Khóa luận Các giải pháp phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty sản xuất xuất nhập khẩu tổng hợp haprosimex

Ngày nay, quốc tế hoá đang là xu thế chung của toàn cầu. Không một quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà có thể tăng trƣởng kinh tế mạnh mẽ đƣợc. Trong bối cảnh đó thƣơng mại quốc tế là một lĩnh vực hoạt động đóng vai trò quan trọng thúc đẩy nền kinh tế trong nƣớc hội nhập với nền kinh tế thế giới. Hàng dệt may đƣợc coi là một trong những mũi nhọn xuất khẩu của Việt Nam, phát triển hàng dệt may là bƣớc đi có tính chất chiế n lƣợc và lâu dài. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thƣơng mại thế giới WTO, trong bối cảnh mới này, ngành dệt may Việt Nam đứng trƣớc những cơ hội và thách thức lớn. Là một doanh nghiệp Nhà nƣớc, công ty sản xuất và xuất nhập khẩu tổng hợp Haprosimex từ khi thành lập đến nay, trải qua nhiều gian nan vất vả nhƣng đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể. Cùng với sự phát triển của đất nƣớc, công ty Haprosimex đã dần hoàn thiện mình và đang cố gắng góp phầ n khẳng định khả năng phát triển của ngành dệt may xuất khẩu. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của công ty còn có một số hạn chế. Sau một thời gian thực tập ở công ty Haprosimex em đã quyết định chọn đề tài: “Các giải pháp phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty sản xuất xuất nhập khẩu tổng hợp Haprosimex” làm nội dung nghiên cứu của khóa luậ n tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích chung tình hình hàng dệt may thế giới trong xu thế tự do hóa thƣơng mại, phân tích hoạt động xuất khẩu của hàng dệt may ở công ty Haprosimex trong thời gian qua. Qua đó thấy đƣợc những lợi thế, hạn chế và nguyên nhân từ đó đƣa ra một số ý kiế n giải pháp để phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty trong thời gian tới.

pdf108 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1838 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Các giải pháp phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty sản xuất xuất nhập khẩu tổng hợp haprosimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ NGOẠI THƢƠNG ---------***--------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA CÔNG TY SẢN XUẤT XUẤT NHẬP KHẨU TỔNG HỢP HAPROSIMEX Sinh viên thực hiện : Lê Anh Phƣơng Lớp : Anh 18 Khóa : 42E Giáo viên hƣớng dẫn : ThS. Vũ Thị Hạnh HÀ NỘI, 11/2007 LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, quốc tế hoá đang là xu thế chung của toàn cầu. Không một quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà có thể tăng trƣởng kinh tế mạnh mẽ đƣợc. Trong bối cảnh đó thƣơng mại quốc tế là một lĩnh vực hoạt động đóng vai trò quan trọng thúc đẩy nền kinh tế trong nƣớc hội nhập với nền kinh tế thế giới. Hàng dệt may đƣợc coi là một trong những mũi nhọn xuất khẩu của Việt Nam, phát triển hàng dệt may là bƣớc đi có tính chất chiến lƣợc và lâu dài. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thƣơng mại thế giới WTO, trong bối cảnh mới này, ngành dệt may Việt Nam đứng trƣớc những cơ hội và thách thức lớn. Là một doanh nghiệp Nhà nƣớc, công ty sản xuất và xuất nhập khẩu tổng hợp Haprosimex từ khi thành lập đến nay, trải qua nhiều gian nan vất vả nhƣng đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể. Cùng với sự phát triển của đất nƣớc, công ty Haprosimex đã dần hoàn thiện mình và đang cố gắng góp phần khẳng định khả năng phát triển của ngành dệt may xuất khẩu. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của công ty còn có một số hạn chế. Sau một thời gian thực tập ở công ty Haprosimex em đã quyết định chọn đề tài: “Các giải pháp phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty sản xuất xuất nhập khẩu tổng hợp Haprosimex” làm nội dung nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích chung tình hình hàng dệt may thế giới trong xu thế tự do hóa thƣơng mại, phân tích hoạt động xuất khẩu của hàng dệt may ở công ty Haprosimex trong thời gian qua. Qua đó thấy đƣợc những lợi thế, hạn chế và nguyên nhân từ đó đƣa ra một số ý kiến giải pháp để phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty trong thời gian tới. Đề tài chủ yếu chỉ nghiên cứu các vấn đề có liên quan tới hoạt động 1 xuất khẩu hàng dệt may ở công ty Haprosimex trên cơ sở kết hợp các lý thuyết kinh tế đƣợc trang bị tại trƣờng đại học với phân tích thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của công ty để đề ra một số giải pháp kiến nghị nhằm phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty. Ngoài lời mở đầu và kết luận, khóa luận tốt nghiệp gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1: Khái quát chung về ngành dệt may thế giới và Việt Nam Chƣơng 2: Thực trạng của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại Công ty Haprosimex Chƣơng 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại Công ty Haprosimex Do thời gian thực tập ngắn, khóa luận tốt nghiệp không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong đƣợc sự đóng góp của Thầy Cô và bạn bè để khóa luận tốt nghiệp đƣợc hoàn thiện hơn. Đề tài này đƣợc hoàn thành với sự giúp đỡ và hƣớng dẫn trực tiếp của Thạc sỹ Vũ Thị Hạnh. Em xin bày tỏ lòng biết ơn về sự chỉ bảo tận tình, những ý kiến quý báu của Cô trong thời gian qua. 2 CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH DỆT MAY THẾ GIỚI VÀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM I. KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH DỆT MAY THẾ GIỚI 1. Lịch sử hình thành và phát triển ngành dệt may thế giới Lịch sử phát triển ngành dệt may cũng là lịch sử chuyển dịch công nghiệp dệt may từ khu vực phát triển sang khu vực kém phát triển hơn do tác động của các lợi thế so sánh. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là ngành dệt may không còn tồn tại ở các nƣớc phát triển mà nó đã phát triển cao hơn với những sản phẩm thời trang cao cấp để phục vụ cho một nhóm ngƣời . Sự chuyển dịch này bắt đầu vào năm 1840 từ nƣớc Anh sang các nƣớc Châu Âu khác. Tiếp theo là từ Châu Âu sang Nhật Bản vào những năm 1950. Từ năm 1960, khi chi phí sản xuất ở Nhật Bản tăng cao và thiếu nguồn lao động thì công nghiệp dệt may lại chuyển sang các nƣớc mới công nghiệp hoá (NICs) nhƣ Hồng Kông, Đài Loan, Nam Triều Tiên. Theo quy luật chuyển dịch của ngành công nghiệp dệt may thì đến năm 1980 lợi thế so sánh của ngành dệt may mất dần đi, các quốc gia này chuyển sang sản xuất các mặt hàng có công nghệ và kĩ thuật cao hơn nhƣ ô tô, điện tử. Ngành dệt may lại tiếp tục chuyển dịch sang các nƣớc Nam Á, Trung Quốc rồi tiếp tục sang các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam. 2. Vai trò của ngành dệt may Công nghệ dệt may thƣờng đƣợc gắn với giai đoạn phát triển ban đầu của nền kinh tế và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình công nghiệp hoá ở nhiều nƣớc. Ngành công nghệ dệt may có khả năng tạo nhiều việc làm cho ngƣời lao động, tăng thu lợi nhuận để tích luỹ làm tiền đề phát triển cho các ngành công nghiệp khác, góp phần nâng cao mức sống và ổn định tình hình chính trị xã hội. 3 Công nghệ dệt may có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển của các ngành công nghiệp khác. Khi dệt may là ngành công nghiệp hàng đầu của nền kinh tế, nó sẽ cần một khối lƣợng lớn nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực khác và vì thế tạo điều kiện để đầu tƣ và phát triển các ngành kinh tế này. Ngƣợc lại, công nghiệp dệt lớn mạnh sẽ là động lực để công nghiệp may và các ngành khác sử dụng sản phẩm dệt làm nguyên liệu phát triển theo. Vai trò của ngành dệt may đặc biệt to lớn đối với kinh tế của nhiều quốc gia trong điều kiện buôn bán hàng hoá quốc tế. Xuất khẩu hàng dệt may đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn để mua máy móc thiết bị, hiện đại hoá sản xuất, làm cơ sở cho nền kinh tế cất cánh. Điều này đặc biệt thể hiện rõ trong lịch sử phát triển kinh tế của các nƣớc nhƣ Anh, Nhật, NICs, Trung Quốc, Nam Á và Đông Nam Á. Ở các nƣớc đang phát triển hiện nay, công nghệ dệt may đang góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn thông qua tăng trƣởng sản xuất bông, đay, tơ tằm và là phƣơng tiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp. Ở các nƣớc công nghiệp phát triển, công nghệ dệt may đã phát triển đến trình độ cao hơn, sản xuất những sản phẩm cao cấp có giá trị gia tăng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng của ngƣời tiêu dùng. 3. Đặc điểm của ngành dệt may thế giới 3.1 . Về tiêu thụ Trong buôn bán thế giới, sản phẩm của ngành dệt may là một trong những hàng hoá đầu tiên tham gia vào mậu dịch quốc tế, hàng dệt may có những đặc trƣng riêng biệt ảnh hƣởng rất nhiều đến sản xuất và buôn bán. Một số đặc trƣng đó là: 4 -Hàng dệt may có yêu cầu phong phú và đa dạng tuỳ thuộc vào đối tƣợng tiêu dùng-ngƣời tiêu dùng khác nhau về văn hoá, khu vực địa lý, khí hậu, giới tính, tuổi tác... sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang phục. Nghiên cứu thị trƣờng để nắm vững nhu cầu tiêu dùng của từng nhóm ngƣời trong các thị trƣờng khác nhau có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm. -Hàng dệt may mang tính thời trang cao, phải thƣờng xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng đƣợc nhu cầu thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tƣợng của ngƣời tiêu dùng. Do đó để tiêu thụ đƣợc sản phẩm, việc am hiểu các xu hƣớng thời trang là rất quan trọng. -Vấn đề nhãn mác cũng là một trong những đặc trƣng nổi bật trong buôn bán hàng dệt may trên thế giới. Mỗi nhà sản xuất cần tạo