Khả năng thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á từ việc nghiên cứu quá trình thống nhất tiền tệ của Cộng đồng Châu Âu

Khi một khu vực tiến tới liên minh về tiền tệ và sử dụng một đồng tiền chung thì đi cùng với nó là quá trình tự do hóa thương mại và dỡ bỏ các hàng rào thuế quan. Điều này sẽ đem lại lợi ích là cắt giảm được các khoản chi phí giao ch, chi phí chuyển đổi tiền tệ (bao gồm chi phí thời gian và chi phí hoa hồng trả cho ngân hàng) cũng như tạo thuận lợi cho trao đổi buôn bán giữa các quốc gia trong khu vực, qua đó, kích thích phát triển thương mại trong nội bộ khối.

doc74 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1821 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khả năng thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á từ việc nghiên cứu quá trình thống nhất tiền tệ của Cộng đồng Châu Âu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯƠNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG ---@&?--- TIỂU LUẬN Tài chính quốc tế ĐỀ TÀI Khả năng thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á từ việc nghiên cứu quá trình thống nhất tiền tệ của Cộng đồng Châu Âu MỤC LỤC CHƯƠNG I : LỢI ÍCH VÀ CHI PHÍ CỦA VIỆC LIÊN MINH VÀ THỐNG NHẤT TIỀN TỆ KHU VỰC. 1. Lợi ích từ việc thống nhất tiền tệ 1.1.Kích thích phát triển thương mại trong nội bộ khối : Khi một khu vực tiến tới liên minh về tiền tệ và sử dụng một đồng tiền chung thì đi cùng với nó là quá trình tự do hóa thương mại và dỡ bỏ các hàng rào thuế quan. Điều này sẽ đem lại lợi ích là cắt giảm được các khoản chi phí giao ch, chi phí chuyển đổi tiền tệ (bao gồm chi phí thời gian và chi phí hoa hồng trả cho ngân hàng) cũng như tạo thuận lợi cho trao đổi buôn bán giữa các quốc gia trong khu vực, qua đó, kích thích phát triển thương mại trong nội bộ khối. 1.2.Các yếu tố sản xuất được phân bổ hiệu quả. Các yếu tố sản xuất của một nền kinh tế bao gồm có : vốn, lao động, tài nguyên và khoa học công nghệ, trong đó 2 yếu tố quan trọng nhất là vốn và lao động. Việc sử dụng hiệu quả hai yếu tố sản xuất này sẽ thúc đẩy và làm gia tăng năng lực sản xuất của mỗi quốc gia nói riêng và toàn bộ khu vực nói chung. Khi sử dụng chung một đồng tiền và đi cùng đó là một chính sách tiền tệ thống nhất, các biện pháp kiểm soát chu chuyển vốn và phân biệt đối xử vốn tài chính giữa các quốc gia sẽ được hạn chế, đồng thời các biện pháp kiểm soát tỷ giá cũng như sự biến động tỷ giá bị xóa bỏ. Nhờ vậy mà nguồn vốn sẽ được phân bổ hiệu quả hơn nhiều trong nội bộ các nước. Đồng thời, khi lương và thu nhập được tính bằng đồng tiền chung, lao động cũng được phân bổ hiệu quả hơn vì có thể tự do di chuyển từ khu vực có năng suất lao động thấp đến khu vực có năng suất lao động cao. 1.3.Tiết kiệm dự trữ ngoại hối và lợi ích từ việc phát hành tiền: Khi đồng tiền chung ra đời các nước thực hiện thống nhất tiền tệ sẽ cắt giảm giảm được số dự trữ ngoại hối dùng để giao dịch. Hơn nữa so với các đồng tiền có mức hoạt động riêng lẻ thì đồng tiền chung có xu hướng biến động ít hơn do trung bình của nền