Khóa luận Ảnh hưởng của chính sách thương mại tới việc xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam

Sau hơn 20 năm đổi mới cơ chế chính sách thương mại VN, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi thời kỳ khó khăn, khủng hoảng; chính trị-xã hội ổn định; đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể; kinh tế tăng trưởng nhanh, nền kinh tế đang phát triển theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mặc dù xuất phát là một nước nông nghiệp, nổi tiếng với việc xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm , thuỷ sản, Việt Nam đang dần tập trung mũi nhọn vào xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến - mặt hàng có hàm lượng công nghệ và giá thành cao hơn đồng thời cũng là mặt hàng sẽ giúp nước ta tăng trưởng xuất khẩu. Khi đó chúng ta đã có những chính sách gì để thúc đẩy sự phát triển của các mặt hàng này? Em đã chọn đề tài khoá luận tốt nghiệp " ảnh hưởng của chính sách thương mại tới việc xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam' để nghiên cứu một cách chi tiết hơn về tình hình xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam những năm gần đây cũng như việc điều chỉnh các chính sách thương mại nhằm thúc đẩy phát triển xuất khẩu các mặt hàng này. Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn ở việc nghiên cứu về chính sách thương mại Việt Nam đối với việc xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp chủ lực. Để thực hiện đề tài nghiên cứu, em chủ yếu dựa vào phương pháp phân tích tổng hợp kết hợp với các phương pháp bổ trợ như phân tích, thống kê. kết hợp các công cụ hỗ trợ như hệ thống bảng biểu. nhằm minh hoạ rõ nét các vấn đề nghiên cứu. Bố cục đề tài được kết cấu 3 chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận liên quan đến chinh sách thương mại và mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Chương II: Thực trạng tác động của chinh sách thương mại tới hoạt động xuất khẩu một số mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt Nam. Chương III: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện chính sách thương mại VN trong điều kiện hội nhập thương mại thế giới.

doc80 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2960 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Ảnh hưởng của chính sách thương mại tới việc xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Sau hơn 20 năm đổi mới cơ chế chính sách thương mại VN, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi thời kỳ khó khăn, khủng hoảng; chính trị-xã hội ổn định; đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể; kinh tế tăng trưởng nhanh, nền kinh tế đang phát triển theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mặc dù xuất phát là một nước nông nghiệp, nổi tiếng với việc xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm , thuỷ sản, Việt Nam đang dần tập trung mũi nhọn vào xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến - mặt hàng có hàm lượng công nghệ và giá thành cao hơn đồng thời cũng là mặt hàng sẽ giúp nước ta tăng trưởng xuất khẩu. Khi đó chúng ta đã có những chính sách gì để thúc đẩy sự phát triển của các mặt hàng này? Em đã chọn đề tài khoá luận tốt nghiệp " ảnh hưởng của chính sách thương mại tới việc xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam' để nghiên cứu một cách chi tiết hơn về tình hình xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam những năm gần đây cũng như việc điều chỉnh các chính sách thương mại nhằm thúc đẩy phát triển xuất khẩu các mặt hàng này. Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn ở việc nghiên cứu về chính sách thương mại Việt Nam đối với việc xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp chủ lực. Để thực hiện đề tài nghiên cứu, em chủ yếu dựa vào phương pháp phân tích tổng hợp kết hợp với các phương pháp bổ trợ như phân tích, thống kê... kết hợp các công cụ hỗ trợ như hệ thống bảng biểu... nhằm minh hoạ rõ nét các vấn đề nghiên cứu. Bố cục đề tài được kết cấu 3 chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận liên quan đến chinh sách thương mại và mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Chương II: Thực trạng tác động của chinh sách thương mại tới hoạt động xuất khẩu một số mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt Nam. Chương III: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện chính sách thương mại VN trong điều kiện hội nhập thương mại thế giới. Với kiến thức hiểu biết còn hạn hẹp, khoá luận tốt nghiệp này không thể không tránh khỏi những sơ sót nhất định. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý quý báu của các thầy cô giáo và bạn bè cùng trường. Cuối cùng, em xin được bày tỏ sự biết ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo khoa Kinh tế Ngoại thương đã nhiệt tình dạy dỗ và cung cấp cho em những kiến thức cần thiết và bổ ích trong quá trình em học tập tại trường. Đặc biệt em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo, Th.S Vũ Đức Cường - người đã tận tình trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành Khoá luận tốt nghiệp của mình. Hà Nội, tháng 06, năm 2009 Sinh viên Nguyễn Như Quỳnh CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VÀ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM I. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI 1. Khái niệm chính sách thương mại Chính sách thương mại là hệ thống các quy định, công cụ và biện pháp thích hợp của Nhà nước để điều chỉnh các hoạt động thương mại của quốc gia trong những thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách thương mại là một bộ phận của chính sách kinh tế – xã hội của Nhà nước, nó bao gồm nhiều loại chính sách để điều chỉnh toàn bộ hoặc các hoạt động thương mại cụ thể khách nhau. Chính vì vậy, có nhiều cách tiếp cận và phân loại chính sách thương mại khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Trong thực tiễn, người ta thường đề cập tới chính sách thương mại cụ thể. Chẳng hạn: Chính sách thương mại quy định các hoạt động thương mại của thương nhân, chính sách phát triển thương mại trong nước và quốc tế, chức trách của các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thương mại, tổ chức lưu thông hàng hoá, phát triển thương mại ở các vùng, chính sách thuế quan, chính sách phi thuế quan, trách nhiệm và quyền hạn của các thương nhân khi kinh doanh thương mại trong nước hay với nước ngoài, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thương mại. Để phục vụ mục đích nghiên cứu, người viết chủ yếu tiếp cận chính sách phát triển xuất khẩu. Nội dung của chính sách thương mại ở nước ta Các chính sách thương mại khác nhau sẽ có những nội dung cụ thể khác nhau, song các chính sách thương mại đều có các nội dung điều chỉnh hoạt động của thương nhân, điều chỉnh thị trường, mặt hàng hoặc các quy định về đầu tư phát triển thương mại. Dưới đây là nội dung chủ yếu của các quy định này: Chính sách thương nhân: Chính sách thương nhân ở nước ta hiện nay quy định việc đăng ký kinh doanh được thực hiện tại cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; quy định quyền hạn và nghĩa vụ của thương nhân; quy định quyền hạn và nghĩa vụ của thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam, theo đó các thương nhân nước ngoài phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam và đồng thời cũng được hưởng một số ưu đãi và được tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Chính sách thị trường: đối với thị trường trong nước, chính sách của Nhà nước ta hiện nay là đảm bảo tập trung nguồn lực để thúc đẩy sản xuất hàng hoá, quy hoạch và cơ cấu lại để có những vung chuyên canh sản xuất hàng hoá lớn, đảm bảo hệ thống lưu thông hàng hoá thông suốt