Khóa luận Cơ sở lý luận chung về tài chính doanh nghiệp và phân tích tài chính doanh nghiệp

Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các mối quan hệ kinh tế dưới hình thức tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn nảy sinh trong quá trình tạo lập và phân chia các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Hay nói một cách khác, Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng không chỉ trong bản thân doanh nghiệp mà cả trong nền kinh tế, nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia mà tại đây diễn ra quá trình sản xuất kinh doanh : Đầu tư, tiêu thụ và phân phối, trong đó sự chu chuyển của vốn luôn gắn liền với sự vận động của vật tư hàng hoá.

pdf97 trang | Chia sẻ: thuychi21 | Lượt xem: 2173 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Cơ sở lý luận chung về tài chính doanh nghiệp và phân tích tài chính doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tr-êng §HDL H¶i Phßng Khãa luËn tèt nghiÖp 1 SV : NguyÔn ThÞ BÝch H¹nh Líp : QT1103N CHƢƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP VÀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Tr-êng §HDL H¶i Phßng Khãa luËn tèt nghiÖp 2 SV : NguyÔn ThÞ BÝch H¹nh Líp : QT1103N 1.1 TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.1.1 Khái niệm tài chính Doanh nghiệp Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các mối quan hệ kinh tế dưới hình thức tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn nảy sinh trong quá trình tạo lập và phân chia các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Hay nói một cách khác, Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng không chỉ trong bản thân doanh nghiệp mà cả trong nền kinh tế, nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia mà tại đây diễn ra quá trình sản xuất kinh doanh : Đầu tư, tiêu thụ và phân phối, trong đó sự chu chuyển của vốn luôn gắn liền với sự vận động của vật tư hàng hoá. 1.1.2. Các mối quan hệ tài chính chủ yếu của doanh nghiệp : Căn cứ vào hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp trong môi trường kinh tế xã hội có thể thấy quan hệ tài chính của doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng, xuyên suốt toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Mối quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với ngân sách Nhà nước Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ Nhà nước cấp phát, hỗ trợ vốn và góp vốn cổ phần theo những nguyên tắc và phương thức nhất định để tiến hành sản xuất kinh doanh và phân chia lợi nhuận. Đồng thời, mối quan hệ tài chính này cũng phản ánh những quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân giữa ngân sách Nhà nước với các doanh nghiệp được thể hiện thông qua các khoản thuế mà doanh nghiệp phải nộp vào ngân sách Nhà nước theo luật định. Mối quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp với thị trường tài chính Các quan hệ này được thể hiện thông qua việc tài trợ các nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Với thị trường tiền tệ thông qua hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp nhận được các khoản tiền vay để tài trợ cho các nhu cầu vốn ngắn hạn và ngược lại, các Tr-êng §HDL H¶i Phßng Khãa luËn tèt nghiÖp 3 SV : NguyÔn ThÞ BÝch H¹nh Líp : QT1103N doanh nghiệp phải hoàn trả vốn vay và tiền lãi trong thời hạn nhất định. Với thị trường vốn, thông qua hệ thống các tổ chức tài chính trung gian khác, doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ khác để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn bằng cách phát hành các chứng khoán. Ngược lại, các doanh nghiệp phải hoàn trả mọi khoản lãi cho các chủ thể tham gia đầu tư vào doanh nghiệp bằng một khoản tiền cố định hay phụ thuộc vào khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. (Thị trường chứng khoán) Thông qua thị trường tài chính, các doanh nghiệp cũng có thể đầu tư vốn nhàn rỗi của mình bằng cách kí gửi vào hệ thống ngân hàng hoặc đầu tư vào chứng khoán của các doanh nghiệp khác. Mối quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các thị trường khác Các thị trường khác như thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường sức lao động,...Là chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải sử dụng vốn để mua sắm các yếu tố sản xuất như vật tư, máy móc thiết bị, trả công lao động, chi trả các dịch vụ...