kinh tế được tính chung bằng một đồng tiền thường ổn định hơn so với từng nền kinh tế đơn lẻ đối với đồng tiền riêng của mình, vì vậy nhu cầu dự trữ ngoại hối đối với các nước sử dụng đồng tiền chung giảm xuống. Hơn nữa đồng tiền chung khu vực nếu trở thành một ngoại tệ mạnh đồng nghĩa với đó là tăng thành phần của nó trong dự trữ ngoại hối các quốc gia bên ngoài và các quốc gia trong khối sẽ thu được lợi từ việc phát hành tiền 1.4. Tiết kiệm chi phí hành chính trong kinh doanh: Khi các nước sử dụng các đồng tiền khác nhau, chi phí hành chính trong kinh doanh (liên quan tới quản lý rủi ro ngoại hối) có nghĩa là các công ty phải sử dụng nguồn lực của mình để kiểm soát rủi ro ngoại hối, biến động tỷ giá và kiểm tra chiến lược giá cả trên các thị trường khác nhau. Bằng cách chuyển đổi sang đồng đồng tiền chung, các quốc gia thành viên thành viên sẽ cắt giảm được một lượng chi phí khá lớn từ tiết kiệm khoản mục này. 1.5. Tăng cường thanh khoản và hợp lý hóa thị trường tài chính: Thị trường tài chính có thành phần chính là thị trường trái phiếu chính phủ và thị trường cổ phiếu công ty. Mọi khoản vay của chính phủ thành viên đểu được thực hiện bằng đồng tiền chung làm cho thị trường trái phiếu chính phủ trở nên linh hoạt hơn, giảm chi phí giao dịch. Thị trường cổ phiếu công ty hợp lý hóa hơn khi tất cả chính phủ của công ty đều được niêm yết bằng một đồng tiền chung khiến giao dịch trên thị trường cổ phiếu được hiệu quả, kích thích doanh số giao dịch trên thị trường. Do đó, thị trường tài chính hoạt động hiệu quả hơn, chính phủ và công ty giảm được chi phí tiếp cận nguồn vốn trên thị trường tài chính. 1.6.Giá cả trở nên trung thực rõ ràng và ổn định hơn: Khi tất cả hàng hóa và dịch vụ trong khu vực đều được yết giá bằng một đồng tiền, các nhà sản xuất sẽ không thể duy trì chênh lệch giá giữa các thị trường khác nhau. Đồng thời, quy luật canh tranh buộc các công ty đa quốc gia phải áp dụng chính sách định giá hàng hóa thống nhất trên cơ sở mức giá thấp nhất trong khu vực tiêu thụ. Do đó, người tiêu dùng sẽ được lợi trong khi đó các công ty đa quốc gia giảm lợi nhuận. 1.7. Lợi ích riêng nếu thực hiện liên minh tiền tệ Đông Nam Á: Những lợi ích trên có thể dễ dàng nhận thấy khi tiến hành liên minh tiền tệ và hình thành sử dụng một đồng tiền chung ở một khu vực. Tuy nhiên, xét trong điều kiện cụ thể của Đông Nam Á, việc hợp tác về tiền tệ còn có thể thu được một số lợi ích khác. Thứ nhất, khi có sự thống nhất về tiền tệ đồng nghĩa với đó là việc các quốc gia sẽ quan tâm hơn đến chính sách vĩ mô của các quốc gia khác và có thể đạt được sự hợp tác nhất định. Điều này có tác dụng ngăn ngừa, kiểm soát và hạn chế tác hại khi khủng hoảng xảy ra tại một quốc gia. Thứ hai, gần đây các nước ASEAN tăng tỷ lệ thương mại nội bộ và cũng do các sản phẩm xuất khẩu của họ thường cạnh tranh với nhau trên các thị trường thứ ba. Điều này khiến cho một số nước có động cơ để phá giá nhằm tăng khả năng cạnh tranh. Do đó thay vì phá giá để tăng khả năng cạnh tranh cho riêng hàng hoá nước mình, một cơ chế phối hợp tỷ giá hối đoái trong khu vực có thể sẽ mang lại thế cân bằng hợp tác tốt hơn và đem lại lợi ích cho cả các bên. Thứ ba, thống nhất tiền tệ sẽ hỗ trợ các quốc gia trong việc tiếp cận nguồn vốn từ các nước khác khi gặp khó khăn. