Hoàn thiện kế toán Nguyên vật liệu tại Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Kinh Môn - Hải Dương

Trong giai đoạn hiện nay thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước chuyển đổi cơ chế quản lý tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nền kinh tế nước ta đã có nhiều chuyển biến to lớn. Để quản lý và điều hành nền sản xuất xã hội người ta có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau, trong đó kế toán là một công cụ quan trọng để quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý vật tư, lao động, tài sản, tiền vốn. Kế toán là nghệ thuật quan sát, ghi chép, phân loại, tổng hợp các hoạt động của doanh nghiệp và trình bày kết quả của chúng nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra quyết định về kinh tế, chính trị-xã hội và đánh giá hiệu quả của một tổ chức. Nhiệm vụ của kế toán là cung cấp thông tin về tài chính do những người quyết định. Bởi vậy kế toán là công cụ thu nhập và xử lý các thông tin kinh tế quan trọng cho các nhà quản lý điều hành sản xuất. Kế toán nói chung à kế toán nguyên vật liệu nói riêng vô cùng quan trọng. Nguyên vật liệu là một trong ba yếu tố quan trọng không thể thiếu được ở quá trình sản xuất. Trong các doanh nghiệp sản xuất chi phí nguyên vật liệu chiếm một tỷ lệ rất lớn trong giá thành sản phẩm, nó có tác động đến giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp sản xuất phải quản lý chặt chẽ vật liệu từ khâu thu mua đến khâu dự trữ, sử dụng. Là một xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi, nhiệm vụ của xí nghiệp là phải phục vụ tưới, tiêu nước cho nông nghiệp và cung cấp nước cho dân sinh. Vật liệu của xí nghiệp rất đa dạng như : ống bơm nước, các vòng bi, áp tô mát, cầu dao, trục bơm, dầu mỡ các loại, gioong, bu lông… các loại vật liệu trên thị trường không phải lúc nào cũng đảm bảo về giá cả, chất lượng và chủng loại. Vì vậy xí nghiệp phải trú trọng đến việc dự trữ, bảo quản, đảm bảo về chất lượng phục vụ sản xuất đạt hiệu quả cao. Đó cũng chính là nhiệm vụ công tác kế toán vật liệu. Xuất phát từ nhận thức đó, sau một thời gian thực tập tại Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi Kinh Môn- Hải Dương em đã nhận thức thấy tầm quan trọng to lớn của nguyên vật liệu, ý nghĩa của việc thực hiện tốt quản lý sử dụng nguyên vật liệu, tầm quan trọng của công tác kế toán nguyên vật liệu trong toàn bộ công tác hạch toán kế toán của các doanh nghiệp nói chung và Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi nói riêng với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo PGS.TS. Nguyễn Thị Lời hướng dẫn, cùng cán bộ nhân viên phòng kế toán Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi. em đã mạnh dạn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu đề tài : "Hoàn thiện kế toán Nguyên vật liệu tại Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Kinh Môn - Hải Dương".