Đồng thời, thông qua các thị trường, doanh nghiệp xác định nhu cầu sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng, để làm cơ sở hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị...nhằm làm cho sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp luôn thỏa mãn nhu cầu của thị trường. Mối quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp Đây là mối quan hệ tài chính khá phức tạp, phản ánh quan hệ tài chính giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh, giữa các bộ phận quản lý, giữa các thành viên trong doanh nghiệp, giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn. 1.1.3 Chức năng của tài chính trong doanh nghiệp Chức năng của tài chính là sự cụ thể hoá bản chất của tài chính, nó mở ra nội dung của tài chính và vạch rõ tác dụng xã hội của tài chính. Chức năng của tài chính là khả năng bên trong, biểu lộ tác dụng xã hội của nó và tác dụng đó chỉ có thể có được với sự tham gia nhất thiết của con người. Chức năng tổ chức huy động chu chuyển vốn Tr-êng §HDL H¶i Phßng Khãa luËn tèt nghiÖp 4 SV : NguyÔn ThÞ BÝch H¹nh Líp : QT1103N Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ sở có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh nên có nhu cầu về vốn, tùy theo từng loại hình doanh nghiệp mà vốn được huy động ở các nguồn sau : Ngân sách Nhà nước cấp, vốn cổ phần, vốn liên doanh, vốn tự bổ sung, vốn vay. Nội dung của chức năng này : - Căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất, định mức tiêu chuẩn để xác định nhu cầu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh. - Cân đối giữa nhu cầu và khả năng về vốn + Nếu nhu cầu lớn hơn khả năng về vốn thì doanh nghiệp phải huy động thêm vốn ( tìm nguồn tài trợ với chi phí sử dụng vốn thấp nhưng đảm bảo có hiệu quả ) + Nếu nhu cầu nhỏ hơn khả năng về vốn thì doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất hoặc tìm kiếm thị trường để đầu tư mang lại hiệu quả. - Lựa chọn nguồn vốn và phân phối sử dụng vốn hợp lý sao cho với số vốn ít nhất nhưng mang lại hiệu quả cao nhất. Chức năng phân phối thu nhập của tài chính doanh nghiệp Thu nhập bằng tiền từ bán sản phẩm, hàng hóa, lao vụ, dịch vụ, lợi tức cổ phiếu, lãi cho vay, thu nhập khác của doanh nghiệp được tiến hành như sau : Bù đắp hao phí vật chất, lao động đã tiêu hao trong quá trình sản xuất kinh doanh bao gồm : - Chi phí vật tư như nguyên vật liệu,nhiên liệu,động lực, công cụ lao động nhỏ - Chi phí khấu hao tài sản cố định - Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương - Chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền Phần còn lại là lợi nhuận trước thuế được phân phối tiếp như sau : - Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật định ( hiện nay tính bằng 28% tính trên thu nhập chịu thuế ) - Bù lỗ năm trước không được trừ vào lợi nhuận trước thuế ( nếu có ) - Nộp thuế vốn (nếu có) Tr-êng §HDL H¶i Phßng Khãa luËn tèt nghiÖp 5 SV : NguyÔn ThÞ BÝch H¹nh Líp : QT1103N - Trừ các khoản chi phí không hợp lý, hợp lệ. - Chia lãi cho các đối tác góp vốn - Trích vào các quỹ doanh nghiệp Chức năng giám đốc ( kiểm soát ) đối với hoạt động sản xuất kinh doanh Giám đốc tài chính là việc thực hiện kiểm soát quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Cơ sở của giám đốc tài chính : - Xuất phát từ tính quy luật trong phân phối sản phẩm quyết định - Xuất phát từ tính mục đích của việc sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh. Muốn cho đồng vốn có hiệu quả cao, sinh lời nhiều thì tất yếu phải giám sát, kiểm soát tình hình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp. Nội dung : - Thông qua chỉ tiêu vay trả, tình hình nộp thuế cho Nhà nước mà Nhà nước, ngân hàng biết được tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp là tốt hay chưa tốt. - Thông qua chỉ tiêu giá thành, chi phí mà biết được doanh nghiệp sử dụng vật tư, tài sản, tiền vốn tiết kiệm hay lãng phí. - Thông qua chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận ( tỷ suất lợi nhuận doanh thu, giá thành, vốn ) mà biết được doanh nghiệp có làm ăn hiệu quả hay không. 