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 đã cho thấy rằng các cơ chế quốc tế để hỗ trợ tài chính hiện có (do IMF phối hợp) là không đủ đối với các nước. Các nguồn vốn do IMF nỗ lực cung cấp chưa đủ về quy mô, tốc độ giải ngân quá chậm và thường đi kèm với những điều kiện kinh tế vĩ mô không phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của các quốc gia bị khủng hoảng. Do đó, thay vì tích luỹ các nguồn dự trữ ngoại tệ lớn - một việc làm rất tốn kém, các nước ASEAN có thể tiết kiệm các nguồn vốn đó bằng cách kết hợp các quỹ dự trữ của các nước trong khu vực với nhau. Bên cạnh đó, liên minh tiền tệ cũng khắc phục được những hạn chế của chế độ tỷ giá cố định hay thả nổi mà các nước Đông Nam Á hiện nay đang sử dụng. Đó là chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi. Khi sử dụng đồng tiền chung, không cần thiết phải neo giá theo đồng tiền theo đồng tiền lớn khác mà sử dụng trực tiếp đồng tiền chung này, các nước cùng nhau điều hành chính sách tỷ giá nên khắc phục được hạn chế hai chế độ tỷ giá kia: không bị ảnh hưởng khi đồng tiền yết giá biến động, vừa có thể ổn định và kiểm soát được giá cả, đánh giá đúng giá trị đồng tiền theo quy luật cung cầu 2.Chi phí của việc thống nhất tiền tệ: 2.1. Mất quyền tự chủ trong hoạch định chính sách tiền tệ Tại một thời điểm thì mỗi quốc gia có một tình trạng phát triển của nền kinh tế khác nhau: Ở giai đoạn tăng trưởng nóng và có nguy cơ lạm phát cao, NHTW muốn tăng lãi suất ngắn hạn để kìm hãm tốc độ phát triển kinh tế lại.Còn ngược lại,ở giai đoạn suy thoái, NHTW lại muốn hạ lãi suất ngắn hạn để kích thích kinh tế. Nhưng khi có đồng tiền chung với một hệ thống tỷ giá cố định không điều chỉnh và không hạn chế trong chu chuyển vốn sẽ dẫn đến hình thành mức lãi suất ngắn hạn thống nhất giữa các thành viên. Các nước trong liên minh trở nên gắn chặt với nhau trong một chính sách tiền tệ thống nhất và NHTW các nước không thể tác động vào để đảm bảo lợi ích tối ưu cho quốc gia mình trong từng giai đoạn cụ thể. Điều đó gây ra tình trạng mất tự chủ trong chính sách tiền tệ của các quốc gia thành viên. 2.2.Mất tự chủ trong chính sách kinh tế vĩ mô Các quốc gia có lựa chọn về mức độ lạm phát - công ăn việc làm khác nhau .Có những nước chấp nhận mức lạm phát cao để giải quyết vấn đề việc làm, cũng có nước muốn kìm hãm mức lạm phát ở mức vừa phải và chấp nhận đánh đổi bằng tỷ lệ thất nghiệp cao hơn.Khi tham gia liên minh tiền tệ một trong những yêu cầu đối với các thành viên là phải áp dụng một chính sách kinh tễ vĩ mô nhằm bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động kinh tế. Điều này gây ra sự mất tự chủ của các nước thành viên khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát và thất nghiệp ở ngoài tầm kiểm soát. 2.3.Bất bình đẳng khu vực Việc hình thành Liên minh tiền