doc73 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2345 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện kế toán Nguyên vật liệu tại Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Kinh Môn - Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
` LỜI NÓI ĐẦU Trong giai đoạn hiện nay thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước chuyển đổi cơ chế quản lý tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nền kinh tế nước ta đã có nhiều chuyển biến to lớn. Để quản lý và điều hành nền sản xuất xã hội người ta có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau, trong đó kế toán là một công cụ quan trọng để quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý vật tư, lao động, tài sản, tiền vốn. Kế toán là nghệ thuật quan sát, ghi chép, phân loại, tổng hợp các hoạt động của doanh nghiệp và trình bày kết quả của chúng nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra quyết định về kinh tế, chính trị-xã hội và đánh giá hiệu quả của một tổ chức. Nhiệm vụ của kế toán là cung cấp thông tin về tài chính do những người quyết định. Bởi vậy kế toán là công cụ thu nhập và xử lý các thông tin kinh tế quan trọng cho các nhà quản lý điều hành sản xuất. Kế toán nói chung à kế toán nguyên vật liệu nói riêng vô cùng quan trọng. Nguyên vật liệu là một trong ba yếu tố quan trọng không thể thiếu được ở quá trình sản xuất. Trong các doanh nghiệp sản xuất chi phí nguyên vật liệu chiếm một tỷ lệ rất lớn trong giá thành sản phẩm, nó có tác động đến giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp sản xuất phải quản lý chặt chẽ vật liệu từ khâu thu mua đến khâu dự trữ, sử dụng. Là một xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi, nhiệm vụ của xí nghiệp là phải phục vụ tưới, tiêu nước cho nông nghiệp và cung cấp nước cho dân sinh. Vật liệu của xí nghiệp rất đa dạng như : ống bơm nước, các vòng bi, áp tô mát, cầu dao, trục bơm, dầu mỡ các loại, gioong, bu lông… các loại vật liệu trên thị trường không phải lúc nào cũng đảm bảo về giá cả, chất lượng và chủng loại. Vì vậy xí nghiệp phải trú trọng đến việc dự trữ, bảo quản, đảm bảo về chất lượng phục vụ sản xuất đạt hiệu quả cao. Đó cũng chính là nhiệm vụ công tác kế toán vật liệu. Xuất phát từ nhận thức đó, sau một thời gian thực tập tại Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi Kinh Môn- Hải Dương em đã nhận thức thấy tầm quan trọng to lớn của nguyên vật liệu, ý nghĩa của việc thực hiện tốt quản lý sử dụng nguyên vật liệu, tầm quan trọng của công tác kế toán nguyên vật liệu trong toàn bộ công tác hạch toán kế toán của các doanh nghiệp nói chung và Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi nói riêng với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo PGS.TS. Nguyễn Thị Lời hướng dẫn, cùng cán bộ nhân viên phòng kế toán Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi. em đã mạnh dạn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu đề tài : "Hoàn thiện kế toán Nguyên vật liệu tại Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Kinh Môn - Hải Dương". Với mục đích vận dụng những kiến thức thu được từ học tập, nghiên cứu, kết hợp với thực tế công tác kế toán của Xí nghiệp mong tìm ra những biện pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác kế toán nguyên vật liệu của Xí nghiệp. Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài được chia làm 3 chương : CHƯƠNG I: Những Vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán Nguyên vật liệu trong các doang nghiệp sản xuất. CHƯƠNG II: Thực trạng hạch toán Nguyên vật liệu tại Xí nghiệp khai thác công trình Thuỷ lợi huyện Kinh Môn - Hải Dương. CHƯƠNG III: Hoàn thiện kế toán vật liệu tại Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Kinh Môn. Do thời gian thực tập có hạn và trình độ nhận thức còn rất nhiều hạn chế nên đề tài không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của cô giáo hướng dẫn và các cán bộ tổ Kế toán - Tài vụ Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Kinh Môn - Hải Dương để đề tài này được hoàn thiện hơn nữa. Chương I Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất I – Khái niệm, đặc điểm và nhiệm vụ hạch toán nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất. 1.1 – Khái niệm Nguyên vật liệu. Nguyên vât liệu là một bộ phận của đối tượng lao động khi tham gia vào sản xuất thường cấu thành lên thực thể của sản phẩm, chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và hình thái vật chất bên ngoài bị thay đổi toàn bộ, giá trị của Nguyên vật liệu được chuyển dịch một lần vào giá trị sản phẩm mới làm ra. 1.2 - Đặc điểm Nguyên, vật liệu Vật liệu là những đối tượng lao động được thể hiện dưới dạng vật hoá, chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh nhất định và toàn bộ giá trị vật liệu được chuyển hết một lần vào chi phí kinh doanh trong kỳ. Trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất, dưới tác động của lao động, vật liệu bị tiêu hao toàn bộ hoặc bị thay đổi hình thái vật chất ban đầu để cấu thành thực thể của sản phẩm. Vật liệu là những tài sản lưu động của doanh nghiệp thuộc nhóm hàng tồn kho, trong các doanh nghiệp tuỳ theo từng giai đoạn sản xuất kinh doanh khác nhau mà hàng tồn kho được chia làm các loại sau: + Ở giai đoạn chuẩn bị sản xuất hàng tồn kho bao gồm: Vật liệu hàng mua đang đi đường. + Ở giai đoạn sản xuất hàng tồn kho bao gồm: Sản phẩm dở dang bán thành phẩm. + Ở giai đoạn tiêu thụ hàng tồn kho bao gồm: Thành phần hàng hoá trong kho, hàng gửi bán. Như vậy tham gia vào giai đoạn đầu của quá trình sản xuất kinh doanh để bắt đầu hành thành lên sản phẩm mới. Chúng rất đa dạng phong phú về chủng loại, phức tạp về kỹ thuật. Vật liệu thuộc loại đối tượng lao động là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh: tư liệu lao động - sức lao động và đối tượng lao động. Vật liệu là cơ sở vật chất để hình thành lên thực thể của sản phẩm. Trong mỗi quá trình sản xuất vật liệu không ngừng chuyển hoá biến đổi cả về mặt hiệt vật và giá trị. Về mặt hiện vật, nó chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và khi tham gia vào quá trình sản xuất, vật liệu được tiêu dùngng toàn bộ không giữ nguyên hình thái ban đầu. Giá trị của vật liệu được chuyển dịch toàn bộ một phần vào giá trị của sản phẩm mới tạo ra. Về mặt kỹ thuật, vật liệu là những tài sản vật chất tồn tại dưới dạng nhiều trạng thái khác nhau, phức tạp về đặc tính lý hoá nên dễ bị tác động của thời tiết, khí hậu và môi trường xung quoanh. Từ những đặc điểm trên của vật liệu cho ta thấy chúng có vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Nó là một trong 3 yếu tố chủ yếu của quá trình sản xuất và là cơ sở vật chất hình thành lên sản phẩm mới. 1.3 - Nhiệm vụ hạch toán Nguyên vật liệu. Để cung cấp đầy đủ, kịp thời và chính xác thông tin cho công tác quản lý NVL trong các doanh nghiệp, kế toán NVL phải thực hiẹn được các nhiẹm vụ chủ yếu sau: - Ghi chép, tính toán , phản ánh chính xác, trung thực, kịp thời số lượng, chất lượng và giá thành thực tế của NVL nhập kho. - Tập hợp và phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời số lượng và giá trị NVL xuất kho, kiểm tra tình hình chấp hành các định mức tiêu hao NVL. - Phân bổ hợp lý giá trị NVL sử dụng vào các đối tượng tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh. - Tính toán và phản ánh chính xác số lượng và giá trị NVL tồn kho, phát hiện kịp thời NVL thiếu, thừa, ứ đọng , kém phẩm chất để doanh nghiệp có biẹn pháp xử lý kịp thời, hạn chế đến mức tố đathiệt hại có thể sảy ra. Để thực hiện tốt các yêu cầu về quản lý vật liệu và các nhiệm vụ của kế toán vật liệu đòi hỏi quá trình hạch toán vật liệu phải bao gồm các nội dung: Phân loại và lập danh điểm vật liệu: - Xây dựng các nội qui, qui chế trong bảo quản, sử dụng vật tư, hệ thống kho tàng. Trong kho phải trang bị đầy đủ phương tiện: cân đong đo đếm, hệ thống an toàn cháy nổ. Xác định các định mức sử dụng vật tư cũng như các định mức hao hụt hợp lý trong vận chuyển bảo quản. - Tổ chức khâu hạch toán ban đầu bao gồm vận dụng các chứng từ và luân chuyển chứng từ cho hợp lý và khoa học. - Vận dụng các tài khoản kế toán và hệ thống sổ kế toán tổng hợp một cách hợp lý. - Tổ chức công tác kiểm tra, kiểm kê đối chiếu vật tư cũng như báo cáo tình hình nhập, xuất, tồn kho vật tư. - Tổ chức phân tích về tình hình vật tư và những thông tin kinh tế cần thiết khác. II - Phân loại và đánh giá vật liệu. 2.1 - Phân loại. Trong doanh nghiệp việc sử dụng vật liệu là rất đa dạng để thuận tiện cho việc quản lý và hạch toán cần thiết phải phân loại vật liệu. Căn cứ vào vai trò và công dụng của NVL đối với quá trình SXKD người ta chia chúng thành các loại sau đây: - Nguyên liệu và vật liệu chính: Là loại vật liệu khi tham gia vào quá trình sản xuất thì cấu thành lên thực thể của sản phẩm. - Vật liệu phụ: Là loại vật liệu được kết hợp cùng với loại vật liệu chính để làm tăng mầu sắc, mùi vị, chất lượng của sản phẩm hoặc góp phần cho máy móc thiết bị hoạt động được bình thường. - Nhiên liệu: Là loại vật liệu dùng để tạo nhiệt năng cho sản xuất. - Phụ tùng thay thế: Là loại vật tư dùng để thay thế khi sửa chữa TSCĐ của Doang nghiệp. - Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản: Là các loại vật tư dùng cho công tác xây dựng cơ bản nội bọ doanh nghiệp. - Phế liệu:Là loại vật tư loại ra trong quá trình thanh lý TSCĐ và trong sản xuất. - Vật liệu khác: là các loại vật liệu đặc chủng của từng doanh nghiệp hoặc phế liệu thu hồi. Tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý và kế toán chi tiết của từng doanh nghiệp và trong từng loại vật liệu có thể chia thành từng nhóm, từng thứ một cách chi tiết hơn. 2.2 - Đánh giá Nguyên vật liệu. Đánh giá vật liệu là dùng thước đo tiền tệ biểu hiện giá trị của vật liệu theo nguyên tắc nhất định đảm bảo yêu cầu trung thực, thống nhất. Đánh giá vật liệu trong các doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác hạch toán và quản lý vật liệu. Thông qua việc đánh giá vật liệu, kế toán mới ghi chép đầy đủ có hệ thống các chi phí cấu thành nên mua vào giá vật tư tiêu hao cho quá trình sản xuất, để từ đó xác định chính xác giá trị sản phẩm sản xuất ra trong kỳ, cung cấp đầy đủ thông tin cho người quản lý, gốp phần quản lý có hiệu quả các hoạt động về mua vật tư và quá trình sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp. 2.2.1 - Yêu cầu đánh giá vật liệu. - Yêu cầu xác thực: Yêu cầu này đòi hỏi việc đánh giá vật liệu của doanh nghiệp phải tiến hành trên cơ sở tổng hợp đầy đủ, hợp lý những chi phí cấu thành của các vật liệu, những chi phí bất hợp lý và những chi phí kém hiệu quả. - Yêu cầu thống nhất: Yêu cầu này đòi hỏi việc đánh giá vật liệu phải đảm bảo thống nhất về nội dung và phương pháp đánh giá giữa các kỳ hạch toán của doanh nghiệp làm cơ sở cho việc so sánh đánh giá các chỉ tiêu kinh tế giữa các kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. 2.2.2 - Các nguyên tắc đánh giá: Có nhiều nguyên tắc được kế toán thừa nhận nhưng trong phạm vi đề tài này chỉ trình bày những nguyên tắc kế toán cơ bản có liên quan đến đánh giá vật liệu, chúng ta phải nghiên cứu khái niệm hoạt động liên tục. - Khái niệm hoạt động liên tục: Có nghĩa là việc ghi chép kế toán đặt trên giả thiết là đơn vị hoạt động vô thời hạn hoặc ít nhất là không bị giải thể trong tương lai gần (thường là 12 tháng). Do vậy khi lập báo cáo tài chính kế toán không báo cáo tình hình tài sản hiện có của đơn vị được bán theo giá nào khi đơn vị đó ngừng tồn tại. Có nghĩa là kế toán quan tâm đến giá vốn hơn quan tâm đến giá thị trường. - Nguyên tắc giá phí: Việc đo lường tính toán tài sản, công nợ, vốn và chi phí đặt trên cơ sở giá phí (giá vốn). Điều đó có nghĩa là khi một tổ chức mua một tài sản nào đó kế toán phải ghi nhận giá mua hay giá thành (giá phí) của tài sản này sau một thời gian tổ chức tài sản đó ra thị trường theo giá thị trường. - Nguyên tắc nhất quán liên tục. Theo nguyên tắc này các quá trình phải áp dụng tất cả các khái niệm, các nguyên tắc, các chuẩn mực và phương pháp tính toán trên cơ sở nhất quán từ kỳ này sang kỳ khác. Nguyên tắc này để đảm bảo số liệu kế toán, báo cáo tài chính mới có thể so sánh được, tổng hợp được và cho phép các nhà đọc báo cáo tài chính của tổ chức có thể so sánh báo cáo qua các năm. Tuy vậy khi đơn vị thấy rằng việc thay đổi phương pháp đánh giá sẽ tạo ra kết quả trung thực, hợp lý hơn thì họ có thể thay đổi nhưng ít nhất cũng phải trong một thời gian nhất định và phải được sự chấp nhận của cơ quan quản lý có liên quan. Phương pháp nhất quán chỉ xuất hiện sau khi một phương pháp nào đó được lựa chọn. - Nguyên tắc thận trọng. Nguyên tắc thận trọng trong kế toán có nghĩa là trình bày số liệu có thể chấp nhận được trong báo cáo tài chính. Nguyên tắc thận trọng đòi hỏi giá trị thị trường thấp hơn giá vốn (giá phí) của vật tư thì kế toán ghi chép và báo cáo theo giá thị trường, nhưng khi giá thị trường lên cao hơn giá vốn thì kế toán vẫn ghi theo giá vốn. Giá thị trường được biểu hiện trong công tác kế toán có nghĩa là trị giá giá vốn của vật tư thay thế. Điều đó có nghĩa là giá mà đơn vị phải trả nếu như đơn vị mua hàng đã được tiêu thụ. Khi chi phí vật tư hạ xuống thấp hơn chi phí ban đầu thì giá bán của vật tư cũng gần tương tự. Do đó vật tư có giá trị thấp hơn đối với đơn vị và phải được vào sổ giảm xuống theo trị giá vốn của vật tư thay thế (giá thị trường). 