giữa các vùng, các địa phương; đảm bảo cho sản xuất, lưu thông và tiêu dùng hàng hóa cân đối, tránh những biến động bất ổn trên thị trường; thúc đẩy việc hình thành đồng bộ các loại thị trường, đảm bảo nhất quán, ổn định thị trường, hình thành thị trường thống nhất trong phạm vi toàn quốc với nhiều cấp độ thị trường và chú trọng phát triển các thị trường trọng điểm quốc gia, vùng lãnh thổ. Đối với thị trường ngoài nước, chính sách thị trường hiện hành của Nhà nước Việt Nam hướng vào mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tích cực mở rộng, tìm kiếm và tiếp cận thêm các thị trường mới. Chính sách mặt hàng: gồm các quy định cụ thể đối với các loại mặt hàng như các mặt hàng cấm kinh doanh, mặt hàng kinh doanh có điều kiện, mặt hàng thuộc diện hạn chế kinh doanh, mặt hàng khuyến khích và tự do kinh doanh, các mặt hàng quan trọng đối với nền kinh tế do Nhà nước cân đối ở tầm quốc gia và quản lý tập trung. Chính sách mặt hàng bao gồm nhiều tầng, vừa bảo đảm tính đa dạng, phong phú về chủng loại, vừa có mũi nhọn, chiều sâu ở cấp quốc gia, cũng như các cấp, các đơn vị của nền kinh tế quốc dân. Chính sách mặt hàng phải đảm bảo phát triển mặt hàng với cơ cấu hợp lý, phù hợp với nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu. Chính sách đầu tư phát triển thương mại: để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh thương mại, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo điều kiện mở rộng giao lưu hàng hoá và phát triển thị trường Nhà nước còn có hệ thống chính sách và giải pháp phát triển vốn đầu tư cho thương mại thích ở cả tầm vĩ và vi mô. 3. Vai trò của chính sách thương mại đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và đối với hoạt động xuất khẩu nói riêng Hoạt động kinh tế trong một nền mậu dịch tự do diễn ra theo các quy luật kinh tế, đó là quy luật về giá cả, cung cầu, quy luật cạnh tranh …, các quy luật kinh tế này tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người. Nếu một nền kinh tế nào hoạt động dưới tác động, điều tiết của quy luật kinh tế thì sẽ tối đa hoá được lợi nhuận có thể rút ra từ các nguồn tài nguyên hiện có. Nhưng với một nền kinh tế thị trường không có sự quản lý của Nhà nước sẽ dễ dàng nảy sinh ra những khuyết tật của thị trường như tình trạng phân hoá giàu nghèo rất cao, tình trạng thất nghiệp sẽ ngày càng nghiêm trọng mà từ đó sẽ nảy sinh ra những tệ nạn xã hội, hoặc có những lĩnh vực có ích cho cộng đồng và phát triển kinh tế như xây dựng hạ tầng cơ sở, đầu tư vào giáo dục, y tế cần nhiều vốn nhưng thời gian thu hồi chậm và lợi nhuận thu được ít thì sẽ không được các nhà đầu tư quan tâm. Chính vì những lý do trên, để hướng nền kinh tế phát triển theo hướng có lợi nhất và phù hợp nhất với đặc điểm kinh tế của từng quốc gia, chính sách tự do hoá thương mại cũng cần có sự quản lý của Nhà nước dù ở mức độ can thiệp, quản lý của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường như thế nào lại phụ thuộc vào điều kiện lịch sử và quan điểm nhận thức của mỗi nước. Vì vậy, chúng ta thấy hiện nay các nước đều sử dụng chính sách thương mại của mình để can thiệp vào thị trường, thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển bền vững, ổn định và khuyến khích xuất khẩu, xâm nhập ra thị trường nước ngoài. Chính sách thương mại là một trong những chính sách quan trọng mà mỗi quốc gia xuất phát từ đặc điểm và mục tiêu kinh tế - xã hội của mình xây dựng nên một cách phù hợp. Ngoài ra chính sách thương mại của một nước chịu ảnh hưởng và cũng chi phối hoạt động xuất nhập khẩu của các nước khác. Ở Việt Nam, chính sách thương mại đã dần xoá bỏ được các định kiến. Về cơ bản đã xoá bỏ được cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất, nhập khẩu. Xây dựng được một hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu vận hành theo cơ chế thị trường. Từ đó đã khơi dậy được mọi tiềm năng sức sáng tạo, tính chủ động của các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế để phát triển xuất khẩu. Chính sách thương mại thúc đẩy xuất khẩu phát triển đã góp phần mang lại nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Từ chỗ Ngân sách Nhà nước hàng năm phải chi một khoản tiền lớn để bù lỗ cho hoạt động xuất, nhập khẩu vào những năm 80, đến những năm gần đây, ngân sách Nhà nước đã có nguồn thu đáng kể từ hoạt động này. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu phát triển cũng đã đóng góp phần nào trong việc giải quyết khủng hoảng kinh tếm kiềm chế và đẩy lùi lạm phát trong những năm 80. Sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã, nguồn nhập khẩu thiết bị, nguyên nhiên vật liệu quan trọng, hàng tiêu dùng thiết yếu chủ yếu bằng vay nợ và viện trợ không còn, hoạt động xuất-nhập khẩu đã vươn lên, xuất khẩu tăng mạnh đảm bảo nhập khẩu thiết bị, vật tư nguyên nhiên liệu cho phát triển kinh tế, hàng tiêu dùng nhập khẩu phong phú và đa dạng, từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Chính sách thương mại cũng thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. Từ chỗ thương nhân chỉ được xuất khẩu những hàng hoá được Bộ Thương mại cho phépm những năm gần đây, thương nhân được xuất khẩu tất cả các loại hàng hoá trừ hàng cấm xuất khẩu và một số ít hàng hoá xuất khẩu có điều kiện được quy định công khai, minh bạch. Hầu hết hàng hoá xuất khẩu chỉ phải làm thủ tục tại Hải quan cửa khẩu. Nhờ đổi mới chính sách thương mại mà quy mô xuất khẩu tăng nhanh chóng. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu tăng 46 lần so với năm 1985. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất-nhập khẩu trong giai đoạn 1986-2005 của Việt Nam thuộc loại cao nhất thế giới, giúp quy mô kim ngạch xuất khẩu của nước ta ngày càng lớn mạnh, thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cơ cấu hàng xuất khẩu được chuyển dịch theo hướng tích cực, hàng hoá xuất khẩu ngày càng phong phú, tỷ trọng hàng công nghiệp và chế biến ngày càng tăng trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Hơn nữa, thị trường xuất khẩu được mở rộng qua đó, không những ta đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do việc Liên Xô và hệ thống XHCN tan rã gây nên mà còn mở rộng được thị trường xuất khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tạo thêm việc làm, tăng thu ngân sách. Cơ cấu thị trường xuất khẩu được cải thiện rõ rệt, từ chỗ lệ thuộc hoàn toàn vào thị trường Liên Xô và các nước XHCN, đến nay, thị trường xuất khẩu rất đa dạng. Đến hết năm 2004, hàng hoá xuất khẩu của VN đã vươn tới trên 221 thị trường trên thế giới, nhiều hàng hoá Việt Nam đã có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ… Chính sách thương mại của nước ta đã từng bước cụ thể hoá đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, đưa nước ta từ một nền kinh tế đóng sang một nền kinh tế mở, đã và đang gặt hái được nhiều thành công rất đáng khích lệ. II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC 1. Khái niệm Mặc dù có chính sách đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, nghĩa là một nước không chỉ chuyên vào xuất khẩu một vài sản phẩm, nhưng các quốc gia đều có chính sách xây dựng những mặt hàng chủ lực - những con át chủ bài của nền ngoại thương. Trên thế giới mỗi nước, thậm chí mỗi nhóm nghiên cứu có thể đưa ra khái niệm về mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác nhau. Có nước quan niệm hàng hoá nào sản xuất ra chủ yếu dành cho xuất khẩu thì gọi là hàng xuất khẩu chủ lực; có quan điểm cho rằng hàng xuất khẩu nào có thị trường tiêu thụ ổn định thì mặt hàng đó là chủ lực; có quan điểm lại cho rằng hàng hoá xuất khẩu nào mà có tỷ trọng nguyên liệu nội địa chủ yếu không phụ thuộc vào nước ngoài thì coi là hàng chủ lực. Tất cả