tệ có thể khiến cho một số quốc gia thu được lợi ích nhiều, một số quốc gia thu được lợi ích ít hơn. Nó kích thích vốn và lao động di chuyển từ khu vực có năng suất lao động thấp đến nơi có năng suất lao động cao. Điều này có thể tạo ra hậu quả xã hội khá nghiêm trọng là gây thiếu hụt lực lượng lao động chính ở một số khu vực. 2.4.Chi phí thời kỳ quá độ Khi quyết định sử dụng đồng tiền chung các quốc gia thành viên phải chịu chi phí gọi là chi phí thời kì quá độ bao gồm chi phí thu hồi đồng bạc hiện hành, in đồng bạc chung, thay đổi hệ thống thông tin phù hợp với đồng tiền chung CHƯƠNG II THỐNG NHẤT TIỀN TỆ CHÂU ÂU. 1. Tổng quan về sự ra đời và quá trình thành lập của liên minh tiền tệ Châu Âu. 1.1. Tiến trình thống nhất tiền tệ Châu Âu. 1.1.1.Ý tưởng về một đồng tiền chung Ngày 1/1/1999 đồng tiền chung châu Âu (đồng Euro) chính thức ra mắt và trở thành một sự kiện lịch sử đối với quá trình nhất thể hoá châu Âu và với sự phát triển của hệ thống tiền tệ thế giới. Tham gia đồng Euro đợt đầu có 11 nước thành viên của Liên minh châu Âu EU: Đức, Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Hà Lan, Áo, Bỉ, Luxemburg, Bồ Đào Nha, Phần Lan và Ailen. Ba nước Anh, Thuỵ Điển và Đan Mạch chưa tham gia đợt này, còn Hy Lạp chưa đáp ứng đủ các tiêu chuẩn để trở thành thành viên. Tuy nhiên ý đồ cho ra đời đồng Euro đã xuất hiện từ rất sớm và là mục tiêu phấn đấu bền bỉ trong một thời gian dài của EU. Vào năm 1970 lần đầu tiên ý tưởng về một liên minh tiền tệ châu Âu được cụ thể hóa với một kế hoạch đầy tham vọng gọi là kế hoạch Werner (tên của thủ tướng Luxemburg) nhằm lập ra một liên minh kinh tế và tiền tệ trong vòng 10 năm. Sau thời hạn đó, cộng đồng châu Âu sẽ có một thực thể tiền tệ riêng biệt trong hệ thống tiền tệ quốc tế. Tuy nhiên hàng loạt các biến cố xảy ra đã làm tiêu tan kế hoạch đầy tham vọng này (sự tan vỡ của hệ thống tiền tệ Bretton Woods năm 1971, sự suy thoái kinh tế toàn cầu, khủng hoảng dầu mỏ năm 1973...). Thay vào đó Liên minh Tỷ giá hối đoái châu Âu được thành lập vào năm 1972 và sau đó là Hệ thống Tiền tệ châu Âu vào năm 1979. Hệ thống tiền tệ châu Âu có nhiệm vụ tạo ra một khu vực ổn định tiền tệ ở châu Âu tránh các dao động lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế các nước thành viên xích lại gần nhau hơn. Hệ thống tiền tệ châu Âu đã vận hành khá tốt, tạo ra một vùng tiền tệ ổn định và giảm được các rủi ro gây ra do sự biến động tiêu cực của đồng USD và đồng Yên Nhật. Đơn vị Tiền tệ châu Âu (tiếng Anh: European Currency Unit – ECU), một đơn vị thanh toán, ra đời vì mục đích này và có thể xem như là tiền thân của đồng Euro. 1.1.2.Các giai đoạn thực hiện Năm 1988 một ủy ban xem xét về lien minh kinh tế và tiền tệ dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Ủy ban châu Âu Jacques Delors đã soạn thảo báo cáo Delors dự định thành lập liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu. Liên minh này được ghi trong chương II của Hiệp ước Maastricht vào năm 1992. Tiến trình thành lập được triển khai theo 3 giai đoạn: Giai đoạn 1( 1990 – 1993): Tạo tiền đề Giai đoạn này bắt đầu từ 1/7/1990 và kết thúc ngày 31/12/1993 với nội dung chủ yếu là tăng cường sự phối hợp chính sách tiền tệ quốc gia và rút ngắn sự cách biệt về nền kinh tế của các nước thành viên. Theo lịch trình của giai đoạn, từ 1/7/1990 tư bản được tự do lưu thông trong các nước thành viên của EU và từ ngày 1/1/1993 thị trường nội địa bắt đầu vận hành. Đặc biệt trong giai đoạn tạo tiền đề này là việc thực hiện Hiệp ước Maastricht (ký ngày 7/12/1991 tại Hà Lan), với hai mục đích: kinh tế và chính trị. Về kinh tế, hướng đến thành lập một liên minh kinh tế và tiền tệ vào cuối thập niên 1990 với một đơn vị tiền tệ chung và một NHTW độc lập nhằm hạn chế sự biến động của tỷ giá thực tế giữa các nước thành viên EMU và tránh khả năng một số nước thi hành chính sách tài khoá lỏng, dẫn đến áp lực lạm phát trong toàn bộ liên minh, thực hiện ổn định giá hoàn thành thị trường chung thống nhất. Về chính trị: thành lập được một liên minh chính trị bao gồm việc thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung, tăng cường hợp tác kinh tế. Như vậy sau giai đoạn này, việc lưu chuyển vốn được tự do hóa giữa các nước trong EU. Giai đoạn 2( 1994 – 1999): Giai đoạn chuẩn bị Giai đoạn này bắt đầu từ ngày 1/1/1994 và kéo dài đến ngày 31/12/1998; nội dung chủ yếu là các bước tiếp tục chuẩn bị cho các nước thành viên áp dụng đồng tiền chung như: - Tăng cường triển khai chiến lược hội tụ về chính sách kinh tế và thị trường giữa các nước thành viên nhằm ổn định giá. - Hoàn chỉnh các công tác về mặt thể chế cho đồng Euro ra đời: xây dựng bộ máy và cơ chế vận hành của NHTW Châu Âu (ECB) - Quyết định tỷ giá chuyển đồi, tên các đơn vị tiền tệ, căn cứ vào các tiêu chuẩn xét các nước đủ tiêu chuẩn tham gia đồng Euro đợt đầu. Một điều đáng lưu ý trong giai đoạn này là sự ra đời cơ quan tiền thân của ECB là Viện Tiền tệ châu Âu (EMI) với nhiệm vụ: cụ thể hóa các khuôn khổ pháp lý,thực hiện các công việc tổ chức và hậu cần cần thiết để ECB thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình trong giai đoạn thứ 3,đồng thời chịu trách nhiệm củng cố sự phối hợp các chính sách tiền tệ trước khi hình thành liên minh kinh tế và tiền tệ và tư vấn cho các ngân hàng quốc gia thành viên về mặt này. Ngày 2/5/1998, một Hội đồng họp mặt với sự tham gia của các nguyên thủ quốc gia, bỏ phiếu quyết định việc thành viên nào sẽ áp dụng đồng Euro bắt đầu từ giai đoạn 3. Theo đó, đến ngày 09/05/1998 Nghị viện châu Âu phê chuẩn 11 nước đủ tiêu chuẩn và sẽ tham gia EURO lần đầu là Đức, Pháp, Ailen, áo, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan, ý, Lucxembourg và Phần Lan. Đồng thời ECB cũng chính thức được thành lập (1/7/1998) và bắt đầu chuẩn bị cho việc hoạch định và thi hành một chính sách tiền tệ chung. Giai đoạn 3(1/1/1999-30/6/2002): Đồng Euro chính thức đi vào lưu thông. Từ ngày 1/1/1999, đồng Euro chính thức ra đời thay thế cho đồng ECU và đi vào lưu thông từ song song tồn tại đến thay thế hoàn toàn các đồng bản tệ, trở thành đồng tiền theo đúng nghĩa của nó với tỷ lệ chuyển đổi giữa đồng tiền quốc gia của các nước thành viên với đồng Euro được ấn định không thay đổi. Bên cạnh đó, một cơ chế tỷ giá mới - gọi là cơ chế tỷ giá 2, ERM2 - gắn đồng tiền các nước chưa đủ điều kiện gia nhập với đồng Euro cũng sẽ đi vào hoạt động nhằm thúc đẩy sự hội nhập của các nước chưa đủ điều kiện với các điều kiện kinh tế vĩ mô của khu vực đồng Euro, đồng thời giúp đảm bảo sự ổn định của tỷ giá trong Liên minh Châu Âu nói chung. Một số mốc thời gian đáng chú ý là : 1/1/2002, tiền giấy và tiền xu Euro chính thức được đưa vào lưu thông, tiền giấy và tiền xu nội tệ bắt đầu rút lui khỏi lưu thông. Ngày 28/1/2002, Hà Lan là nước đầu tiên hoàn thành việc thay thế toàn bộ đồng tiền quốc gia cũ bằng đồng tiền chung. Ailen và Pháp cũng kết thúc giai đoạn tồn tại song song của hai đồng tiền vào ngày 9/2 và 17/2/2002. Với 9 nước còn lại, thời kỳ này đồng loạt chính thức kết thúc vào ngày 28/2. 1.2. Điều kiện hình thành một liên minh tiền tệ rút ra từ quá trình thống nhất tiền tệ Châu Âu. 1.2.1.Hình thành một thị trường thống nhất về hàng hóa, vốn và sức lao động: Để hình thành một khu vực tiền tệ thống nhất Liên minh tiền tệ Châu Âu (EMU) đã tuần tự trải qua các giai đoạn phát triển từ thấp đến cao trước khi đạt tới trình độ của một liên minh kinh tế và tiền tệ. Các giai đoạn đó là: khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, giai đoạn hài hoà và phối hợp chính sách kinh tế và cuối cùng là một liên minh kinh tế hoàn chỉnh với một số chính sách kinh tế được hoạch định ở cấp độ khu vực. Hoàn thành ba giai đoạn đầu chính là đã hình thành được một thị trường thống nhất về hàng hoá, vốn và sức lao động. Cụ thể trong trường hợp của châu Âu, hai giai đoạn đầu: khu vực thương mại tự do và liên minh thuế quan được hoàn thành một cách nhanh chóng. Khoảng năm 1960, các nước đã cam kết cắt giảm, xóa bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan với nhau. Kết quả tính đến ngày 1/7/1968, tất cả các hàng rào thuế quan về số lượng đối với hàng hoá và dịch vụ xuất và nhập khẩu đã được dỡ bỏ. Tuy nhiên, việc xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan như các tiêu chuẩn về y tế, vệ sinh, an toàn, kỹ thuật thì gặp nhiều khó khăn hơn do đó, dỡ bỏ các hàng rào này đòi hỏi phải phối hợp nhiều chính sách và luật lệ chứ không chỉ đơn giản là cắt giảm thuế như trường hợp các hàng rào thuế quan. Phải đến giữa những năm 1980, Cộng đồng châu Âu mới đạt được những tiến bộ quan trọng trong lĩnh vực này. Giai đoạn thứ ba "thị trường chung" (ngoài việc tự do hóa thương mại, tự do hóa dịch vụ, bảo hộ đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử, liên minh thuế quan còn cộng thêm các yếu tố như tự do di chuyển các yếu tố sản xuất như : vốn, lao động…giữa các nước thành viên) được coi là chính thức hoàn thành ngày 31/12/1992. Tuy nhiên, kể cả cho tới ngày hôm nay, vẫn còn nhiều lĩnh vực như dịch vụ tài chính, năng lượng, viễn thông... cần được tiếp tục cải cách để thị trường của Liên minh châu Âu thực sự là một thị trường chung. 