1.1.4 Nhiệm vụ của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp Để thực hiện tốt chức năng tài chính thì các bộ phận quản lý có liên quan cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau : - Tổ chức huy động vốn đầy đủ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với chi phí sử dụng vốn tốt nhất. - Tổ chức phân phối vốn. - Tổ chức sử dụng vốn chặt chẽ, có hiệu quả. - Phản ánh kết quả các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách kịp thời, chính xác, khoa học. Tr-êng §HDL H¶i Phßng Khãa luËn tèt nghiÖp 6 SV : NguyÔn ThÞ BÝch H¹nh Líp : QT1103N 1.1.5 Sự cần thiết phải phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp Trong môi trường cạnh tranh gay gắt trên nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển được thì phải bảo đảm một tình hình tài chính vững chắc và ổn định. Muốn vậy phải phân tích được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân tích tình hình tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về tài chính hiện hành với quá khứ mà nếu không phân tích thì các con số đó chưa có ý nghĩa lớn đối với những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các quyết định của người quan tâm sẽ chính xác hơn nếu như họ nắm bắt được cơ chế hoạt động tài chính thông qua việc sử dụng thông tin của phân tích tài chính. Mặc dù việc sử dụng thông tin tài chính của một nhóm người trên những góc độ khác nhau, song phân tích tình hình tài chính cũng nhằm thoả mãn một cách duy nhất cho các đối tuợng quan tâm. Phân tích tài chính xem xét ở mức độ hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp và xác định nguyên nhân hoạt động kém hiệu quả, góp phần cùng doanh nghiệp có biện pháp xử lý kịp thời các tình huống khó khăn về tài chính. Đây cũng là một yêu cầu đối với doanh nghiệp để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Phân tích tài chính thu thập thông tin về tài chính doanh nghiệp, góp phần xác định chính xác hơn thị giá của doanh nghiệp trong các hoạt động đầu tư tài chính và định hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai trên cơ sở đánh giá tương quan rủi ro, lợi nhuận và vị trí của doanh nghiệp trong toàn bộ hệ thống. Phân tích tài chính xác định khả năng thanh toán của doanh nghiệp làm cơ sở để các bạn hàng của doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước kiểm soát được năng lực tài chính và khả năng kinh doanh thực tế của doanh nghiệp, góp phần đảm bảo tính an toản trong kinh doanh. 1.2 KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA, MỤC ĐÍCH CỦA PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH 1.2.1 Khái niệm, đối tƣợng của phân tích tài chính Tr-êng §HDL H¶i Phßng Khãa luËn tèt nghiÖp 7 SV : NguyÔn ThÞ BÝch H¹nh Líp : QT1103N Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp, công cụ theo một hệ thống nhất định cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán cũng như các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đưa ra những đánh giá chính xác, đúng đắn về tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp nhà quản lý kiểm soát tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như dự đoán trước những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai để đưa các quyết định xử lý phù hợp tuỳ theo mục tiêu theo đuổi. Đối tượng của phân tích tài chính , về thực chất là các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hình thành, phát triển và biến đổi vốn dưới các hình thức có liên quan trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2.2 Mục đích, ý nghĩa của phân tích báo cáo tài chính Ý nghĩa của phân tích báo cáo tài chính Có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng...Mỗi đối tượng quan tâm với các mục đích khác nhau nhưng thường liên quan với nhau. - Đối với bản thân doanh nghiệp : Việc phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho các nhà lãnh đạo và bộ phận tài chính doanh nghiệp thấy được tình hình tài chính của đơn vị mình và chuẩn bị lập kế hoạch cho tương lai cũng như đưa ra các kết quả đúng đắn kịp thời phục vụ quản lý. Qua phân tích, nhà lãnh đạo doanh nghiệp thấy được một cách toàn diện tình hình tài chính doanh nghiệp mà mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Ngoài ra, các nhà quản trị