đƣợc nhãn hiệu hàng hoá của riêng mình. Nhãn hiệu sản phẩm theo quan điểm xã hội thƣờng là yếu tố chứng nhận chất lƣợng hàng hoá và uy tín của ngƣời sản xuất, đây là vấn đề quan tâm trong chiến lƣợc của sản phẩm vì ngƣời tiêu dùng không chỉ tính đến giá cả mà còn rất coi trọng chất lƣợng sản phẩm. -Trong buôn bán các sản phẩm dệt may cần chú ý đến yếu tố thời vụ. Phải căn cứ vào chu kỳ thay đổi thời tiết trong năm ở từng khu vực thị trƣờng mà cung cấp hàng hoá cho phù hợp. Điều này cũng liên quan đến thời hạn giao hàng. Thói quen tiêu dùng cũng là một đặc điểm cần lƣu ý trong buôn bán hàng dệt may vì nó ảnh hƣởng trực tiếp đến vấn đề tìm thị trƣờng tiêu thụ cho sản phẩm. 3.2 Về sản xuất Công nghiệp dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn, vốn đầu tƣ ban đầu không quá lớn nhƣng lại có tỷ lệ lãi cao.Vì vậy, sản xuất dệt 5 may thƣờng phát triển mạnh và có hiệu quả rất lớn đối với các nƣớc đang phát triển và đang ở giai đoạn đầu của quá trình Công nghiệp hóa, khi một nƣớc trở thành nƣớc công nghiệp phát triển có trình độ công nghệ cao, sức cạnh tranh trong sản xuất hàng dệt may giảm thì họ lại vƣơn tới những ngành công nghiệp khác có hàm lƣợng kỹ thuật cao, tốn ít lao động và đem lại nhiều lợi nhuận. Công nghiệp dệt may lại phát huy vai trò của mình ở các nƣớc kém phát triển hơn. Lịch sử phát triển của ngành dệt may thế giới cũng là lịch sử chuyển dịch của công nghiệp dệt may từ khu vực phát triển sang khu vực kém phát triển hơn do sự chuyển dịch về lợi thế so sánh. Nhƣ vậy không có nghĩa là sản xuất dệt may không còn tồn tại ở những nƣớc công nghiệp phát triển mà thực tế ngành này tiến đến giai đoạn cao hơn, sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.Trong những năm gần đây, sản xuất dệt may của VN đã có những tiến bộ nhất định và đang cố gắng để hoà nhập với lộ trình của ngành dệt may thế giới. 3.3 . Tác động của tự do hóa thƣơng mại đối với ngành dệt may thế giới Đặc điểm của thị trƣờng dệt may trong giai đoạn hiện nay thể hiện rõ tính toàn cầu hóa và hội nhập, đây là tính chất chung nhất trong phát triển thƣơng mại toàn cầu. Việc sử dụng hàng rào thuế quan và bảo hộ mậu dịch sẽ trở nên lỗi thời, các biên giới thƣơng mại sẽ dần đƣợc xóa bỏ. Trong tƣơng lai việc quyết định nơi sản xuất sẽ là nơi có chi phí lao động thấp và là nơi gần với nguồn cung cấp nguyên liệu đáp ứng nhanh yêu cầu của khách hàng. Vì thế bất cứ quốc gia nào muốn phát triển đều phải tham gia vào thị trƣờng thế giới bằng lợi thế riêng của mình với việc khai thác hiệu quả các công nghệ tiên tiến của thế giới. Sự hội nhập không có nghĩa là tạo ra sự phát triển và nguồn lực nhƣ nhau cho tất cả các quốc gia trên thế giới mà là tạo ra môi trƣờng bình đẳng cho các quốc gia thành viên để phát huy tối đa khả năng của 6 mình trong việc phát triển hàng dệt may, do vậy mà sự phát triển ở mỗi quốc gia sẽ khác nhau. Với các nƣớc có ngành dệt may phát triển nhƣ: EU, Mỹ, Nhật... sẽ tập trung vào thị trƣờng hàng có chất lƣợng cao. Đồng thời, các nƣớc này cũng sẽ chuyển giao công nghệ cho các nƣớc có ngành sản xuất với công nghệ thấp hơn. Với các nƣớc đang phát triển, việc đổi mới công nghệ là yêu cầu sống còn để nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra các sản phẩm chất lƣợng tốt phù hợp với nhu cầu của thị trƣờng. Tuy nhiên do trình độ công nghệ chƣa cao lắm, đồng thời lợi thế của các quốc gia này là giá nhân công rẻ và việc phát triển dệt may còn có ý nghĩa lớn trong việc giải quyết việc làm cho ngƣời lao động với các quốc gia đông dân nhƣ: Trung Quốc, Việt Nam, Inđônêsia....Vì vậy trong tƣơng lai các nƣớc đang phát triển vẫn sẽ tiếp tục sản xuất gia công xuất khẩu là chính nhằm tận dụng giá nhân công rẻ. Bên cạnh đó các quốc gia này cũng sẽ đầu tƣ phát triển một số mặt hàng có chất lƣợng cao, giá cả cạnh tranh nhằm nâng cao mức lợi nhuận thu về từ xuất khẩu. II. Khái quát về ngành dệt may Việt Nam 1. Lịch sử ngành dệt may Việt Nam 1.1. Giai đoạn trƣớc 1954 Ngành dệt ra đời sớm hơn ngành may, ban đầu chủ yếu là ngƣời dân tự dệt vải phục vụ cho nhu cầu của bản thân rồi sau đó mới xuất hiện các phƣờng dệt nơi tập trung các thợ dệt với mục đích thƣơng mại. Ngành may ra đời muộn hơn, bắt đầu là các thợ may phục vụ triều đình phong kiến. Khi thực dân Pháp xâm lƣợc, chúng thổi vào xã hội Việt Nam lối sống Âu hóa, nhiều nhà may âu phục ra đời. Nhƣng đây cũng là thời kì cả 2 ngành Dệt – May không đƣợc quan tâm phát triển. Với chính sách cai trị độc đoán và hà khắc, thực dân Pháp vơ vét tài nguyên và cấm các nghề truyền thống ngành Dệt – May cũng bị mai một dần. 7 1.2. Giai đoạn 1954 - 1975: Giai đoạn vừa xây đụng, vừa chiến đấu và chi viện cho tiền tuyến lớn. Khi đất nƣớc giành độc lập, công nghiệp Dệt – May khôi phục lại. Đảng và Nhà nƣớc coi ngành công nghiệp Dệt – May là ngành ƣu tiên phát triển hàng đầu, một mặt giải quyết nhu cầu xã hội, mặt khác giải quyết công ăn việc làm cho ngƣời lao động. Đƣợc sự quan tâm, chăm lo phát triển của Đảng và Nhà nƣớc, Ngành Dệt - May đã phát triển nhanh chóng. Lực lƣợng sản xuất tăng nhanh với nhiều nhà máy mới đƣợc xây dựng. Đội ngũ công nhân đông đảo hàng vạn ngƣời đã hăng say lao động với tinh thần ''mỗi ngƣời làm việc bằng hai'' theo lời kêu gọi của Bác Hồ kính yêu để tăng nhanh sản lƣợng hàng hóa nhằm đảm bảo nhu cầu cơ bản về sợi, vải chăn, màn, bông băng y tế cho nhân dân và cho lực lƣợng vũ trang. Với khẩu hiệu ''Tất cả cho tiền tuyến - Tất cả để đánh thắng giặc Mĩ xâm lƣợc'', mặc dù cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc ngày càng ác liệt nhƣng công nhân quyết tâm bám ca, bám máy với tinh thần đội bom để sản xuất liên tục, hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nƣớc giao. Vì vậy, Ngành đã chi viện đầy đủ ngƣời và của cho tiền tuyến lớn ''vải không thiếu một mét, quân không thiếu một ngƣời''. Từ phong trào thi đua sản xuất và anh dũng chống chiến tranh phá hoại thời kì này, nhiều cán bộ, công nhân Ngành Dệt - May đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động và nhiều tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa. Những thành tích này đã tô thắm lá cờ truyền thống của Ngành Dệt - May VN trong một giai đoạn vẻ vang nhất của dân tộc ta. 1.3. Giai đoạn 1976 - 1990: Thời kì xây dựng hoà bình và hợp tác toàn điện với các nƣớc XHCN Thời kì xây dựng hoà bình và hợp tác toàn điện với các nƣớc XHCN