Khóa luận Pháp luật về quy hoạch sử dụng đất và thực tiễn trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam

Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là bộ phận hợp thành của môi trường sống, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là địa bàn phân bố dân cư và tổ chức các hoạt động kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, việc sử dụng tài nguyên đất đai một cách hợp lý và hiệu quả là vấn đề được cả thế giới quan tâm. Tuy nhiên, hiện trạng sử dụng đất ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Quảng Nam nói riêng hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập, nhất là ở huyện miền núi. Để giải quyết vấn đề đó, đã có rất nhiều biện pháp để nâng cao hiệu quả quá trình sử dụng đất, một trong số biện pháp mang lại hiệu quả tốt nhất đó là công tác quy hoạch sử dụng đất (QHSDĐ). QHSDĐ là một trong 13 nội dung quản lý nhà nước về đất đai, được ghi nhận tại điều 6 và điều 21 đến điều 30 Luật đất đai 2003. Vai trò của QHSDĐ được cụ thể hóa tại điều 18 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 1992 theo đó: “Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo việc sử dụng đất đúng mục đích và có hiệu quả” [16,127] . Như vậy, việc quản lý đất đai theo quy hoạch và theo pháp luật được nhà nước đặc biệt quan tâm trong hoạt động quản lý và sử dụng đất trong giai đoạn hiện nay. Song, trong điều kiện hiện nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, thêm vào đó, việc dân số ngày càng gia tăng đã làm cho QHSDĐ trở thành vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết. Công tác QHSDĐ ở Quảng Nam nói chung và huyện Nam Giang nói riêng trong những năm qua đã đạt được nhiều hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tề-xã hội của địa phương. Tuy nhiên Công tác QHSDĐ dần bộc lộ những hạn chế và bất cập. Thực tế cho thấy, Quảng Nam là một tỉnh cần được quy hoạch và bảo vệ chặt chẽ nhưng quá trình triển khai, lập và tổ chức thực hiện QHSDĐ được phê duyệt và đưa vào thực hiện thì dẫn đến tình trạng “Quy hoạch treo”. Tình trạng vi phạm, lấn chiếm đất có quy hoạch vẫn còn phổ biến. Tiến độ thực hiện các phương án QHSDĐ còn chậm và chưa chú ý tới yếu tố bảo vệ môi trường, phát triển bền vững Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nói trên nhưng nguyên nhân cơ bản nhất đó là do pháp luật về QHSDĐ chưa hoàn thiện và do sự yếu kém trong việc thực hiện pháp luật QHSDĐ của cơ quan chức năng. Nhận thức được tầm quan trọng của QHSDĐ nên Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật QHSDĐ trong giai đoạn hiện nay.

doc38 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5519 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Pháp luật về quy hoạch sử dụng đất và thực tiễn trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP “Pháp luật về quy hoạch sử dụng đất và thực tiễn trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam” I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là bộ phận hợp thành của môi trường sống, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là địa bàn phân bố dân cư và tổ chức các hoạt động kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, việc sử dụng tài nguyên đất đai một cách hợp lý và hiệu quả là vấn đề được cả thế giới quan tâm. Tuy nhiên, hiện trạng sử dụng đất ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Quảng Nam nói riêng hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập, nhất là ở huyện miền núi. Để giải quyết vấn đề đó, đã có rất nhiều biện pháp để nâng cao hiệu quả quá trình sử dụng đất, một trong số biện pháp mang lại hiệu quả tốt nhất đó là công tác quy hoạch sử dụng đất (QHSDĐ). QHSDĐ là một trong 13 nội dung quản lý nhà nước về đất đai, được ghi nhận tại điều 6 và điều 21 đến điều 30 Luật đất đai 2003. Vai trò của QHSDĐ được cụ thể hóa tại điều 18 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 1992 theo đó: “Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo việc sử dụng đất đúng mục đích và có hiệu quả” [16,127] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà xuất bản chính trị quốc gia . Như vậy, việc quản lý đất đai theo quy hoạch và theo pháp luật được nhà nước đặc biệt quan tâm trong hoạt động quản lý và sử dụng đất trong giai đoạn hiện nay. Song, trong điều kiện hiện nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, thêm vào đó, việc dân số ngày càng gia tăng đã làm cho QHSDĐ trở thành vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết. Công tác QHSDĐ ở Quảng Nam nói chung và huyện Nam Giang nói riêng trong những năm qua đã đạt được nhiều hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tề-xã hội của địa phương. Tuy nhiên Công tác QHSDĐ dần bộc lộ những hạn chế và bất cập. Thực tế cho thấy, Quảng Nam là một tỉnh cần được quy hoạch và bảo vệ chặt chẽ nhưng quá trình triển khai, lập và tổ chức thực hiện QHSDĐ được phê duyệt và đưa vào thực hiện thì dẫn đến tình trạng “Quy hoạch treo”. Tình trạng vi phạm, lấn chiếm đất có quy hoạch vẫn còn phổ biến. Tiến độ thực hiện các phương án QHSDĐ còn chậm và chưa chú ý tới yếu tố bảo vệ môi trường, phát triển bền vững… Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nói trên nhưng nguyên nhân cơ bản nhất đó là do pháp luật về QHSDĐ chưa hoàn thiện và do sự yếu kém trong việc thực hiện pháp luật QHSDĐ của cơ quan chức năng. Nhận thức được tầm quan trọng của QHSDĐ nên Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật QHSDĐ trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù hoạt động QHSDĐ trên thực tế còn nhiều hạn chế nhưng vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện. Các công trình nghiên cứu và pháp luật QHSDĐ hết sức ít ỏi, chủ yếu chỉ dừng lại ở các bài báo ở trên tạp chí và trên các báo điện tử, chưa đáp ứng được yêu cầu tìm hiểu của người sử dụng đất và yêu cầu về việc tham khảo và thực hiện của các cơ quan nhà nước. Vấn đề quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới cũng được nhiều người nghiên cứu nhưng lại được nhìn nhận và đánh giá ở trên phương diện khác. Các công trình nghiên cứu chủ yếu chỉ chú ý với vấn đề đầu tư cơ sở hạ tầng mà chưa đặt nó vào công tác QHSDĐ. Chính vì thế nghiên cứu pháp luật về QHSDĐ trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay là hết sức cấp thiết. Với mục tiêu nhìn nhận và đánh giá những kết quả của pháp luật QHSDĐ và việc thực hiện pháp luật QHSDĐ để quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang giai đoạn 2011 – 2015. Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được và những bất cập tồn tại trong quá trình thực hiện quy hoạch cũng như đề ra các giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật QHSDĐ và nâng cao hiệu quả sử dụng đất để quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang trong những năm tới, bản thân đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quy hoạch sử dụng đất và thực tiễn trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam” Đây là đề tài lần đầu tiên được nghiên cứu nên tài liệu nghiên cứu còn hạn chế, bản thân chưa học tập được phương pháp nghiên cứu của người đi trước. Do đó, bản thân rất mong nhận được sự quan tâm và đóng góp ý kiến của người quan tâm đến hoạt động QHSDĐ và công tác quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới để đề tài này được hoàn thiện hơn. 2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn nghiên cứu Qua quá trình tìm hiểu “Pháp luật về quy hoạch sử dụng đất và thực tiễn trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam” tác giả rút ra được ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài, hiểu thêm các quy định của pháp luật về QHSDĐ, về quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới sử giúp cho đề tài nhìn thấy rõ việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới trong QHSDĐ là một công việc khó khăn, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, các cấp trong địa phương. Ý nghĩa khoa học: Việc nghiên cứu các văn bản pháp luật liên quan đến QHSDĐ và quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tạo điều kiện cho bản thân tìm hiểu các quy định trong việc áp dựng thực tế để tăng thêm việc nghiên cứu, xây dựng những kiến thức cơ bản cho bản thân cũng như cho việc học. Ngoài ra, báo cáo thực tập này cũng cung cấp một vấn đề cơ bản cho tất cả cá nhân, tổ chức quan tâm đến vấn đề này. Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp luật về QHSDĐ và thực tiễn thực hiện trong hoạt động quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới nhằm đưa ra các giải pháp hoàn thiện vấn đề này. Bên cạnh đó, tiểu luận còn là một tài liệu tham khảo, mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả QHSDĐ của tỉnh Quảng Nam nói chung và huyện Nam Giang nói riêng. 3. Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quy hoạch sử dụng đất và thực tiễn trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam” nhằm tăng cường sự hiểu biết về tầm quan trọng của vấn đề QHSDĐ trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới, trao dồi các kỹ năng phục vụ cho công việc sau này. Mục đích của đề tài nghiên cứu bao gồm: - Thông qua tìm hiểu những vấn đề lý luận về quy hoạch sử dụng đất và vấn đề quy định về xây dựng nông thôn mới, từ đó chỉ ra được mối quan hệ giữa hoạt động QHSDĐ nói chung và công tác quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới ngày nay nói riêng. - Thông qua tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành về QHSDĐ nhằm tìm ra những điểm hợp lý, những hạn chế và bất cập để tìm ra những giải pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật về QHSDĐ. - Tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động QHSDĐ và thực tiễn thực hiện trong quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang, thông qua đó thấy được thực trạng pháp luật về QHSDĐ cũng như thực trạng thực hiện pháp luật về QHSDĐ trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang. - Từ thực trạng thực hiện pháp luật QHSDĐ nói chung và hoạt động QHSDĐ để quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới của tỉnh huyện Nam Giang nói riêng, khóa luận mong muốn tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn để nâng cao hiệu quả hoạt động QHSDĐ trong công tác quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Nam Giang. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng mà khóa luận nghiên cứu đó là các quy định của pháp luật về hoạt động QHSDĐ. Đồng thời, tìm hiểu việc áp dụng pháp luật vào hoạt động QHSDĐ cũng như thực tiễn của hoạt động QHSDĐ trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang. Về phạm vi nghiên cứu, khóa luận chủ yếu nghiên cứu vấn đề về QHSDĐ và các quy định về quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới trong phạm vi các quy định của Luật đất đai năm 2003 và các văn bản pháp quy về vấn đề quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác –Lê Nin. Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu các vấn đề dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn và lý luận giúp cho nội dung báo cáo mang một sắc thái riêng dựa trên nền tảng khoa học từ đó rút ra quan điểm cho bản thân. Ngoài những phương pháp đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp cụ thể khác trong khóa luận đó là: - Phương pháp phân tích, tổng hợp chủ yếu được sử dụng ở chương lý luận về QHSDĐ, về quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam. - Phương pháp giải thích pháp luật được tác giả sử dụng để lý giải và phân tích các quy định của pháp luật về QHSDĐ, về quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam. - Phương pháp thống kê được sử dụng khi xử lý số liệu từ các báo cáo về hoạt động QHSDĐ của huyện Nam Giang. - Bên cạnh những phương pháp thống kê và điều tra xã hội học chủ yếu được sử dụng ở chương thực tiễn thực hiện pháp luật QHSDĐ trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới trên toàn huyện để thấy được những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, bất cập tronzg công tác thực hiện pháp luật QHSDĐ trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới của huyện Nam Giang. 