2.3 - Phương pháp đánh giá vật liệu. Trong kế toán vật liệu được tính theo giá thực tế (giá gốc). + Với vật liệu mua ngoài: Giá thực tế gồm giá mua ghi trên hoá đơn của người bán kể cả các khoản thuế nộp hộ người bán nếu có và các chi phí thu mua thực tế: Chi phí vận chuyển bốc dỡ, chi phí nhân viên thu mua, chi phí thuê kho, thuê bãi, tiền phạt lưu kho, lưu hàng…) trừ đi các khoản giảm giá hàng mua, hàng mua bị trả lại. + Với vật liệu tự sản xuất: Tính giá thành sản xuất thực tế. + Với vật liệu thuê ngoài gia công, chế biến: Giá thực tế gồm giá trị vật liệu xuất chế biến cùng các chi phí liên quan (tiền thuê gia công, chế biến, chi phí vận chuyển bốc dỡ…) + Với vật liệu nhận đóng góp từ các đơn vị, tổ chức, cá nhân tham gia liên doanh: Giá thực tế là giá thoả thuận do các bên xác định. + Với phế liệu: Giá ước tính thực tế có thể sử dụng được theo giá thị trường tương đương. + Với vật liệu được tặng, thưởng: Giá thực tế tính theo giá thị trường tương đương. Đối với vật liệu xuất dùng trong kỳ tuỳ theo đặc điểm hoạt động của từng doanh nghiệp và yêu cầu quản lý, trình độ nghiệp vụ của từng cán bộ kế toán, có thể sử dụng một trong các phương pháp sau theo nguyên tắc nhất quán trong hạch toán, nếu có thay đổi phải giải thích rõ ràng. 2.3.1 - Phương pháp Nhập trước - Xuất trước. Theo phương pháp này, giả thiết rằng số vật liệu nào nhập trước thì xuất trước, xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo giá thực tế của từng số hàng xuất. Nói cách khác, cơ sở của phương pháp này là giá thực tế của vật liệu mua trước sẽ dùng làm giá để tính giá thực tế vật liệu do vậy giá trị vật liệu cuối kỳ sẽ là giá thực tế của số vật liệu mua vào sau cùng. 2.3.2 - Phương pháp Nhập sau - Xuất trước . Phương pháp này, NVL được tính giá thực tế xuất kho, giả định những vật liệu mua sau cùng sẽ được xuất trước tiên, vì vậy việc tính gia xuất của NVL được làm ngược lại với phương pháp Nhập trước - Xuất trước ở trên. 2.3.3 - Phương pháp giá thực tế bình quân: Theo phương pháp này, giá thực tế vật liệu xuất dùng trong kỳ được tính theo giá trị bình quân (bình quân cả kỳ dự trữ, hay bình quân giá cuối kỳ trước hoặc bình quân sau mỗi lần nhập). Giá thực tế Vật liệu xuất kho  =  Số lượng vật liệu Xuất kho  x  Đơn giá bình quân   Trong đó: Đơn giá  =  Tồn kho đầu kỳ và nhập trong kỳ   Bình quân của cả kỳ dự trữ   Số lượng vật liệu tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ   2.3.4 - Phương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giá thực tế đích danh). Phương pháp này vật liệu được xác định giá trị theo đơn chiếc hay từng lô hàng và giữ nguyên từ lúc nhập vào cho đến lức xuất dùng (trừ trường hợp điều chỉnh). Khi xuất vật liệu nào sẽ tính theo giá thực tế của vật liệu đó. Do đó phương pháp này còn gọi là phương pháp đặc điểm riêng hoặc phương pháp giá thực tế đích danh và thường sử dụng với các vật liệu có giá trị cao và có tính cách biệt. 2.3.5 - Phương pháp hệ số giá (giá hạch toán) Khi áp dụng phương pháp này, toàn bộ vật liệu biến động trong kỳ được tính theo giá hạch toán, giá kế hoạch hoặc một loại giá ổn định trong kỳ. Cuối kỳ kế toán sẽ tiến hành điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế theo công thức. Giá thực tế của vật liệu xuất kho (Hoặc tồn kho cuối kỳ)  =  Giá hạch toán của vật liệu xuất kho trong kỳ (Hoặc tồn kho cuối kỳ)  x  Hệ số giá vật liệu   Trong đó: Hệ số giá  =  Giá thực tế vật liệu tồn kho đầu kỳ và nhập trong kỳ   Vật liệu   Giá hạch toán của vật liệu tồn kho đầu kỳ và nhập trong kỳ   Hệ số giá có thể tính cho từng loại, từng nhóm hoặc từng thứ vật liệu chủ yếu tuỳ thuộc vào yêu cầu và trình độ quản lý. III – Hạch toán chi tiết nguyên vật liệu. 3.1 - Chứng từ kế toán sử dụng Hệ thống chứng từ kế toán phản ánh kịp thời đầy đủ, chính xác tình hình nhập, xuất vật liệu là cơ sở để tiến hành ghi chép trên thẻ kho và trên các sổ sách kế toán. Đồng thời chứng từ kế toán còn là căn cứ để kiểm tra giám sát tình hình biến động về số lượng từng thứ vật liệu, thực hiện quản lý có hiệu quả, phục vụ đầy đủ nhu cầu về vật liệu cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo chế độ chứng từ kế toán qui định và ban hành theo quyết định 1141/TC-QĐ-CĐKT ngày 01/01/1995 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và một số quyết định sửa đổi, bổ sung khác. Các chứng từ kế toán vật liệu bao gồm: - Phiếu nhập kho (mẫu 01-VT) - Phiếu xuất kho (Mộu 02-VT). - Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ (mẫu 03-VT). - Biên bản kiểm kê vật tư, sản phẩm hàng hoá (mẫu 08-VT). - Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho (mẫu 02-BH). - Hoá đơn cước vận chuyển (mẫu 03-BH). Ngoài các chứng từ bắt buộc trên các doanh nghiệp có thể sử dụng thêm các chứng từ kế toán hướng dẫn như: - Phiếu xuất vật tư theo hạn mức (mẫu 04-VT). - Biên bản kiểm nghiệm vật tư (mẫu 05-VT). - Phiếu báo vật tư còn lại cuối kỳ (mẫu 07-VT). Đối với chứng từ thống nhất bắt buộc phải được lập kịp thời, đầy đủ theo đúng qui định về mẫu biểu, nội dung, phương pháp lập. Những người lập chứng từ phải chịu trách nhiệm về việc ghi chép và tính chính xác về số liệu của nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Nội dung chứng từ kế toán phải được tổ chức, vận chuyển theo trình tự và thời gian do kế toán trưởng qui định phục vụ cho việc phản ánh, ghi chép tổng hợp kịp thời của các bộ phận, cá nhân có liên quan. 3.2 - Sổ kế toán chi tiết Để kế toán chi tiết vật liệu tuỳ thuộc vào phương pháp kế toán chi tiết áp dụng trong doanh nghiệp mà sử dụng các sổ, thẻ kế toán chi tiết như sau: - Sổ (thẻ) kho. - Sổ (thẻ) kế toán. - Sổ đối chiếu luân chuyển. - Sổ số dư. Sổ (thẻ) kho (mẫu 06-VT) được sử dụng để theo dõi số lượng nhập, xuất, tồn kho của từng thứ vật liệu, thẻ kho do phòng kế toán lập và ghi các chi tiết, tên, nhãn hiệu, qui cách, đơn vị tính, mã số vật liệu sau đó giao cho thủ kho để ghi chép tình hình nhập – xuất - tồn kho hàng ngày về mặt số lượng. Thẻ kho được dùng để hạch toán, sổ kho không phân biệt hạch toán chi tiết vật liệu theo phương pháp nào. Sổ (thẻ) kế toán chi tiết, sổ đối chiếu luân chuyển, sổ số dư được sử dụng để hạch toán hàng ngày, hàng tháng, nhập, xuất, tồn vật liệu về mặt giá trị hoặc cả mặt lượng tuỳ thuộc vào phương pháp hạch toán chi tiết được đơn giản nhanh chóng và kịp thời. Kế toán chi tiết vật liệu đòi hỏi phản ánh cả về giá trị, số lượng, chất lượng của từng thứ (từng danh điểm) vật liệu theo từng kho và từng người phụ trách vật liệu. Trong thực tế hiện nay có 3 phương pháp hạch toán chi tiết vật liệu sau đây. 3.3 - Phương pháp hạch toán chi tiết NVL Hạch toán chi tiết NVL là ghi chép hàng ngày tình hình biến động về số lượng, giá trị, chất lượng của từng thứ, từng loại vật liệu theo từng kho của các doanh nghiệp. Hạch toán chi tiết vật liệu được tiến hành ở kho và ở phòng kế toán. Giữa hạch toán chi tiết và hạch toán tổng hợp có mối quan hệ mật thiết với nhau về mặt quản lý, hình thành một tổng thể hoàn chỉnh các thông tin phục vụ cho các cấp quản lý của Nhà nước, tổ chức kinh tế của một xí nghiệp và trong nội bộ xí nghiệp. Về mặt ghi chép nó có thể là hai quá trình song hạch toán tổng hợp và hạch toán chi tiết đều dựa vào một cơ sở chung là hệ thống chứng từ thống nhất do đó đảm bảo cho sự kiểm tra và đối chiếu lẫn nhau. Hệ thố
Luận văn liên quan