Khóa luận Ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh australia đến năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam

Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, thế giới phát triển với tốc độ nhanh chóng hơn hẳn những giai đoạn trước cả về kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật và xã hội. Sự phát triển của mạng thông tin toàn cầu Internet đã làm các khái niệm về biên giới và khoảng cách trở nên lỏng lẻo. Việc kinh doanh buôn bán không thể bó hẹp trong mỗi địa phương, mỗi quốc gia thậm chí mỗi khu vực. Vấn đề toàn cầu hóa trong kinh doanh đã và đang trở thành hiện thực trên khắp trái đất mà gắn liền với nó là ảnh hưởng qua lại giữa các nền văn hóa của các quốc gia. Trong xu thế đó, Việt Nam đã chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới, biểu hiện tích cực và gần đây nhất là việc Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Bên cạnh những cơ hội về thị trường, vốn và công nghệ mở ra trước mắt, chúng ta cũng đang đối mặt với những thách thức về kinh nghiệm, cạnh tranh của các thị trường khác ngày càng gay gắt. Muốn cạnh tranh được trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, Việt Nam cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp cũng như của toàn nền kinh tế mà trước hết là các yếu tố như chất lượng sản phẩm, giá cả, thương hiệu. Hiện nay, chất lượng hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới đã nhận được những phản hồi tích cực từ phía những thị trường khó tính nhất như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Tuy nhiên để tạo được cá biệt hóa so với hàng hóa từ các nước đang phát triển khác, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải thỏa mãn được những nhu cầu về sản phẩm của từng thị trường. Nghiên cứu thị hiếu, sở thích, thói quen và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng của khách hàng là một cách làm không quá tốn kém nhưng mang lại hiệu quả và là một chiến lược có thể áp dụng lâu dài. Do đó, việc nghiên cứu văn hóa kinh doanh của các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam là một điều cần thiết trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Ở Việt Nam, khái niệm văn hóa kinh doanh còn khá mới mẻ, những hiểu biết của doanh nghiệp về vấn đề này còn ít. Điều này không chỉ gây ra những hạn chế cho 2 doanh nghiệp của Việt Nam trong buôn bán quốc tế mà đôi khi còn tạo ra những sai lầm nghiêm trọng do những sản phẩm gây xung đột văn hóa hay những hành xử là điều cấm kị đối với bạn hàng quốc tế. Trong kinh doanh, văn hóa được thể hiện vô cùng phong phú dưới nhiều hình thức và đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc quyết định thành công hay thất bại của quan hệ thương mại giữa các doanh nghiệp cũng như quốc gia. Australia, một quốc gia phát triển rất gần Việt Nam và cùng nằm trong khu vực kinh tế năng động Châu Á-Thái Bình Dương, đã trở thành một thị trường quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Điều này đã được chứng minh trong 30 năm qua và đặc biệt những năm gần đây, các hoạt động đầu tư, thương mại. cả hai chiều đạt tăng trưởng cao. Các hoạt động đó được củng cố vững chắc thông qua hàng loạt những chương trình hỗ trợ, hợp tác về giáo dục, môi trường. Tuy nhiên kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai quốc gia vẫn chưa xứng với tiềm năng dồi dào, trong đó một phần cũng do việc chưa thống nhất về văn hóa kinh doanh của nhau. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu văn hóa kinh doanh của Australia và ảnh hưởng của nó đến năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp văn hóa nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam củng cố và phát triển năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường tiềm năng này.

