Khóa luận Giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam: Thực trạng và định hướng

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 do Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII báo cáo tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định rõ tính tất yếu của xu thế hội nhập kinh tế cùng với những cơ hội cũng như thách thức của hội nhập: "Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế Các nước đang phát triển, trong đó có nước ta, có cơ hội thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, cải thiện vị thế của mình; đồng thời đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn nếu không tranh thủ được cơ hội, khắc phục yếu kém để vươn lên. Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, chống lại những áp đặt phi lí của các cường quốc kinh tế, các công ty xuyên quốc gia " Đối mặt với những thách thức của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần có những chính sách, định hướng phát triển như thế nào để tận dụng được cơ hội thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, cải thiện vị thế, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn? Đảng và nhà nước ta đã khẳng định tầm quan trọng của "khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh họcô (Theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010) và nêu rõ: "Công nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của đời sống hiện đại. Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Đúng như vậy, tri thức, thông tin và công nghệ luôn có vai trò thúc đẩy sản xuất phát triển; vai trò ấy ngày càng tăng dần. Những thành tựu nổi bật của khoa học đầu thế kỉ 20 với vai trò dẫn đầu của thuyết tương đối và thuyết lượng tử là tiền đề cho cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại ra đời và phát triển bắt đầu từ giưã thế kỉ 20 và trong một phần thời gian cuối cùng của thế kỉ đã bước sang giai đoạn mới- giai đoạn bùng nổ thông tin, tri thức, bùng nổ công nghệ, đặc biệt là các công nghệ cao như : công nghệ thông tin (CNTT) (nhất là siêu xa lộ thông tin, internet, multimedia tương tác, thực tế ảo.), công nghệ sinh học (đặc biệt là công nghệ gen, công nghệ tế bào), công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng., nền kinh tế thế giới đang biến đổi rất sâu sắc, mạnh mẽ về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, thương mại điện tử (TMĐT) ra đời là kết quả hợp thành của nền “kinh tế số hoá” và “xã hội thông tin". TMĐT bao trùm một phạm vi rộng lớn các hoạt động kinh tế và xã hội, nó mang đến lợi ích tiềm năng và đồng thời cả thách thức lớn cho người sử dụng. TMĐT đang phát triển nhanh trên bình diện toàn cầu, tuy hiện nay đang áp dụng chủ yếu ở các nước công nghiệp phát triển nhưng các nước đang phát triển cũng bắt đầu tham gia. Toàn cầu đang hướng tới giao dịch thông qua TMĐT. TMĐT đưa lại lợi ích tiềm tàng giúp người tham gia thu được thông tin phong phú về thị trường và đối tác, giảm chi phí, mở rộng qui mô doanh nghiệp, rút ngắn chu kỳ kinh doanh và đặc biệt với nước đang phát triển đây là cơ hội tạo bước tiến nhảy vọt, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. TMĐT đã được đánh giá là một phát kiến quan trọng nhằm thúc đẩy nền kinh tế thế giới trong thế kỷ 21. Giờ đây, TMĐT có lẽ không phải là một chiến lược mà các quốc gia có thể lựa chọn hoặc không, bởi nếu quốc gia nào không nắm lấy cơ hội này sẽ có nguy cơ tụt hậu một cách nghiêm trọng. Cuộc cách mạng điện tử với việc kinh doanh điện tử sẽ là cơ hội lớn cho các nước đang phát triển để tận dụng nhằm phát triển kinh tế của đất nước mình. Nếu không bắt kịp với bước tiến này khoảng cách của các nước đó đối với các nước phát triển sẽ còn gia tăng nhanh chóng. Do đó, phát triển TMĐT trở thành vấn đề có tính chất sống còn đối với các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt nam. Xuất phát từ lý do đó em chọn đề tài “Giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam – Thực trạng và định hướng” làm đề tài cho khoá luận của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương: Chương I: Những nội dung cơ bản về thương mại điện tử. Chương II: Thực trạng giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam. Chương III: Một số biện pháp để thúc đẩy sự phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam.