Ngành Dệt - May VN đã phát triển nhanh chóng về năng lực sản xuất do tiếp quản toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp Dệt - May ở phía Nam và tiếp tục xây 8 nhiều nhà máy lớn trên cả nƣớc nhƣ Nhà máy Sợi Hà Nội, Sợi Vinh, Sợi Huế, Sợi Nha Trang, Dệt Kim Hoàng Thị Loan... Trong các kế hoạch 5 năm (1976-1980, 1981-1985 và 1986-1990), bằng nhiều phong trào thi đua lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật, Ngành Dệt - May VN đã hoàn thành xuất sắc trƣớc thời hạn các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nƣớc giao, bảo đảm các nguyên liệu cho sản xuất, vải, quần áo, chăn màn... cho tiêu dùng và là đầu mối xuất nhập khẩu, trao đổi hàng hoá theo nghị định thƣ hàng năm với các nƣớc xã hội chủ nghĩa, tạo việc làm và đổi về từ 55 - 60 ngàn tấn bông xơ mỗi năm từ Liên Xô. Cho đến năm 1990, Ngành đã có quy mô: về dệt có 129 DNNN, 1.979 HTX và hộ cá thể về may có 166 DNNN, 620 HTX và hộ cá thể. Năng lực thiết bị có 860.000 cọc sợi và 2000 rô to, 43.000 máy dệt (kể cả khung dệt thủ công), 60.000 thiết bị và máy may; đã xây dựng 1 Viện công nghệ sợi dệt và 1 Trung tâm nghiên cứu may. Toàn Ngành có trên 2.000 tiến sĩ, phó tiến sĩ và kĩ sƣ công nghệ dệt may. Sản lƣợng thực hiện cuối năm 1990 đạt 50 ngàn tấn sợi và hơn 450 triệu mét vải (khổ 0,80m), sản xuất 150 triệu sản phẩm may. 1.4. Từ 1991- 1999: Sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trƣờng theo định hƣớng XHCN Tuy quy mô công suất thiết bị đã tăng lên nhanh chóng trong thời kì kế hoạch hoá, nhƣng do mới chỉ làm ra đƣợc những sản phẩm chất lƣợng trung bình và thấp nên khi chuyển sang cơ chế thị trƣờng, Ngành Dệt - May VN đứng trƣớc những khó khăn hết sức gay gắt: thiết bị công nghệ sợi, nhuộm, hoàn tất (khoảng 50%) cũ kĩ, lạc hậu, đã sử dụng 30 - 40 năm (có nhà máy đã sử dụng 50 - 60 năm); máy dệt đa phần khổ hẹp, tiêu hao năng lƣợng và lao động cao; thiếu vốn cho đầu tƣ đổi mới công nghệ và thiếu kĩ năng quản trị doanh nghiệp trong cơ chế thị trƣờng. Nhƣng nhờ có đƣờng lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nƣớc, đƣợc sự phối hợp của các bộ, ngành trong việc 9 mở thị trƣờng mới, cùng với tinh thần lao động sáng tạo của đội ngũ cán bộ, công nhân, các doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tƣ nâng cấp thiết bị cũ và đầu tƣ công nghệ mới để sản xuất ra những sản phẩm theo yêu cầu thị trƣờng. Bên cạnh đó, với luật khuyến khích đầu tƣ nƣớc ngoài, các xí nghiệp liên doanh và 100% vốn nƣớc ngoài bắt đầu đầu tƣ vào lĩnh vực dệt may. Trong vòng 10 năm, có gần 170 dự án với số vốn đăng kí hơn 1.600 triệu USD, đã góp phần làm cho Ngành Công nghiệp Dệt - May VN có sự phát triển mới cả về quy mô, trình độ công nghệ, mẫu mã hàng hóa và kim ngạch xuất khẩu. Vì vậy, đến cuối năm 1999, hơn 30% thiết bị dệt và 95% thiết bị may đã đƣợc đầu tƣ bằng thiết bị, công nghệ tiên tiến. Công suất kéo sợi đạt 177 ngàn tấn, đã sản xuất gần 100 ngàn tấn, trong đó có các loại sợi chất lƣợng cao cho hàng dệt kim và dệt vải cao cấp. Tổng sản lƣợng vải đạt khoảng 500 triệu mét (khổ 0,8m), sản phẩm dệt kim đạt 34.000 tấn, khăn bông 10.000 tấn, mền chăn 1 triệu chiếc, thảm len hơn 5 triệu m2, sản