6. Bố cục khóa luận: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của khóa luận được chia thành bốn chương. Chương 1: Một số về đề lý luận về quy hoạch sử đụng đất và quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới. Chương 2: Nội dung cơ bản của pháp luật quy hoạch sử dụng đất. Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật quy hoạch sử dụng đất trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam. Chương 4: Phương hướng, giải pháp trong công tác quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam. II. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUY HOẠCH ĐẤT XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI 1.1. Những vấn đề chung về quy hoạch sử dụng đất 1.1.1. Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất. Về mặt bản chất, quy hoạch là sự chuyển hóa từ ý tưởng qua tư duy thành hành động nhằm tạo ra những kết quả để đạt được mục tiêu nhất định. Trên thực tế, ý tưởng và mong muốn của con người luôn có xu hướng nâng cao không ngừng nhưng điều kiện để thực hiện được ý tưởng thì luôn bị giới hạn bởi sự hạn chế của các nguồn lực, vì vậy cần phải có tư duy. Như vậy, quy hoạch là quá trình của tư duy lý thuyết quan hệ với từng sự việc được hình thành và thể hiện qua một quá trình hành động thực tế. Trong quá trình này nhà quy hoạch phải tính toán, cân nhắc và đề xuất những hoạt động cụ thể để đạt được kết quả dẫn đến mục tiêu. Mục tiêu đạt được phải đảm bảo tính hiệu quả và tính bền vững. Xét trên quan điểm đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt thì QHSDĐ là một phạm trù kinh tế - xã hội và có thể xác định khái niệm QHSDĐ là hệ thống các biện pháp của Nhà nước, quản lý và tổ chức sử dụng đất hợp lý, hiệu quả thông qua việc phân bố đất đai cho các mục đích sử dụng đất và định hướng tổ chức sử dụng đất trong các cấp lãnh thổ, các ngành, tổ chức đơn vị nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, thực hiện đường lối kinh tế của Nhà nước trên cơ sở dự báo theo quan điểm sinh thái, bền vững, phù hợp với xã hội và bảo vệ môi trường Xét trên quan điểm đất đai là tài nguyên quốc gia, là một yếu tố cơ bản của sản xuất xã hội, nguồn lực quan trọng của sự phát triển kinh tế - xã hội thì QHSDĐ là một hệ thống chỉ tiêu đánh giá tiềm năng đất đai, những loại hình sử dụng đất và các tiềm năng kinh tế - xã hội nhằm lựa chọn và xác định các giải pháp sử dụng đất tối ưu, đáp ứng các nhu cầu của con người trên cơ sở bảo vệ các nguồn tài nguyên lâu dài. Xét trên quan điểm đất đai là tài nguyên quốc gia, là một yếu tố cơ bản của sản xuất xã hội, nguồn lực quan trọng của sự phát triển kinh tế - xã hội thì QHSDĐ là một hệ thống chỉ tiêu đánh giá tiềm năng đất đai, những loại hình sử dụng đất và các tiềm năng kinh tế - xã hội nhằm lựa chọn và xác định các giải pháp sử dụng đất tối ưu, đáp ứng các nhu cầu của con người trên cơ sở bảo vệ các nguồn tài nguyên lâu dài. Xét trên quan điểm đất đai là tài sản quốc gia do nhà nước đại diện sở hữu và kiểm soát thì QHSDĐ là sự tính toán, phân bổ đất đai cụ thể về số lượng, chất lượng, vị trí, không gian cho các mục tiêu kinh tế - xã hội để việc sử dụng đất phù hợp với các điều kiện về đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng và từng ngành sản xuất [19,112] Đại học luật Hà Nội (2006), giáo trình luật đất đai, nhà xuất bản tư pháp Hà Nội . Như vậy, việc lập QHSDĐ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ cho trước mắt mà cả lâu dài. Căn cứ vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, phương hướng nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ, QHSDĐ nhằm định hướng cho các cấp, các ngành trên địa bàn lập QHSDĐ chi tiết cho mình. Xác lập sự ổn định về mặt pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về đất đai, làm cơ sở để tiến hành giao đất và đầu tư để phát triển sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực, phục vụ nhu cầu dân sinh, văn hóa – xã hội. Từ những phân tích trên ta có thể rút ra khái niệm QHSDĐ như sau: QHSDĐ là quá trình tư duy của lý thuyết để hình thành các quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng trong thực tế một cách bền vững để mang lại lợi ích cao nhất. Thực hiện đồng thời hai chức năng đó là điều chỉnh các mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất đặc biệt với mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội kết hợp bảo vệ đất với môi trường và phát triển bền vững. 1.1.2. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất QHSDĐ là một trong những yếu tố quan trọng đối với phát triển nền kinh tế của đất nước. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì đặc điểm của QHSDĐ cũng khác nhau. QHSDĐ luôn là một bộ phận cấu thành của phương thức sản xuất xã hội nhất định trong giai đoạn lịch sử đó. Chính vì thế, khi phương thức sản xuất thay đổi thì đặc điểm của QHSDĐ cũng thay đổi theo. Trong thời kỳ trước, QHSDĐ nhìn chung còn mang nặng yếu tố chủ quan, các phương án QHSDĐ chưa chú trọng đến yếu tố môi trường và phát triển kinh tế. Các phương án QHSDĐ của xã hội trước chỉ chú ý tới những biện pháp trước mắt là ổn định cuộc sống của người dân chứ chưa chú trọng tới việc phát triển bền vững. Ngày nay, trước những thảm họa do thiên tai và môi trường gây nên, thêm vào đó là sức ép của sự gia tăng dân số khiến con người ngày càng chú ý tới vấn đề QHSDĐ. Con người đã có những biện pháp QHSDĐ một cách thích hợp nhằm ngăn chặn những ảnh hưởng xấu của môi trường cũng như hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. QHSDĐ không chỉ quan tâm đến vấn đề môi trường và sinh thái mà còn quan tâm đến các lĩnh vực khác như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, dân số… Tóm lại, chúng ta thấy đặc điểm của QHSDĐ trong mỗi giai đoạn khác nhau, luôn thể hiện chính sách cũng như đường lối của các giai cấp thống trị. Hay nói cách khác, QHSDĐ cũng mang bản chất giai cấp và thể chế chính trị của mỗi nhà nước trong thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội nhất định. Trong xu hướng cả thế giới đang đối mặt với những thảm họa mang tính toàn cầu thì yêu cầu về QHSDĐ phát triển một cách bền vững và bảo tồn được các di tích lịch sử là một yếu tố quan trọng cần được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm. 1.1.3 Sơ lược về quy hoạch và sử dụng đất ở Việt nam qua các thời kỳ Với những đặc điểm QHSDĐ ta có thể chia QHSDĐ qua năm giai đoạn cơ bản đó là giai đoạn trước năm 1980; giai đoạn 1980 đến 1986; giai đoạn 1987 đến 1993, giai đoạn 1993 đến nay. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, QHSDĐ cũng mang những nét đặc trưng riêng thể hiện bản chất chính trị, kinh tế và xã hội của giai đoạn đó. - Quy hoạch sử dụng đất ở Việt Nam năm 1980 Vào thời kỳ trước năm 1980, khi mà ở nước ta chưa thực hiện công cuộc đổi mới đất nước thì QHSDĐ ở Việt Nam chưa thực sự nhận được quan tâm của Đảng và nhà nước. QHSDĐ không được coi là công tác của ngành quản lý đất đai mà chỉ được đề cập tới như một phần của quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp. Mặc dù công tác QHSDĐ lồng vào công tác phân vùng quy hoạch nông, lâm nghiệp đã được xúc tiến từ năm 1962 nhưng chủ yếu là do các ngành chủ quản tiến hành cùng với một số tỉnh, ngành có liên quan và chưa có sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ. - Quy hoạch sử dụng đất ở Việt nam thời kỳ 1980 – 1986 Đây là giai đoạn chuẩn bị những điều kiện tiền đề cơ bản để nhà nước ra những chính sách đổi mới. Hiến pháp 1980 ra đời đã bắt đầu có những quy định về QHSDĐ. Như