doanh nghiệp còn quan tâm đến mục tiêu khác như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng doanh thu, giảm chi phí ... - Đối với các chủ Ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng : Mối quan tâm của họ hướng chủ yếu vào khă năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy họ đặc biệt chú ý đến số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển đổi thành tiền nhanh, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Bên cạnh Tr-êng §HDL H¶i Phßng Khãa luËn tèt nghiÖp 8 SV : NguyÔn ThÞ BÝch H¹nh Líp : QT1103N đó, họ cũng rất quan tâm đến số lượng vốn chủ sở hữu vì đó là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro. - Đối với nhà cung cấp : Doanh nghiệp là khách hàng của họ trong hiện tại và tương lai. Họ cần biết khả năng thanh toán có đúng hạn và đầy đủ của doanh nghiệp đối với món nợ hay không. Từ đó họ đặt ra vấn đề quan hệ lâu dài đối với doanh nghiệp hay từ chối quan hệ kinh doanh - Đối với các nhà đầu tư : Phân tích tình hình tài chính giúp cho họ thấy khả năng sinh lợi, mức độ rủi ro hiện tại cũng như trong tương lai của doanh nghiệp để quyết định xem có nên đầu tư hay không. Các nhà đầu tư quan tâm đến lợi nhuận bình quân vốn của doanh nghiệp, vòng quay vốn, khả năng phát triển của doanh nghiệp ...Từ đó ảnh hưởng tới các quyết định có nên tiếp tục đầu tư hay không. - Đối với công nhân viên trong doanh nghiệp : Nhóm người này cũng muốn biết về thu nhập của mình có ổn định không và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. - Đối với Nhà nước : Cần thông tin cho việc áp dụng các chính sách quản lý vĩ mô, để điều tiết nền kinh tế. Tất cả những cá nhân, tổ chức quan tâm nói trên đều có thể tìm thấy và thoả mãn nhu cầu về thông tin của mình thông qua hệ thống chỉ tiêu do phân tích báo cáo tài chính cung cấp. Mục đích của phân tích báo cáo tài chính Từ những ý nghĩa trên ta có thể thấy được mục đích của phân tích tài chính : - Cung cấp kịp thời, đầy đủ và trung thực các thông tin tài chính cho các đối tượng quan tâm để họ có quyết định đúng đắn trong tương lại. - Đánh giá đúng thực trạng doanh nghiệp trong kỳ báo cáo về vốn, tào sản, hiệu quả của việc sử dụng vốn và tài sản hiện có, tìm ra các tồn tại, nguyên nhân của nó để có các biện pháp đối phó thích hợp trong tương lai. - Cung cấp các thông tin về tình hình huy động vốn, các hình thức huy động vốn, chính sách vay nợ, mức độ sử dụng các đòn bẩy nhằm đạt được yêu cầu gia tăng lợi nhuận trong tương lai. Tr-êng §HDL H¶i Phßng Khãa luËn tèt nghiÖp 9 SV : NguyÔn ThÞ BÝch H¹nh Líp : QT1103N 1.2.3 Các phƣơng pháp phân tích tài chính doanh nghiệp  Phƣơng pháp so sánh - Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích để xác định xu hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Là phương pháp xem xét các chỉ tiêu phân tích bằng cách dựa trên việc so sánh số liệu với một chỉ tiêu cơ sở (chỉ tiêu gốc). Nội dung - Tiêu chuẩn để so sánh : Tiêu chuẩn để so sánh thường là: Chỉ tiêu kế hoạch của một kỳ kinh doanh, tình hình thực hiện các kỳ kinh doanh đã qua, chỉ tiêu các doanh nghiệp tiêu biểu cùng ngành. - Điều kiện so sánh : + Phải tồn tại ít nhất 2 chỉ tiêu + Các chỉ tiêu phải đảm bảo tính chất so sánh được. Đó là sự thống nhất về nội dung kinh tế, thống nhất về phương pháp tính toán, thống nhất về thời gian và đơn vị đo lường. - Xác định gốc để so sánh: + Khi xác định xu hướng và tốc độ phát triển của chỉ tiêu phân tích thì gốc so sánh được xác định là trị số của chỉ tiêu phân tích ở một thời điểm trước, một kỳ trước hoặc hàng loạt kỳ trước. Lúc này sẽ so sánh chỉ tiêu ở thời điểm này với thời điểm trước, giữa kỳ này với kỳ trước, năm nay với năm trước hoặc hàng loạt kỳ trước. + Khi đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra thì gốc so sánh là trị số kế hoạch của chỉ tiêu phân tích. Khi đó, tiến hành so sánh giữa thực tế với kế hoạch của chỉ tiêu. + Khi xác định vị trí của doanh nghiệp thì gốc so sánh được xác định là giá trị trung bình của ngành hay chỉ tiêu phân tích của đối thủ cạnh tranh. - Kỹ thuật so sánh : Phương pháp so sánh có hai hình thức + Số tuyệt đối : là kết quả so sánh giữa các kỳ phân tích, được thực hiện bằng phép trừ (-) giữa các mức độ của chỉ tiêu đang