pdf113 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1908 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh australia đến năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP TÊN ĐỀ TÀI: ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA KINH DOANH AUSTRALIA ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HÓA VIỆT NAM Họ và tên sinh viên : Vũ Việt Dũng Lớp : A16 – K42D Khoá : 42 Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Hoàng Ánh Hà Nội, tháng 10/2007 MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 Chương 1: Cơ sở lý luận về văn hóa kinh doanh và năng lực cạnh tranh 4 của hàng hóa. 4 1.1. Tổng quan về văn hoá kinh doanh. 1.1.1. Khái niệm 4 1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa kinh doanh 10 1.2. Năng lực cạnh tranh 14 1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh 14 1.2.2. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh 17 1.3. ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh đến năng lực cạnh tranh của 20 hàng hóa 1.3.1. Chất lượng 20 1.3.2. Chính sách giá cả 22 1.3.3. Chính sách phân phối 24 Kết luận Chương 1 25 Chương 2: ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh đến năng lực cạnh tranh 27 của hàng Việt Nam trên thị trường Australia 2.1. Tổng quan về văn hóa kinh doanh Australia 27 2.1.1. Giới thiệu chung về Australia 27 2.1.2. Văn hóa Australia 30 2.1.3. Văn hóa kinh doanh của Australia 35 2.2. Vài nét về quan hệ Việt Nam – Australia 45 2.2.1. Quan hệ ngoại giao Việt Nam – Australia 45 2.2.2. Quan hệ thương mại Việt Nam - Australia 46 2.3. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường Australia 50 2.3.1. Chất lượng sản phẩm 52 2.3.2. Giá thành sản phẩm 53 2.3.3. Phương pháp phân phối 54 2.3.4. Hỗ trợ và xúc tiến kinh doanh 55 2.4. ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Australia đến năng lực cạnh 56 tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường này 2.4.1. Chất lượng sản phẩm 56 2.4.2. Chính sách giá cả 58 2.4.3. Chính sách phân phối 59 2.4.4. Chính sách hỗ trợ và xúc tiến kinh doanh 60 Kết luận Chương 2 61 Chương 3: Giải pháp về văn hóa nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của 62 hàng hóa Việt Nam trên thị trường Australia 3.1. Phân tích SWOT của hàng hóa Việt Nam trên thị trường Australia 62 3.1.1. Điểm mạnh 62 3.1.2. Điểm yếu 63 3.1.3. Cơ hội 65 3.1.4. Thách thức 70 3.2. Đánh giá ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Australia đến năng lực 76 cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam 3.2.1. Những thành công của hàng hóa Việt Nam trên thị trường Australia 76 3.2.2. Những khó khăn tồn tại của hàng hóa Việt Nam trên thị trường 77 Australia 3.3. Giải pháp văn hóa nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng Việt 79 Nam trên thị trường Australia 3.3.1. Giải pháp vĩ mô 80 3.3.2. Giải pháp vi mô 84 Kết luận Chương 3 87 KẾT LUẬN 88 Tài liệu tham khảo 89 Phụ lục 1: Bản đồ Australia 89 Phụ lục 2: Tiếng lóng trong ngôn ngữ Anh – Australia 90 Phụ lục 3: Hiệp định Thương mại và hợp tác kinh tế giữa Cộng hòa xã 101 hội chủ nghĩa Việt Nam và Australia LỜI NÓI ĐẦU I. Lời mở đầu: Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, thế giới phát triển với tốc độ nhanh chóng hơn hẳn những giai đoạn trước cả về kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật và xã hội. Sự phát triển của mạng thông tin toàn cầu Internet đã làm các khái niệm về biên giới và khoảng cách trở nên lỏng lẻo. Việc kinh doanh buôn bán không thể bó hẹp trong mỗi địa phương, mỗi quốc gia thậm chí mỗi khu vực. Vấn đề toàn cầu hóa trong kinh doanh đã và đang trở thành hiện thực trên khắp trái đất mà gắn liền với nó là ảnh hưởng qua lại giữa các nền văn hóa của các quốc gia. Trong xu thế đó, Việt Nam đã chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới, biểu hiện tích cực và gần đây nhất là việc Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Bên cạnh những cơ hội về thị trường, vốn và công nghệ mở ra trước mắt, chúng ta cũng đang đối mặt với những thách thức về kinh nghiệm, cạnh tranh của các thị trường khác ngày càng gay gắt. Muốn cạnh tranh được trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, Việt Nam cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp cũng như của toàn nền kinh tế mà trước hết là các yếu tố như chất lượng sản phẩm, giá cả, thương hiệu... Hiện nay, chất lượng hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới đã nhận được những phản hồi tích cực từ phía những thị trường khó tính nhất như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản... Tuy nhiên để tạo được cá biệt hóa so với hàng hóa từ các nước đang phát triển khác, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải thỏa mãn được những nhu cầu về sản phẩm của từng thị trường. Nghiên cứu thị hiếu, sở thích, thói quen và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng của khách hàng là một cách làm không quá tốn kém nhưng mang lại hiệu quả và là một chiến lược có thể áp dụng lâu dài. Do đó, việc nghiên cứu văn hóa kinh doanh của các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam là một điều cần thiết trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Ở Việt Nam, khái niệm văn hóa kinh doanh còn khá mới mẻ, những hiểu biết của doanh nghiệp về vấn đề này còn ít. Điều này không chỉ gây ra những hạn chế cho 1 doanh nghiệp của Việt Nam trong buôn bán quốc tế mà đôi khi còn tạo ra những sai lầm nghiêm trọng do những sản phẩm gây xung đột văn hóa hay những hành xử là điều cấm kị đối với bạn hàng quốc tế. Trong kinh doanh, văn hóa được thể hiện vô cùng phong phú dưới nhiều hình thức và đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc quyết định thành công hay thất bại của quan hệ thương mại giữa các doanh nghiệp cũng như quốc gia. Australia, một quốc gia phát triển rất gần Việt Nam và cùng nằm trong khu vực kinh tế năng động Châu Á-Thái Bình Dương, đã trở thành một thị trường quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam.. Điều này đã được chứng minh trong 30 năm qua và đặc biệt những năm gần đây, các hoạt động đầu tư, thương mại... cả hai chiều đạt tăng trưởng cao. Các hoạt động đó được củng cố vững chắc thông qua hàng loạt những chương trình hỗ trợ, hợp tác về giáo dục, môi trường... Tuy nhiên kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai quốc gia vẫn chưa xứng với tiềm năng dồi dào, trong đó một phần cũng do việc chưa thống nhất về văn hóa kinh doanh của nhau. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu văn hóa kinh doanh của Australia và ảnh hưởng của nó đến năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp văn hóa nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam củng cố và phát triển năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường tiềm năng này. II. Mục đích và phạm vi nghiên cứu. Mục đích của khóa luận gồm có điểm chủ yếu: (a) tìm hiểu lý luận về văn hóa kinh doanh và năng lực cạnh tranh cùng tác động của văn hóa kinh doanh đến năng lực cạnh tranh của hàng hóa, (b) đưa ra cái nhìn toàn cảnh về thị trường Australia và đánh giá toàn cảnh năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường này và (c) đưa ra những giải pháp văn hóa nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường Australia. Phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung vào năng lực cạnh tranh của hàng hóa chứ không phải năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, hay của quốc gia trên thị trường thế giới. 2 Về văn hóa kinh doanh, tác giả giới hạn trong những lý luận chung về văn hóa kinh doanh và văn hóa kinh doanh của thị trường Australia. III. Phƣơng pháp nghiên cứu. Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, trong quá trình thực hiện, nhóm tác giả đã sử dụng một cách tổng hợp nhiều phương pháp, bao gồm các phương pháp chủ yếu sau: - Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu - Phương pháp thống kê - Phương pháp phân tích IV. Kết cấu bài viết. Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo và một số phụ lục, nội dung của khóa luận được chia làm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về văn hóa kinh doanh và năng lực cạnh tranh của hàng hóa. Chương 2: ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh đến năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường Australia. Chương 3: Giải pháp về văn hóa nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường Australia. Tác giả xin chân thành cảm ơn cô giáo, TS. Nguyễn Hoàng ánh, người đã trực tiếp gợi ý và hướng dẫn người viết hoàn thành đề tài này. Do thời gian và trình độ còn hạn chế, công trình này chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, tác giả rất mong nhận được sự góp ý, phê bình của các thầy cô giáo và người đọc để công trình được hoàn thiện hơn. 3 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA KINH DOANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HÓA 1.1. Tổng quan về văn hoá kinh doanh. 1.1.1. Khái niệm. 1.1.1.1. Khái niệm văn hoá. Văn hoá kinh doanh là một bộ phận quan trọng trong giao dịch thương mại quốc tế, đặc biệt trong thời đại hiện nay bởi phân công lao động quốc tế khiến các quốc gia ngày càng tiến hành nhiều hoạt động thương mại với nhau. Để tìm hiểu về văn hoá kinh doanh, trước hết phải xem xét văn hoá kinh doanh với tư cách là một bộ phận của văn hoá. Từ khi loài người biết sử dụng công cụ lao động, sử dụng ngôn ngữ và tồn tại như những sinh vật xã hội, những tiền đề của văn hoá đã bắt đầu hình thành từ chính cuộc sống của loài người như tên gọi, tục thờ cúng các vị thần. Mỗi nhóm người lại có những đặc điểm riêng, có thể bắt nguồn từ hoàn cảnh sống, vị trí địa lý, khí hậu... mà dần hình thành những khác biệt đáng kể so với những nhóm người khác, theo thời gian những nhóm người này phát triển thành một dân tộc, gắn liền với mỗi dân tộc là văn hoá của họ. Cho đến năm 1952, Kroeber và Kluekholn, hai nhà nghiên cứu người Đức, trong bài viết ―Văn hóa, nhìn lại các quan điểm và định nghĩa‖ đã thống kê được 164 định nghĩa văn hóa có thể chia làm sáu loại chính như sau: 1/ Các định nghĩa mang tính miêu tả: liệt kê tất cả những gì mà khái niệm văn hóa bao hàm 4 2/ Các định nghĩa lịch sử, nhấn mạnh các quà trình kế thừa xã hội, truyền thống. 3/ Các định nghĩa chuẩn mực: hướng vào quan niệm về lý tưởng và giá trị. 4/ Các định nghĩa tâm lý: nhấn mạnh tới lối ứng xử của con người. 5/ Các định nghĩa cấu trúc: chú trọng tới tổ chức và cấu trúc của văn hóa. 6/ Các định nghĩa biến sinh đi từ góc độ nguồn gốc văn hóa Tuy nhiên, theo L.G. Ionin, các định nghĩa về văn hóa đều có ba điểm chung sau:  Văn hóa là cái phân biệt giữa con người và động vật.  Văn hóa là đặc trưng của xã hộ loài người và không được kế thừa về mặt sinh học mà phải có sự học tập, thâu hóa.  Văn hóa gắn liền với những tư tưởng tồn tại và được chuyển tải dưới hình thức biểu trưng qua ngôn ngữ. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của mình, tác giả xin nêu một số định nghĩa tiêu biểu về văn hóa. Heriot có một định nghĩa nổi tiếng về văn hóa: ―cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên lãng đi – đó là văn hóa”. Theo đó, văn hoá mang tính chất động, là một quá trình có sự tích luỹ, làm giàu cho trí tuệ nhưng không tránh khỏi quá trình quên - đó cũng là quá trình chọn lọc tự nhiên về tri thức - và những điều còn lại trong trí tuệ, trong tư duy, trong phong cách sống. Từ điển Bách khoa toàn thư của Nga (nhà xuất bản Bách Khoa Xô Viết – 1988) định nghĩa: Văn hóa là một cấp độ phát triển nhất định có tính chất lịch sử trong xã hội của những sức mạnh sáng tạo và khả năng của con người, cấp độ này được thể hiện dưới dạng các tổ chức đời sống và hoạt động của con người, và cũng là những giá trị tinh thần và vật chất do con người sáng tạo ra. Văn hoá là chuẩn mực về chân, thiện mỹ trong hoạt động của con người. Nó được xác định bởi tính chất của nền kinh tế xã hội và nó có thể thay đổi theo sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Những nhà Marketing quốc tế thì phát biểu về văn hoá như sau: “Văn hoá tạo cho con người ta cảm nhận được họ là ai, họ thuộc về cộng đồng nào, họ cần phải ứng xử ra sao, và họ cần phải làm gì?”