1.2.2. Điều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo tiêu chí thống nhất Cụ thể Hiệp ước Masstricht năm 1991 đã đề ra thời gian biểu chi tiết và những điều kiện để các nước tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình hội nhập tiền tệ châu Âu. Nội dung của Hiệp ước như sau : - Đạt được mức độ ổn định cao về giá cả, thể hiện ở tỷ lệ lạm phát (trong 12 tháng trước đó) không quá 1,5% so với tỷ lệ lạm phát của 3 nước thành viên có tỷ lệ lạm phát thấp nhất. - Duy trì tỷ lệ lãi suất dài hạn ổn định sao cho trung bình của thời kỳ mười hai tháng trước đó không quá 2% so với mức trung bình của ba nước thành viên có giá cả ổn định nhất khu vực. - Tuân thủ biên độ dao động bình thường mà cơ chế tỷ giá hối đoái của EMS cho phép cụ thể là một nước thành viên không được chủ ý phá giá đồng tiền của mình so với tỷ giá trung tâm với một đồng tiền của một nước khác. - Duy trì tình hình tài chính của chính phủ ổn định, ngân sách chính phủ thâm hụt không quá 3% GDP và tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP không vượt quá 60%. Có thể thấy hai nội dung đầu tiên của Hiệp ước Masstricht nhằm hạn chế sự biến động của tỷ giá thực tế khi tỷ giá danh nghĩa đã được biến động. Nội dung thứ ba đã buộc các nước thành viên tương lai khi hoạch định chính sách tiền tệ phải cân nhắc đến lợi ích của cả khối mà không chỉ là lợi ích của nước mình. Nội dung cuối cùng là để tránh sự mất cân đối của một nước thành viên ảnh hưởng tiêu cực đến một nước thành viên khác thông qua áp lực thực hiện chính sách tiền tệ lỏng quá mức hay thậm chí là cho vay để cứu nguy cho chính phủ nước đó. Bên cạnh đó các điều kiện này còn nhằm tạo ra một môi trường ổn định giá cả và dần dần chuyển các chính sách kinh tế vĩ mô từ phục vụ lợi ích của từng nước sang phục vụ lợi ích của cả liên minh. Như vậy, điều chỉnh kinh tế để hội nhập là một tiền đề quan trọng để tránh sự bất ổn định về kinh tế vĩ mô và do đó, là một yêu cầu quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị cho sự ra đời của một đồng tiền chung. 1.2.3. Thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá Trước khi đồng Euro ra đời và cùng với nó là một cơ chế liên kết tỷ giá chặt chẽ và hiệu quả, cộng đồng Châu Âu cũng đã từng xuất hiện nhiều cơ chế liên kết tỷ giá để hỗ trợ cho việc phát triển kinh tế của các nước thành viên: Giai đoạn đầu tiên là từ khi bắt đầu thành lập Cộng đồng vào năm 1957 cho đến khi thiết lập Hệ thống tiền tệ châu Âu năm 1979. Sự phối hợp trên lĩnh vực tỷ giá hối đoái ở giai đoạn này nhìn chung còn lỏng lẻo. Sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ và cuộc khủng hoảng dầu lửa lần thứ nhất nổ ra năm 1973, các nước đã không thể thống nhất được về một biện pháp đối phó chung. Mỗi nước tự đưa ra chính sách tài khoá và tiền tệ riêng của mình để đối phó và tỷ giá hối đoái càng trở nên bất ổn định. Cuối cùng, các nước áp dụng chính sách kinh tế vĩ mô lỏng đã buộc phải thả nổi đồng tiền của mình. Giai đoạn thứ hai đánh dấu bằng sự ra đời của Hệ thống tiền tệ châu Âu (ECU) và kéo dài đến khi xảy
Luận văn liên quan