docx89 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2541 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam: Thực trạng và định hướng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 do Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII báo cáo tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định rõ tính tất yếu của xu thế hội nhập kinh tế cùng với những cơ hội cũng như thách thức của hội nhập: "Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế… Các nước đang phát triển, trong đó có nước ta, có cơ hội thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, cải thiện vị thế của mình; đồng thời đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn nếu không tranh thủ được cơ hội, khắc phục yếu kém để vươn lên. Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, chống lại những áp đặt phi lí của các cường quốc kinh tế, các công ty xuyên quốc gia…" Đối mặt với những thách thức của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần có những chính sách, định hướng phát triển như thế nào để tận dụng được cơ hội thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, cải thiện vị thế, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn? Đảng và nhà nước ta đã khẳng định tầm quan trọng của "khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh họcô (Theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010) và nêu rõ: "Công nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của đời sống hiện đại. Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Đúng như vậy, tri thức, thông tin và công nghệ luôn có vai trò thúc đẩy sản xuất phát triển; vai trò ấy ngày càng tăng dần. Những thành tựu nổi bật của khoa học đầu thế kỉ 20 với vai trò dẫn đầu của thuyết tương đối và thuyết lượng tử là tiền đề cho cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại ra đời và phát triển bắt đầu từ giưã thế kỉ 20 và trong một phần thời gian cuối cùng của thế kỉ đã bước sang giai đoạn mới- giai đoạn bùng nổ thông tin, tri thức, bùng nổ công nghệ, đặc biệt là các công nghệ cao như : công nghệ thông tin (CNTT) (nhất là siêu xa lộ thông tin, internet, multimedia tương tác, thực tế ảo...), công nghệ sinh học (đặc biệt là công nghệ gen, công nghệ tế bào), công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng..., nền kinh tế thế giới đang biến đổi rất sâu sắc, mạnh mẽ về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, thương mại điện tử (TMĐT) ra đời là kết quả hợp thành của nền “kinh tế số hoá” và “xã hội thông tin". TMĐT bao trùm một phạm vi rộng lớn các hoạt động kinh tế và xã hội, nó mang đến lợi ích tiềm năng và đồng thời cả thách thức lớn cho người sử dụng. TMĐT đang phát triển nhanh trên bình diện toàn cầu, tuy hiện nay đang áp dụng chủ yếu ở các nước công nghiệp phát triển nhưng các nước đang phát triển cũng bắt đầu tham gia. Toàn cầu đang hướng tới giao dịch thông qua TMĐT. TMĐT đưa lại lợi ích tiềm tàng giúp người tham gia thu được thông tin phong phú về thị trường và đối tác, giảm chi phí, mở rộng qui mô doanh nghiệp, rút ngắn chu kỳ kinh doanh và đặc biệt với nước đang phát triển đây là cơ hội tạo bước tiến nhảy vọt, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. TMĐT đã được đánh giá là một phát kiến quan trọng nhằm thúc đẩy nền kinh tế thế giới trong thế kỷ 21. Giờ đây, TMĐT có lẽ không phải là một chiến lược mà các quốc gia có thể lựa chọn hoặc không, bởi nếu quốc gia nào không nắm lấy cơ hội này sẽ có nguy cơ tụt hậu một cách nghiêm trọng. Cuộc cách mạng điện tử với việc kinh doanh điện tử sẽ là cơ hội lớn cho các nước đang phát triển để tận dụng nhằm phát triển kinh tế của đất nước mình. Nếu không bắt kịp với bước tiến