các quan niệm trên đều đúng một phần nhưng chưa toàn diện và chưa đầy đủ. Chính vì chưa có định nghĩa nào chính xác nên theo quan niệm của tác giả chúng ta có thể hiểu hàng chủ lực như sau: Hàng chủ lực là những hàng hoá có điều kiện sản xuất ở trong nước với hiệu quả kinh tế cao hơn những hàng hoá khác; có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định, chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của một quốc gia. Trên cơ sở đó, người ta thường chia cơ cấu xuất khẩu của một quốc gia thành 3 nhóm hàng: (1) nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực, (2) nhóm mặt hàng xuất khẩu quan trọng và (3) nhóm mặt hàng xuất khẩu thứ yếu. Hàng chủ lực là loại hàng chiếm vị trí quyết định trong kim ngạch xuất khẩu do có thị trường ngoài nước và điều kiện sản xuất trong nước thuận lợi. Hàng quan trọng là hàng không chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu, nhưng đối với từng thị trường, từng địa phương lại có vị trí quan trọng. Hàng thứ yếu gồm nhiều loại, kim ngạch của chúng thường nhỏ. 2. Quá trình hình thành và đặc điểm Vấn đề xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã được Nhà nước đề ra từ cuối những năm 1960. Tuy nhiên, chỉ mới gần đây, khi chúng ta tiếp xúc mạnh mẽ với thị trường thế giói, chúng ta mới cảm nhận vấn đề một cách nghiêm túc và thấy rõ được tầm quan trọng của nó. Hàng xuất khẩu chủ lực hình thành như thế nào? Trước hết nó được hình thành qua quá trình thâm nhập vào thị trường nước ngoài, qua những cuộc cọ sát cạnh tranh mãnh liệt trên thị trường thế giói. Và cuộc hành trình đi vào thị trường thế giới ấy kéo theo việc tổ chức sản xuất trong nước trên quy mô lớn chất lượng phù hợp với đòi hỏi của người tiêu dùng. Nếu đứng vững được thì mặt hàng đó liên tục phát triển. Như vậy, một mặt hàng chủ lực ra đời ít nhất cần có 3 đặc điểm cở bản: Có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và luôn cạnh tranh được trên thị trường đó; Có nguồn lực để tổ chức sản xuất và sản xuất với chi phí thấp để thu được lợi trong buôn bán; Có khối lượng kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước; Vị trí của mặt hàng xuất khẩu chủ lực không phải là vĩnh viễn. Một mặt hàng ở thời điểm này có thể được coi là hàng xuất khẩu chủ lực, nhưng ở thời điểm khác thì không. Hoặc nó chỉ chiếm thị phần ở một số thị trường nhất định chứ không phải ở tất cả các thị trường. Ví dụ: Vào những năm 1960 thì than có thể coi là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Nhưng vào đầu những năm 1990 thì có thể coi dầu thô, gạo là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta. 3. Ý nghĩa của việc xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực Xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực luôn được tất cả các nước coi trọng và tập trung đầu tư phát triển. Ví dụ các nước phát triển như Mỹ có những nhóm hàng như máy bay, ôtô, điện tử, tin học các sản phẩm công nghệ sinh học…; Đức như ôtô, thiết bị điện, dụng cụ chính xác…; Nhật có ôtô, điện tử… Các nước Đang phát triển như Thái Lan có gạo, gỗ,sản phẩm công nghiệp nhẹ, dịch vụ du lịch…; Malaisia có dầu cọ, gỗ, dầu khí, dịch vụ du lịch… Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã gây nên áp lực kể cả kinh tế và chính trị đối với một số nước như sự kiện cung cấp khí đốt của Nga cho Ucraina và Tây Âu, sự đột biết tăng của giá dầu của những năm 2004, 2005… Do vậy, việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có ý nghĩa rất lớn: Mở rộng quy mô sản xuất trong nước, trên cơ sở đó kéo theo việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, mở rộng và làm phong phú thị trường nội địa; Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, từ đó góp phần tăng ngân sách nhà nước cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; Tạo điều kiện giữ vững, ổn định thị trường xuất và nhập khẩu; Tạo