xem xét ở các kỳ khác nhau. So sánh bằng số Tr-êng §HDL H¶i Phßng Khãa luËn tèt nghiÖp 10 SV : NguyÔn ThÞ BÝch H¹nh Líp : QT1103N tuyệt đối phản ánh biến động về mặt quy mô hoặc khối lượng của chỉ tiêu phân tích. + Số tương đối : là kết quả so sánh giữa các kỳ phân tích, được thực hiện bằng phép chia (:) giữa các mức độ của chỉ tiêu đang xem xét ở các kỳ khác nhau. So sánh bằng số tương đối phản ánh mối quan hệ tỷ lệ, kết cấu của từng chỉ tiêu trong tổng thể; hoặc biến động về mặt tốc của chỉ tiêu đang xem xét giữa các thời gian khác nhau. + Số bình quân : là chỉ số biểu hiện tính phổ biến của chỉ tiêu phân tích. - Phân tích theo chiều dọc và phân tích theo chiều ngang + Quá trình so sánh, xác định tỷ lệ, quan hệ tương quan giữa các dữ kiện trên báo cáo tài chính của kỳ hiện hành được gọi là quá trình phân tích theo chiều dọc. + Quá trình so sánh, xác định tỷ lệ và chiều hướng tăng giảm của các dữ kiện trên báo cáo tài chính của nhiều kỳ khác nhau, được gọi là quá trình phân tích theo chiều ngang. Tuy nhiên, phân tích theo chiều ngang cần chú ý trong điều kiện xảy ra lạm phát, kết quả tính được chỉ có ý nghĩa khi chúng ta đã loại trừ ảnh hưởng của biến động giá.  Phƣơng pháp phân tích tỷ lệ Nguồn thông tin kinh tế tài chính đã và đang được cải tiến cung cấp đầy đủ hơn, đó là cơ sở hình thành các chỉ tiêu tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá tỷ lệ tài chính trong doanh nghiệp. Việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích luỹ dữ liệu và đẩy nhanh quá trình tính toán. Phương pháp phân tích này giúp cho việc khai thác, sử dụng các số liệu được hiệu quả hơn thông qua việc phân tích một cách có hệ thống hàng loạt các tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục hoặc gián đoạn. Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ và đại cương tài chính trong các quan hệ tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp này đòi hỏi phải xác định được các ngưỡng, các định mức để từ đó nhận xét và đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp trên cơ sở so sánh các chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính của doanh nghiệp với các tỷ lệ tham chiếu. Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm chỉ tiêu đặc trưng phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu phân tích của doanh nghiệp. Nhưng nhìn chung có bốn nhóm chỉ tiêu cơ bản sau : Tr-êng §HDL H¶i Phßng Khãa luËn tèt nghiÖp 11 SV : NguyÔn ThÞ BÝch H¹nh Líp : QT1103N - Nhóm chỉ tiêu khả năng thanh toán - Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư - Nhóm chỉ tiêu về hoạt động - Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời  Phƣơng trình Dupont Phương pháp phân tích tài chính Dupont là phương pháp phân tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu tài chính. Chính nhờ sự phân tích mối liên kết giữa các chỉ tiêu mà các nhà quản trị doanh nghiệp có thể phát hiện ra những nhân tố đã ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích theo một trình tự logic chặt chẽ. Cụ thể về nội dung của phương pháp này sẽ được giới thiệu ở phần sau. 1.3 CÁC THÔNG TIN VÀ TÀI LIỆU SỬ DỤNG TRONG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Tài liệu sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp là các báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính là một hệ thống các số liệu và phân tích cho ta biết tình hình tài sản và nguồn vốn, luồng tiền và hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Báo cáo tài chính có 4 loại: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính. 1.3.1 Bảng cân đối kế toán Khái niệm Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó của doanh nghiệp tại mật thời điểm nhất định. Vai trò Mỗi chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán số liệu phản ánh tại hai thời điểm Đầu năm và cuối kỳ. Qua đó ta đánh giá được các tài sản và nguồn vốn biến động tăng hay giảm trong kỳ. Tr-êng §HDL H¶i Phßng Khãa luËn tèt nghiÖp 12 SV : NguyÔn ThÞ BÝch H¹nh Líp : QT1103N Nội dung Bảng cân đối kế toán gồm 2 phần : tài sản và nguồn vốn Nguyên tắc : Tổng tài sản = Tổng Nguồn vốn. Chỉ tiêu Tổng tài sản cho biết quy mô của doanh nghiệp, khi chỉ tiêu này giảm cần xem xét đến khả năng g
Luận văn liên quan