này khoảng cách của các nước đó đối với các nước phát triển sẽ còn gia tăng nhanh chóng. Do đó, phát triển TMĐT trở thành vấn đề có tính chất sống còn đối với các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt nam. Xuất phát từ lý do đó em chọn đề tài “Giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam – Thực trạng và định hướng” làm đề tài cho khoá luận của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương: Chương I: Những nội dung cơ bản về thương mại điện tử. Chương II: Thực trạng giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam. Chương III: Một số biện pháp để thúc đẩy sự phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam. CHƯƠNG I CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ I. KHÁI NIỆM TMĐT 1. TMĐT là gì Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về “TMĐT” nhưng tựu trung lại có hai quan điểm lớn trên thế giới xin được nêu ra dưới đây. - TMĐT theo nghĩa rộng được định nghĩa trong Luật mẫu về Thương mại  điện tử của ủy ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL): Thuật ngữ Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về thương mại như cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ. Như vậy, có thể thấy rằng phạm vi của TMĐT rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của TMĐT. Ủy ban Châu Âu đưa ra định nghĩa về TMĐT như sau: TMĐT được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh. TMĐT gồm nhiều hành vi trong đó hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng. TMĐT được thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo). Tóm lại, theo nghĩa rộng thì TMĐT có thể được hiểu là các giao dịch tài chính và thương mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử; chuyển tiền điện tử và các hoạt động gửi rút tiền bằng thẻ tín dụng. - TMĐT theo nghĩa hẹp bao gồm các hoạt động thương mại được thực hiện thông qua mạng Internet. Các tổ chức như: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Hợp tác phát triển kinh tế đưa ra các khái niệm về TMĐT theo hướng này. TMĐT được nói đến ở đây là hình thức mua bán hàng hóa được bày tại các trang Web trên Internet với phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng. Có thể nói rằng TMĐT đang trở thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách thức mua sắm của con người.             Theo Tổ chức Thương mại Thế giới: TMĐT bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả các sản phẩm được giao nhận cũng như những thông tin số hóa thông qua mạng Internet. Khái niệm về TMĐT do Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế của Liên Hợp quốc đưa ra là: TMĐT được định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như Internet. Theo các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu được rằng theo nghĩa hẹp TMĐT chỉ bao gồm những hoạt động thương mại được thực hiện thông qua mạng Internet  mà không tính đến các phương tiện điện tử khác như điện thoại, fax, telex... 2. Phân loại 2.1 Phân loại theo đối tượng giao dịch Giao dịch TMĐT diễn ra bên trong và giữa ba nhóm tham gia chủ yếu: (1) doanh nghiệp; (2) Chính phủ; (3) người tiêu dùng. Cụ thể là: a) TMĐT giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp: bao gồm trao đổi dữ liệu, mua bán và thanh toán hàng hoá và lao vụ, chuyển giao chứng từ. Mục đích cuối cùng là đạt được hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Đây là loại hình TMĐT chủ yếu nhất, xuất hiện sớm nhất và là “mảnh đất” của trao đổi dữ liệu điện tử, tức EDI. b) TMĐT giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng: điển hình là việc mua hàng trên mạng. Nó ra đời và phát triển nhanh chóng cùng với sự xuất hiện của World Wide Web. Mục