phẩm may khoảng 250 triệu sản phẩm. Tổng số lao động sử dụng gần một triệu ngƣời trong đó số có trình độ kĩ sƣ trở lên hơn 3000 ngƣời. Có 2 viện và 1 trung tâm nghiên cứu, 4 trƣờng đào tạo trung học và công nhân lành nghề. Các Trƣờng Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Kĩ thuật thành phố Hồ Chí Minh đều có khoa đào tạo kĩ sƣ công nghệ sợi, dệt, nhuộm. Từ năm 1991 - 1999, Ngành Dệt - May VN đã có những thay đổi về chất rất quan trọng, từ thiết bị công nghệ đến sản phẩm (nhất là công nghệ may và sản phẩm may). Từ chỗ chỉ sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong nƣớc và thực hiện một phần theo Nghị định thƣ với Liên Xô và các nƣớc XHCN Đông Âu đầu vào đầu ra do Nhà nƣớc quyết định, các doanh nghiệp Dệt - May VN đã thực hiện từ khâu đầu đến khâu cuối, tự chọn mua nguyên phụ liệu, tổ chức sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, tự định giá mua, giá bán... Đến nay, sản phẩm dệt may VN đã thoả mãn một phần nhu 10 cầu của ngƣời tiêu dùng trong nƣớc và có kim ngạch xuất khẩu lớn sang các thị trƣờng khó tính trên thế giới nhƣ EU, Nhật Bản, Mĩ, Canađa... Thời kỳ 1991 - 1999, toàn Ngành đạt tốc độ tăng trƣởng bình quân khoảng 10%/năm. Kim ngạch xuất khẩu luôn đứng thứ hạng cao trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của cả nƣớc, chỉ sau dầu thô nhƣng dẫn đầu các ngành chế biến xuất khẩu, đạt gần 1,7 tỉ USD (năm 1999), trong đó hơn 60% sản phẩm xuất khẩu sang thị trƣờng phi hạn ngạch, chiếm 14,6% kim ngạch xuất khẩu cả nƣớc. Tạo việc làm cho gần một triệu lao động công nghiệp, chƣa kể số lao động sản xuất nguyên liệu trồng bông, trồng đay, trồng dâu nuôi tằm). 1.5.Giai đoạn 2000 – 2007 Dệt – May Việt Nam nỗ lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trong giai đoạn 2000 – 2005 ngành dệt may Việt Nam đó đạt tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu tƣơng đối cao – bình quân 20%/năm. Năm 2001 tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may chỉ đạt 2001 triệu USD. Năm 2005 Việt Nam đã xuất khẩu đƣợc 4806 triệu USD tức gấp 2.4 lần so với năm 2001 đứng thứ hai sau dầu mỏ. Nhƣng dù vậy sản xuất hàng dệt may vẫn chủ yếu là gia công, lệ thuộc vào đối tác nƣớc ngoài về mẫu mã, thị truờng và giá cả. Giai đoạn 2005 – 2007 ngành dệt may Việt Nam liên tục có những thành tựu xuất sắc với tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu cao và ổn định. HIện nay Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thƣơng mại thế giới WTO. Việc Việt Nam gia nhập WTO mang lại cả cơ hội và thách thức cho ngành dệt may Việt Nam. Thuận lợi lớn nhất đối với dệt may Việt Nam là các doanh nghiệp sẽ tự do tiếp cận với nhiều thị trƣờng hơn. Các rào cản vào thị trƣờng nƣớc ngoài sẽ bị xóa bỏ. Các doanh nghiệp sẽ ko phải lo chạy hạn ngạch nữa mà tập trung vào sản xuất. Với những doanh nghiệp trƣớc kia 11 không có hạn ngạch thì nay có nhiều khả năng tiếp cận với thị trƣờng may mặc Mỹ. Còn với những công ty đã xuất khẩu vào Mỹ rồi, việc không còn hạn ngạch sẽ tạo cơ hội gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trƣờng này. Đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc tạm thời đang bị Mỹ áp
Luận văn liên quan