Khóa luận Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò của nhà nước ngày càng trở nên quan trọng. Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc hoạch định các chính sách về kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, văn minh và đưa nền kinh tế phát triển sánh ngang với các cường quốc kinh tế trên thế giới. Nhưng làm thế nào để các chủ trương chính sách đó đến được với nhân dân mới là vấn đề mà Chính phủ cần phải suy tính. Các nước phát triển trên thế giới đã tìm ra lời giải cho bài toán, đó là phát triển Chính phủ điện tử. Hầu hết các nước này đã nhận thức được rằng Chính phủ điện tử mang lại rất nhiều lợi ích cho đất nước. Trong tương lai, nước nào có một nền Chính phủ điện tử phát triển, nước đó sẽ có lợi thế hơn các nước khác. Không một nước nào muốn bị tụt hậu so với các nước, do đó, phát triển Chính phủ điện tử đã trở thành xu hướng chung của các quốc gia trên toàn thế giới. Thế nhưng, ở nước ta, khái niệm Chính phủ điện tử đối với hầu hết mọi người là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ và hết sức lạ lẫm. Hầu như chẳng ai biết Chính phủ điện tử là gì chứ không nói gì đến việc liệu Chính phủ điện tử sẽ mang lại lợi ích gì cho đất nước. Hiện nay có rất ít, nếu không nói là không có tác giả trong nước nào đề cập đến vấn đề Chính phủ điện tử. Các nước phát triển trên thế giới đã đề ra và thực hiện chiến lược Chính phủ điện tử từ nhiều năm trước, vậy mà nước ta mới bắt đầu triển khai các đề án tin học hoá quản lý nhà nước. Khởi động chậm như vậy thì nước ta còn rất lâu mới đuổi kịp các nước khác. Do vậy, nghiên cứu về Chính phủ điện tử là vấn đề rất cần thiết đối với nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, em mạnh dạn lựa chọn đề tài: "PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC - BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM" với hy vọng phần nào đó nâng cao nhận thức của mình về vấn đề này cũng như đề xuất một số kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam. 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài Khoá luận bắt đầu bằng việc nghiên cứu những nội dung cơ bản về Chính phủ điện tử với mục đích đem lại cái nhìn tổng quát, khách quan nhất về Chính phủ điện tử. Từ đó, khoá luận sẽ đi sâu nghiên cứu về chiến lược và tổng hợp một số dữ liệu về thực trạng phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước tiêu biểu, cụ thể là ba nước Mỹ, Australia và Singapore, qua đó rút ra một số bài học kinh nghiệm về phát triển Chính phủ điện tử. Phần cuối cùng của bài khoá luận sẽ dành để tìm hiểu và đánh giá các tiền đề cho việc xây dựng Chính phủ điện tử ở Việt nam, từ đó đề ra định hướng và một số kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt nam. 3. Phương pháp nghiên cứu Bài viết áp dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau: Phương pháp nghiên cứu tham khảo và tổng hợp tài liệu; Phương pháp suy luận logic, phương pháp so sánh. 4. Kết quả nghiên cứu Qua nghiên cứu về chiến lược phát triển Chính phủ điện tử ba nước Mỹ, Singapore và Australia, khoá luận đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm cho các nước đi sau. Khoá luận cũng đã đi sâu tìm hiểu về tình hình chuẩn bị cho phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam.Từ đó, khoá luận đã mạnh dạn đề xuất các giải pháp phát triển Chính phủ điện tử phù hợp với khả năng của nước ta. 5. Nội dung nghiên cứu Khoá luận gồm ba chương: Chương I: Tổng quan về chính phủ điện tử Chương II: Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước và bài học kinh nghiệm với Việt nam Chương III: Định hướng và giải pháp phát triển Chính phủ điện tử ở Việt nam

doc108 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4049 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG **********************   Đề tài: PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM Giáo viên hướng dẫn : Thầy Nguyễn Quang Hiệp Sinh viên thực hiện : Trần Thị Liên Lớp : Anh 5 K38B HÀ NỘI - 2003 MỤC LỤC Nội dung  Trang   Lời nói đầu  1   CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ ……………  4   I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ..........…  4   1. Sự ra đời Chính phủ điện tử……………………………………….. .……………  4   2. Khái niệm về Chính phủ điện tử…………………………………………………  11   3. Sự khác nhau giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ truyền thống …………  16   II. CÁC HÌNH THỨC CUNG CẤP DỊCH VỤ CHÍNH TRONG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ……………………………………………...  17   1. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Chính phủ - G2G (Government to Government)………………………………………………………  17   2. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Doanh nghiệp - G2B (Government to Business)…………………………………………………………..  17   3. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Công dân - G2C (Government to Citizen)……………………………………………...............................................  