đích cuối cùng là để người tiêu dùng có thể mua hàng tại nhà mà không cần tới cửa hàng. BIỂU ĐỒ SỐ 1. MÔ HÌNH GIAO DỊCH TMĐT c) TMĐT giữa doanh nghiệp và Chính phủ: nhằm mục đích mua sắm Chính phủ; thuận tiện cho quản lý (thuế, hải quan…) và cung cấp thông tin. Hiện nay ứng dụng trên lĩnh vực này còn ít và chủ yếu chỉ có ở những quốc gia đi đầu trong TMĐT như Mỹ, Singapore. d) TMĐT giữa người tiêu dùng và Chính phủ: bao gồm vấn đề kê khai và nộp thuế, đăng ký kinh doanh, dịch vụ hải quan, thông tin… e) TMĐT trong nội bộ doanh nghiệp: bao gồm thực hiện dùng chung thông tin của kho dữ liệu nội bộ, cung cấp kênh thông tin và liên hệ nội bộ một cách nhanh chóng, quản lý tài chính và nhân sự, quản lý vật tư… Đáng chú ý là, nếu chỉ xuất phát từ góc độ thuần tuý kinh doanh thì TMĐT sẽ đóng khung trong các mối quan hệ xoay quanh doanh nghiệp và người tiêu dùng, do đó chỉ bao gồm hai loại: - TMĐT từ doanh nghiệp tới doanh nghiệp (business-to- business– B2B); - TMĐT từ doanh nghiệp tới người tiêu dùng (business-to-consumer – B2C). 2.2. Phân loại theo hình thức giao dịch a) Thư tín điện tử: Các đối tượng giao dịch (doanh nghiệp, Chính phủ, người tiêu dùng) sử dụng hòm thư điện tử để gửi thư cho nhau thông qua mạng. b) Thanh toán điện tử (electronic payment): Là việc thanh toán thông qua thông điệp điện tử dưới các dạng như trả lương bằng cách chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản, trả tiền mua hàng bằng thẻ mua hàng, thẻ tín dụng… Bên cạnh những hình thức đã khá quen thuộc đó, ngày nay thanh toán điện tử đã mở rộng sang các lĩnh vực mới, trong đó đáng chú ý là: - Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial Electronic Data Interchange – FEDI): chuyên phục vụ việc thanh toán điện tử giữa các công ty giao dịch với nhau bằng điện tử. - Tiền mặt Internet (Internet cash): là tiền mặt được mua từ một nơi phát hành (ví dụ ngân hàng), sau đó được chuyển đổi tự do sang các đồng tiền khác qua Internet, cả trong phạm vi trong nước cũng như quốc tế; tất cả đều được thực hiện bằng kỹ thuật số hoá, vì thế tiền mặt này còn có tên gọi là tiền mặt số hoá (digital cash). - Thẻ giữ tiền (stored-value card): cho phép người dùng chuyển giá trị tiền mặt vào một chiếc thẻ, thường được dùng trong vận tải công cộng, tại trường đại học hoặc trạm xăng. Thẻ có loại phi trực tuyến (ví dụ để mua hàng từ máy bán hàng tự động), có loại trực tuyến (ví dụ để mua hàng từ một website), có loại dùng được cả hai chức năng trên. Cũng có thẻ cho phép nạp thêm tiền, có thẻ chỉ dùng được một lần rồi bỏ. Một số thẻ có gắn thêm chip máy tính và chúng được gọi là thẻ thông minh (smart card): chúng mang chức năng của thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ, ngoài ra còn lưu trữ các thông tin về chủ nhân thẻ (mang thêm chức năng của chứng minh thư hoặc bằng lái xe). - Ví tiền điện tử (e-wallet): là nơi để tiền mặt Internet, cho phép thanh toán những khoản chi trực tuyến hoặc phi trực tuyến rất nhỏ. Mỗi lần mua hàng, tài khoản trực tuyến của khách hàng bị trừ đi một khoản tương ứng. Ví tiền điện tử có thể hoạt động giống kiểu thẻ giữ tiền, cũng có thể bằng cách tự động truy nhập vào một tài khoản ảo mà người dùng tạo ra qua hệ thống máy tính, tài khoản ảo này kết nối với tài khoản tín dụng hoặc ghi nợ của người dùng. - Ngân hàng điện tử (e-banking): là các nghiệp vụ, sản phẩm truyền thống của ngân hàng trước đây như gửi tiền, thanh toán, cho vay, quản lý tài khoản, quản lý tài chính… được thực hiện trên các kênh điện tử, khách hàng không cần phải đến giao dịch trực tiếp tại quầy làm việc của ngân hàng. c) Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI): là việc trao đổi dữ liệu