạt động thương mại của doanh nghiệp nói riêng. Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp là một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế chính vì vậy nó cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của các mối quan hệ này. Khi hàng hóa của doanh nghiệp thâm nhập được vào thị trường của một quốc gia thì nó sẽ được hưởng chính sách ưu đãi hoặc phải đối mặt với những rào cản thương mại từ những quốc gia này như: thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, các tiêu chuẩn kỹ thuật sản phẩm...Mức độ ưu đãi mà doanh nghiệp được hưởng hay các rào cản thương mại mà doanh nghiệp phải đối đầu, chặt chẽ hay nới lỏng hoàn toàn phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế song phương giữa hai quốc gia xuất khẩu và quốc gia nhập khẩu. Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới như hiện nay, nhiều hiệp định kinh tế song phương và đa phương đã được ký kết, nhiều liên minh kinh tế đã được hình thành với mục tiêu là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham gia, giảm giá cả, thúc đẩy các hoạt động thương mại trong khu vực và trên thế giới. Nếu là một thành viên trong liên minh kinh tế hoặc hiệp định thương mại ấy thì quốc gia sẽ có cơ hội thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Nếu không thuộc, chính các hiệp định thương mại, liên minh kinh tế này sẽ trở thành một rào chắn lớn cho việc xâm nhập và mở rộng thị trường của doanh nghiệp. Ảnh hưởng của nền sản xuất, thương mại trong nước và quốc tế: Sản xuất trong nước là nhân tố chủ yếu quyết định đến cung hàng xuất khẩu. Nếu nền sản xuất trong nước phát triển, khả năng cung ứng hàng xuất khẩu sẽ tăng lên, giá cả thu mua hàng xuất khẩu sẽ giảm xuống, doanh nghiệp sẽ gặp nhiều thuận lời trong khâu đầu vào. Ngược lại, khi nền sản xuất trong nước bị giảm sút dẫn tới giá cả hàng xuất khẩu
Luận văn liên quan