vậy nhà nước đã tham gia vào công tác quản lý đất đai theo quy hoạch như một chủ thể đặc biệt. QHSDĐ đã bước đầu được coi là công tác của ngành quản lý đất đai chứ không phải chỉ đề cập tới như một phần của quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp như ở thời kỳ trước năm 1980 nữa. Trong thời kỳ này, nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã chỉ rõ phải xúc tiến công tác điều tra cơ bản, dự báo, lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất, nghiên cứu chiến lược kinh tế - xã hội, dự báo kế hoạch triển vọng để chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm (1986 – 1990). Các bộ ngành, các tỉnh, thành phố đã tham gia triển khai chương trình lập Tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất. Trong đó, đã đề cập đến vấn đề sử dụng đất đai và sơ đồ đã được tính toán tương đối có hệ thống để khớp với cả nước, với các vùng kinh tế lớn, các huyện trong tỉnh với sự tham gia phối hợp của các ngành, đã bước đầu đánh giá được hiện trạng, tiềm năng và đưa ra các dự kiến sử dụng quỹ đất quốc gia. - Quy hoạch sử dụng đất ở Việt Nam thời kỳ 1987 – 1993 Đây là thời kỳ đánh dấu sự ra đời Luật đất đai năm 1987. Lần đầu tiên nước ta có một văn bản pháp luật riêng điều chỉnh đến lĩnh vực đất đai tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác QHSDĐ. Mặc dù Luật đất đai 1987 không thể khái quát hết mọi vấn đề của quan hệ pháp luật đất đai. Nhưng xét trên phương diện lịch sử thì Luật đất đai 1987 đã làm tròn được sứ mệnh lịch sử của mình. Thời kỳ này, nước ta bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới sau hội nghị đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Công cuộc đổi mới đất nước làm cho nền kinh tế đứng trước những khó khăn và thử thách lớn khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tuy vậy, đây là thời kỳ công cuộc đổi mới ở nông thôn diễn ra sâu sắc cùng với việc giảm vai trò quản lý tập trung của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, tăng quyền tự chủ cho hộ nông dân và thực thi các chính sách đổi mới khác, công tác quy hoạch sử dụng đất đai ở cấp xã nổi lên như một vấn đề cấp bách về giao đất, cấp đất, dãn dân và một số nơi có xu hướng đô thị hóa rõ rệt. - Quy hoạch sử dụng đất ở Việt Nam thời kỳ 1993 - 2003 Khi đất nước chuyển sang một giai đoạn mới, Luật đất đai 1987 không thể đảm đương được sứ mệnh lịch sử của mình nữa nên yêu cầu mới đặt ra là phải thay thế luật cũ bằng một luật mới tiến bộ hơn. Để đáp ứng yêu cầu đó Luật đất đai 1993 ra đời nhằm điều chỉnh quan hệ đất đai theo cơ chế thị trường, xóa bỏ tình trạng vô chủ trong quan hệ sử dụng đất, xác lập quyền năng cụ thể cho người sử dụng đất. Ở thời kỳ này, công tác đất đai đi vào nề nếp sau một thời gian dài tuyệt đối hóa về công hữu hóa đất đai ở miền Bắc và buông lỏng công tác này ở các tỉnh phía Nam dẫn đến tình trạng có quá nhiều diện tích đất không có chủ sử dụng đất. Sau Đại hội Đảng lần thứ VII năm 1992, Nhà nước triển khai công tác nghiên cứu chiến lược phát triển, quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội ở hầu hết các tỉnh thành, các vùng kinh tế, các vùng trọng điểm và quy hoạch phát triển ngành ở hầu hết các bộ ngành. Các công trình nghiên cứu này đều tính tới năm 2010, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong vòng 10 đến 15 năm tới, việc nghiên cứu triển khai công tác QHSDĐ trong phạm vi cả nước đang là vấn đề bức xúc được các ngành, các cấp và mọi thành viên xã hội hưởng ứng. - Quy hoạch sử dụng đất ở Việt Nam thời kỳ 2003 đến nay Năm 2003 là cái mốc quan trọng trong công tác quản lý đất đai, thời kỳ này đất đai thực sự được xem như là hàng hóa, được tham gia vào thị trường bất động sản một cách chính quy. Đây cũng là thời kỳ Luật đất đai 2003 và Nghị định 181/2004/NĐ – CP ra đời nhằm điều chỉnh kịp thời QHSDĐ trong hoàn cảnh lịch sử mới. Thời kỳ này, công tác quy hoạch cũng được các cấp, các n