dưới dạng có cấu trúc (tức là các bên phải thoả thuận từ trước về khuôn dạng cấu trúc của thông tin) từ máy tính này sang máy tính khác giữa các công ty hay tổ chức một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người. EDI đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới, chủ yếu phục vụ cho mua và phân phối hàng (gửi đơn hàng, xác nhận, hoá đơn…) nhưng cũng dùng cả cho các mục đích khác như thanh toán tiền khám bệnh, trao đổi các kết quả xét nghiệm… EDI được áp dụng từ trước khi có Internet: người ta dùng mạng giá trị gia tăng (Value Added Network – VAN) để liên kết các đối tác EDI. Cốt lõi của VAN là một hệ thống thư tín điện tử cho phép các máy tính liên lạc được với nhau, hoạt động như một phương tiện lưu trữ và tìm gọi. Ngày nay EDI chủ yếu được thực hiện qua Internet. d) Giao gửi số hoá các dung liệu (digital delivery of content): là việc mua bán, trao đổi các sản phẩm mà người ta cần nội dung (nội dung chính là hàng hoá) mà không cần tới vật mang hàng hoá, như phim ảnh, âm nhạc, chương trình truyền hình, phần mềm máy tính, ý kiến tư vấn, vé máy bay, hợp đồng bảo hiểm… Hình thức cụ thể của giao gửi số hoá dung liệu gồm: xuất bản điện tử (đưa báo, tư liệu công ty, catalogue… lên website); các chương trình phát thanh, truyền hình, giáo dục, ca nhạc… được số hoá và truyền trên Internet để người khác sử dụng qua máy tính của mình; download phần mềm từ mạng; đặt chỗ qua Internet (vé điện tử); người dùng liên lạc bằng Internet với cơ quan tín dụng-bảo hiểm để biết các thông tin về bảo hiểm và số liệu mới nhất về tình hình tài chính của mình… e) Bán lẻ hàng hoá hữu hình (retail of tangible goods): tận dụng tính năng multimedia của môi trường Web, người bán xây dựng trên mạng các cửa hàng ảo để thực hiện việc bán hàng. Người mua tìm trang Web của cửa hàng, xem hàng hoá hiển thị trên màn hình, xác nhận mua và trả tiền bằng thanh toán điện tử. Lúc đầu, việc mua bán còn ở dạng sơ khai: người mua chọn hàng rồi đặt hàng thông qua mẫu đơn cũng đặt ngay trên trang đó. Về sau, để tạo thuận lợi cho người mua trong việc lựa chọn, so sánh hàng hoá, các hãng đưa ra loại phần mềm mới gọi là “xe mua hàng” (shopping cart) hoặc “giỏ mua hàng” (shopping basket) mà trên màn hình cũng có dạng tương tự như xe hoặc giỏ mua hàng thật ở siêu thị. Xe hoặc giỏ mua hàng này đi theo người mua suốt quá trình di chuyển từ trang web này sang trang web khác để chọn hàng; chúng có nhiệm vụ tự động tính tiền (kể cả thuế, cước vận chuyển) để thanh toán với khách… Điều quan trọng nhất ở đây là khách có thể mua hàng tại nhà mà không cần phải đích thân đi tới cửa hàng. Đương nhiên, vì là hàng hoá hữu hình nên sau đó cửa hàng vẫn phải dùng tới các phương tiện gửi hàng truyền thống để đưa hàng tới tay khách. 3. Đặc điểm của TMĐT 3.1 Ở góc độ doanh nghiệp hay tổ chức Nhìn nhận vấn đề từ phía doanh nghiệp hay tổ chức, việc tạo lập một môi trường TMĐT gắn liền với những thay đổi cơ bản trong cách thức kinh doanh cũng như việc mở rộng phạm vi kinh doanh. Có thể nói TMĐT tác động mạnh mẽ tới các quy trình kinh doanh. TMĐT phụ thuộc chặt chẽ vào công nghệ thông tin, chủ yếu là do các yêu cầu về chức năng, các lợi ích về chi phí và tất nhiên là cả do sự thống trị của công nghệ thông tin trong thời đại ngày nay. Thực tế này tạo ra một tầm nhìn quản lý chiến lược cao cho doanh nghiệp, đặt ra những mục tiêu đầy tham vọng cùng với việc chấp nhận các thay đổi cơ bản để đạt được mục tiêu. Hơn thế, nó tạo ra sự phân phối lại nguồn nội lực của doanh nghiệp bằng cách hình thành các nhóm chức năng chéo (cross functional teams) để mang lại những thay đổi cần thiết. Nói một cách ngắn gọn, với sự phân tích như