cơ sở vật chất để mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với nước ngoài. Để hình thành được những mặt hàng xuất khẩu chủ lực Nhà nước cần có những biện pháp, chính sách ưu tiên hỗ trợ trong việc nhanh chóng có được những mặt hàng, nhóm hàng xuất khẩu chủ lực. Các biện pháp và chính sách ưu tiên đó là thu hút vốn đầu tư trong, ngoài nước và các chính sách tài chính… cho việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam những năm gần đây Nếu như trước đây Việt Nam lấy nông nghiệp làm gốc và coi việc xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản là một thế mạnh thì những năm gần đây, đặc biệt là bước sang năm 2009, khi mà nền kinh tế quốc gia cũng chịu những ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đã có sự thay đổi và mũi nhọn dần dần tập trung vào nhóm hàng công nghiệp chế biến. Nhóm hàng công nghiệp chế biến có thể chiếm tỷ trọng hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu. Dự kiến, kim ngạch XK nhóm hàng công nghiệp chế biến năm 2009 đạt khoảng 52,9 tỷ USD, tăng 38,7% so với năm 2008 (tăng 14,7 tỷ USD). Trong nhóm hàng công nghiệp chê biến cần đặc biệt quan tâm chỉ đạo một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn và có khả năng tăng trưởng cao, đó là dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, dây điện và cáp điện. 4.1 Dệt may Ở Việt Nam, mặc dù là một nước lạc hậu, kém phát triển nhưng so với ngành dệt may trên thế giới thì cũng có rất nhiều điểm nổi bật. Trước đây, vào thời phong kiến khi máy móc, khoa học kĩ thuật chưa phát triển ở nước ta thì ngành dệt may Việt Nam đã hình thành từ ươm tơ, dệt vải với hình thức đơn giản thô sơ nhưng mang đầy kĩ thuật tinh sảo và có giá trị rất cao. Sau đó ươm tơ dệt vải đã trở thành một nghề truyền thống của Việt Nam được truyền từ đời này qua đời khác nhờ vào những đôi bàn tay khéo léo của người phụ nữ Việt Nam. Dù những công việc đó rất giản đơn nhưng chính những nghề truyền thống này đã tạo ra một phong cách rất riêng cho ngành dệt may Việt Nam ta mà không một nước nào có được. Ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam bắt đầu phát triển từ những năm 1958 ở miền Bắc và đến năm 1970 ở miền Nam, nhưng mãi tới năm 1975 khi đất nước thống nhất, ngành dệt may mới được ổn định. Nhà máy được hình thành ở 3 miền: miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Các nhà máy này đã thu hút và giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn lao động. Khi đất nước vừa thoát khỏi ách thống trị, đang còn trong tình trạng kinh tế trì trệ kém phát triển thì các nhà máy của ngành đóng một vai trò rất to lớn đối với đất nước. Lúc đầu, các nhà máy chỉ sản xuất hàng hoá để phục vụ nhu cầu trong nước. Sản lượng sản xuất ra không nhiều vì lúc đó máy móc, thiết bị còn lạc hậu, toàn là những máy cũ nhập từ các nước xã hội chủ nghĩa, hơn nữa trình độ quản lý cũng còn rất hạn chế. Ngay cả hàng sản xuất để phục vụ cho nhu cầu trong nước cũng không đáp ứng đủ yêu cầu về chất lượng, mẫu mã còn nghèo nàn ít ỏi. Thời kì từ năm 1975 đến năm 1985 nền kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế tập trung bao cấp, đầu vào và đầu ra của sản xuất được cung ứng theo chỉ tiêu của Nhà nước, việc sản xuất và quản lý theo ngành khép kín và hướng vào nhu cầu tiêu dùng nội địa là chính còn xuất khẩu trong giai đoạn này chỉ thực hiện trong khuôn khổ Hiệp định và Nghị định thư của nước ta kí kết với khu vực Đông Âu - Liên Xô trước đây. Do đó ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu đi nước ngoài chủ yếu là sang thị trường Liên Xô và thị trường Đông Âu. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu chủ yếu là gia công hàng bảo hộ lao động cho hai thị trường này với nguyên liệu, thiết bị do họ cung cấp. Sản lượng dệt may cho tới năm 1980 đạt 50 triệu sản phẩm các loại, 80% xuất sa
Luận văn liên quan