. Theo định nghĩa này, văn hoá của một quốc gia 5 quy định tập hợp những biểu tượng, quy tắc và giá trị có quan hệ qua lại với nhau, có thể chia sẻ và học tập giữa các thành viên, có tác động chi phối và biện hộ cho những hành vi ứng xử của những người trong quốc gia hay trong cộng đồng đó. Tuy nhiên định nghĩa về văn hóa được biết đến rộng rãi hơn cả là của Federico Mayor Laragoza, nguyên tổng giám đốc UNESCO: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo đó đã hình thành nên một hệ thống giá trị, các truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Tựu chung lại, với những định nghĩa trên đây, văn hóa được nhìn nhận trên những thuộc tính và nội dung cơ bản sau: - Văn hóa là cái thuộc tính bản chất của con người, chỉ có ở loài người và do con người sinh ra. - Đối với một cộng đồng, một dân tộc, văn hóa luôn có tính đặc thù, nó được thể hiện ra như một kiểu sống (lối sống, kiểu ứng xử và hành động...) riêng biệt và ổn định của họ trong lịch sử; nó có tính di tồn qua nhiều thế hệ. - Cốt lõi của văn hóa và nhân tố qui định tính đặc thù của kiểu sống khác nhau trong xã hội là bảng giá trị của họ. Vậy do đâu mà có nhiều quan niệm về văn hóa? Đó là vì tính phức tạp vô cùng của văn hóa trong thực tiễn của nó khiến về mặt nguyên tắc, không thể có một định nghĩa nào nói lên được đầy đủ bản chất của văn hóa. Sở dĩ nói văn hóa phức tạp là vì: cả xã hội và từng con người, cho dù nhìn vào một khía cạnh cụ thể, cũng vẫn hết sức đa dạng về tiềm năng, về sự thực hiện, về hành động, về mối quan hệ nội tại, và về cấu trúc vận hành. Văn hóa là một hiện tượng trừu tượng, là cả một khối gồm rất nhiều khái niệm, hầu như không thể bản thể hóa chúng được. Do tính phức tạp như vậy, chúng ta có thể 6 coi văn hóa là một hệ thống. Đó là hệ thống những khái niệm văn hóa, hoặc những thành tố văn hóa được tách riêng và hệ thống hóa.1 Các định nghĩa khác nhau về văn hóa ra đời với tính chất là hậu quả tất yếu của tính phức tạp nói trên, trong khi tìm cách định nghĩa văn hóa trong một hoàn cảnh nhận thức mới xuất hiện, khi người ta cần phải giải quyết vấn đề cụ thể nào đó. ở đây, do mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả muốn sử dụng định nghĩa của Czinkota, theo đó: "Văn hoá là một hệ thống những cách cư xử đặc trưng cho các thành viên của bất kỳ một xã hội nào. Hệ thống này bao gồm mọi vấn đề, từ cách nghĩ, nói, làm, thói quen, ngôn ngữ, sản phẩm vật chất và những tình cảm - quan điểm chung của các thành viên đó. Như vậy chúng ta thấy rằng khái niệm ―văn hoá‖ tồn tại trong mọi lĩnh vực xã hội: trong cuộc sống giao tiếp hàng ngày, trong quan hệ ngoại giao, trong đời sống chính trị xã hội, văn học nghệ thuật v.v...Và tất nhiên việc kinh doanh cũng không thể nằm ngoài cuộc sống xã hội đa dạng nói trên. Song hành cùng những điều kiện tối cần thiết của kinh doanh như nguồn vốn, hàng hoá, nguồn nhân lực, nhu cầu giữa các bên v.v..., văn hoá kinh doanh góp một phần không nhỏ trong sự thành bại của sự nghiệp kinh doanh. 1.1.1.2. Khái niệm văn hoá kinh doanh. Vai trò của văn hóa đối với cá nhân và xã hội đã được khẳng định từ lâu, song ảnh hưởng của nó tới kinh tế và kinh doanh như thế nào thì gần đây mới được các nhà khoa học nghiên cứu xem xét. Người ta đã tìm thấy dấu ấn đặc biệt của văn hóa trong sự phát triển kinh tế của các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Thực tế này không chỉ buộc các nhà kinh tế học thừa nhận tác động của các yếu tố văn hóa vào quá trình phát triển kinh tế, mà còn đi sâu xem xét vai trò của văn hóa cũng như tầm quan trọng của 1 A.A.Radugin – Từ điển bách khoa văn hóa học 7 việc đưa các yếu tố văn hóa vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Sự xuất hiện thuật ngữ ―văn hóa kinh tế‖, ―văn hóa kinh doanh‖ bao hàm sự thay đổi sâu sắc này. Trong kinh doanh, mối quan hệ giữa văn hóa và kinh doanh cũng đặt ra vấn đề tương tự cả cho các nhà nghiên cứu lẫn những người hoạt động kinh doanh trực tiếp. Khi mà bản chất của hoạt động kinh doanh là kiếm được nhiều lợi nhuận cho chủ thể - đó là động cơ quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất – thì yếu tố văn hóa phải chăng chỉ xếp hàng thứ yếu hoặc có khi bị loại bỏ nếu gây cản trở cho mục tiêu lợi nhuận? Câu trả lời lại phụ thuộc vào các chủ thể kinh doanh cụ thể. Nhưng không phải mọi cuộc kinh doanh đều bị thúc đẩy, dẫn dắt chỉ bằng mục tiêu lợi nhuận. Bởi động cơ của các nhà kinh doanh không chỉ là sự giàu có (nhằm thỏa mãn những nhu cầu sinh lý, bản năng trong tháp nhu cầu của Maslow) mà còn là nhu cầu có tính văn hóa (như mong muốn được xã hội tôn trọng, mong muốn được tự thể hiện, sáng tạo). Bên cạnh đó, lợi nhuận không phải là vật chuẩn và lực lượng hướng dẫn duy nhất đối với hoạt động kinh doanh, cùng với nó còn có pháp luật và văn hóa. Văn hóa kinh doanh cũng giống như văn hóa vậy, khó có định nghĩa chính xác về nó. Tuy nhiên, mới đây, TS. Đỗ Minh Cương trong cuốn ―Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh‖ đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa kinh doanh nói lên khá đầy đủ bản chất như sau: Văn hóa kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hóa vào trong hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của họ. Khái niệm này có ưu điểm là đã chỉ ra được sư khác biệt giữa văn hóa kinh doanh và văn hóa trong kinh doanh (là những yếu tố của văn hóa dân tộc trong kinh doanh). Định nghĩa này đã nêu lên hai phương diện (thành tố hay vi hệ) chính của văn hóa kinh doanh. Một là: Các nhân tố văn hóa được vận dụng vào quá trình kinh doanh để tạo ra các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng có văn hóa. Nói tóm lại, đây là kiểu kinh doanh có văn hóa, lối kinh doanh phù hợp với văn hóa dân tộc. Hai là: Các giá trị, sản phẩm văn hóa như hệ giá trị, triết lý, tập tục riêng, nghệ thuật... mà chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của họ, 8 có tác dụng cổ vũ, biểu dương đối với kiểu kinh doanh có văn hóa mà họ đang theo đuổi. Nói gọn lại, đây là lối sống có văn hóa của các chủ thể kinh doanh. Mối quan hệ giữa hai phương diện này là mối quan hệ biện chứng và hữu cơ với nhau. Phương diện thứ hai của định nghĩa này là thành tố mang màu sắc quản trị hay nói chính xác, nó là văn hóa doanh nghiệp. Vì không nằm trong mục đích nghiên cứu của đề tài , xin không đề cập nhiều đến phần này mà chúng tôi chỉ nêu ra với mục đích phân biệt giữa văn hóa kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp do có sự nhầm lẫn nhất định giữa hai khái niệm này. Trong hội thảo khu vực Châu Á – Thái Bình Dương về chủ đề văn hóa và kinh doanh (1996), GS. Phạm Xuân Nam đã đưa ra khái niệm về văn hóa kinh doanh. ―Văn hóa kinh doanh là phương pháp kinh doanh bằng cách nắm bắt thông tin, ra sức cải tiến kỹ thuật công nghệ, tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, quan tâm thích đáng tới đời sống vật chất tinh thần của người lao động, bồi thường và phát huy tiềm năng sáng tạo của họ trong việc tạo ra những hàng hóa và dịch vụ có chất lượng tốt, hình thức đẹp, giá cả hợp lý, đáp ứng được nhu cầu của thị trường, giữ được chữ tín với người tiêu dùng trong và ngoài nước”. Khái niệm này đã khắc phục được những nhược điểm trong quan điểm về văn hóa kinh doanh của TS. Đỗ Minh Cương, tuy nhiên vẫn có đôi chỗ còn hạn chế về đối tượng nghiên cứu. Trong cách hiểu khái niệm về văn hóa kinh doanh, nếu thiên về hướng hiểu là kinh doanh có văn hóa và phi văn hóa thì sẽ hạn chế một số đối tượng nghiên cứu bởi bản thân văn hóa là thói quen được chấp nhận chung và là một phạm trù lịch sử, bởi thế không thể mang văn hóa của một nơi, một dân tộc để làm mốc trong khi nghiên cứu các nền văn hóa khác. Trong tiếng Việt, chúng ta có xu hướng coi văn hóa là thể hiện ―trình độ cao trong sinh hoạt văn hóa xã hội, biểu hiện của văn minh (ví dụ: gia đình văn hóa), nên thường gán cho văn hóa kinh doanh ý nghĩa giáo dục, tức là làm mất đi tính khách quan của văn hóa. Không thể lấy những tiêu chí để đánh giá văn hóa của một dân tộc, một quốc gia để nhận xét, đánh