trên, TMĐT có bốn đặc điểm: - Tạo ra một tầm nhìn quản lý chiến lược cao cho doanh nghiệp - Gắn bó chặt chẽ với những mục tiêu táo bạo - Hàm ý một sự phân phối lại nội lực của doanh nghiệp - Ảnh hưởng sâu rộng tới mọi thực thể bao gồm các cơ cấu nội bộ, các đối tác kinh doanh và khách hàng. 3.2 Ở góc độ công nghệ thông tin Nhìn nhận vấn đề từ phía sự phát triển của công nghệ thông tin, TMĐT còn mang nhiều đặc điểm khác. Đầu tiên, nó có một định hướng ứng dụng mạnh mẽ, nghĩa là việc sử dụng các phương tiện kinh doanh điện tử hiện đại thúc đẩy và hiện thực hoá những cải tiến quy trình kinh doanh. Sự thúc đẩy này là hoàn toàn tự nhiên, tất cả các bộ phận đều có lợi (đưa các bộ phận xích lại gần nhau và phá vỡ nhiều rào cản). Rất nhiều doanh nghiệp đã nhận ra tầm quan trọng của đối tác trong quá trình thực hiện các mục tiêu kinh doanh; điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải gắn liền các yếu tố bên ngoài như nhà cung cấp, khách hàng, nhà phân phối… với doanh nghiệp một cách chặt chẽ hơn bằng cách sử dụng TMĐT trong suốt chuỗi phân phối. TMĐT còn được đặc trưng bởi việc chuyển từ các giao dịch dựa trên giấy tờ sang các giao dịch điện tử, nhờ đó giảm được sai sót của con người, đẩy nhanh tốc độ xử lý và kiểm soát được chi phí. Một hệ quả của TMĐT là thông tin được xử lý từ quá trình giao dịch sẽ đem lại lợi thế cạnh tranh không nhỏ cho doanh nghiệp. Cuối cùng, vì có nhiều công ty muốn hợp tác với nhau trong môi trường TMĐT nên đây là hậu thuẫn to lớn cho các chuẩn mở của công nghệ thông tin. Có thể thấy rõ điều này khi ngày càng xuất hiện nhiều nhu cầu làm việc và trao đổi dữ liệu dạng multi-media như văn bản phức hợp, âm thanh, hình ảnh… do đó đòi hỏi những phương thức truyền tin mới. II. TÁC DỤNG CỦA TMĐT 1. Lợi ích của TMĐT Hiện nay, TMĐT đang được nhiều quốc gia quan tâm, coi là một trong những động lực phát triển chủ yếu của nền kinh tế. TMĐT có những lợi ích: Trước hết, Đối với DN: - TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất tại các văn phòng. Các văn phòng không có giấy tờ chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm, chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần. - TMĐT giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị. Bằng Internet/web, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng, catalogue điện tử trên các trang web không những phong phú hơn mà còn thường xuyên được cập nhật so với các catalogue in ấn khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi thời. - TMĐT qua Internet/web giúp người tiêu dùng và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch (giao dịch được hiểu là quá trình từ quảng cáo, tiếp xúc ban đầu, giao dịch đặt hàng, giao hàng, thanh toán). Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, bằng khoảng 0,5% thời gian giao dịch qua bưu điện. Chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng 5% chi phí giao dịch qua Fax hay qua bưu điện chuyển phát nhanh; chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng 10%-20% chi phí thanh toán theo lối thông thường. Trong hai yếu tố cắt giảm này, yếu tố thời gian đáng kể hơn, vì việc nhanh chóng thông tin hàng hoá đến người tiêu dùng (mà không phải qua trung gian) có ý nghĩa sống còn trong cạnh tranh kinh doanh. - TMĐT tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các nhân tố tham gia vào quá trình thương mại. Thông qua mạng, các đối tượng tham gia có thể giao tiếp trực tiếp và liên tục với nhau nhờ đó sự hợp tác lẫn sự quản lý đều được tiến hành nhanh chóng và liên tục; tạo điều kiện tìm kiếm các bạn hàng mới, cơ hội kinh doanh mới trên bình diện toàn quốc, khu vực và thế giới. Xét trên
Luận văn liên quan