18   III. LỢI ÍCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ …………………………  18   1. Lợi ích về dịch vụ của Chính phủ ……………………………………………….  18   2. Lợi ích trong quản lý hành chính nhà nước  19   3. Tạo mối quan hệ hợp tác giữa chính phủ với chính phủ, giữa chính phủ với doanh nghiệp và giữa chính phủ với công dân …………………………………….  21   CHƯƠNG II: PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM…………..  22   I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ TRÊN THẾ GIỚI…………………  22   1. Tình hình phát triển Chính phủ điện tử trên thế giới……………………………  22   2. Dự báo triển vọng phát triển Chính phủ điện tử trong tương lai………………  27   II. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỸ…………………..  28   1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở Mỹ ………………………………………………  28   2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Mỹ ……………………………..  29   3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Mỹ ……………………………………………  32   III. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở AUSTRALIA ……..  38   1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở Australia…………………………………………  38   2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Australia…………………..  39   3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Australia…………………………………  45   IV. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở SINGAPORE……  47   1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở Singapore …………………………………  47   2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Singapore ……………………….  48   3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Singapore …………………………………….  55   V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở CÁC NƯỚC…… ………………………………………  57   1. Những cơ hội được tạo ra khi phát triển Chính phủ điện tử ………………….  57   2. Những thách thức phải giải quyết trong phát triển Chính phủ điện tử……  58   CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM…………………………………  61   I. ĐÁNH GIÁ VỀ CÁC TIỀN ĐỀ CHO VIỆC XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM………………………………………...  61   1. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông …………………………….  61   2. Nguồn nhân lực cho việc triển khai Chính phủ điện tử ……………………….  66   3. Nhận thức của người dân và khả năng tiếp cận các dịch vụ điện tử của Chính phủ……………………………………………………………………………...  67   4. Cơ sở pháp lý …………………………………………………………………….  67   5. Vấn đề bảo mật thông tin ………………………………………………………..  69   6. Hệ thống thanh toán điện tử………………………………………………………  69   II. MỘT SỐ ỨNG DỤNG BƯỚC ĐẦU CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM……………………………………………………..  71   1. Quá trình tin học hoá quản lý hành chính nhà nước ………………………….  71   2. Một số dịch vụ hành chính công qua Website của Chính phủ ………………  80   III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM……………………..  86   1. Định hướng Chính phủ trong việc phát triển công nghệ thông tin và ứng công nghệ thông tin vào các dịch vụ của Chính phủ …………………………..  86   2. Một số kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt nam ……………  89   Kết luận……………………………………………………………...  93   Tài liệu tham khảo    DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT AGLS: Government Locator Service Standard ATO: Australian Taxation Office CIO: Chief Information Officer G2B: Government to Business G2C: Government to Citizen G2E: Government to Employee G2G: Government to Government ICT: Information and Communication Technology IEE: Internal Effectiveness and Efficiency IMSC: Information Management Strategy Committee IPT: Integrated Project Team NOIE: National Office for the Information economy OMB: Office of Management and Budget RCB: Registry of Companies and Businesses RCSA: Recruitment and Consulting Service Association LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò của nhà nước ngày càng trở nên quan trọng. Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc hoạch định các chính sách về kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, văn minh và đưa nền kinh tế phát triển sánh ngang với các cường quốc kinh tế trên thế giới. Nhưng làm thế nào để các chủ trương chính sách đó đến được với nhân dân mới là vấn đề mà Chính phủ cần phải suy tính. Các nước phát triển trên thế giới đã tìm ra lời giải cho bài toán, đó là phát triển Chính phủ điện tử. Hầu hết các nước này đã nhận thức được rằng Chính phủ điện tử mang lại rất nhiều lợi ích cho đất nước. Trong tương lai, nước nào có một nền Chính phủ điện tử phát triển, nước đó sẽ có lợi thế hơn các nước khác. Không một nước nào muốn bị tụt hậu so với các nước, do đó, phát triển Chính phủ điện tử đã trở thành xu hướng chung của các quốc gia trên toàn thế giới. Thế nhưng, ở nước ta, khái niệm Chính phủ điện tử đối với hầu hết mọi người là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ và hết sức lạ lẫm. Hầu như chẳng ai biết Chính phủ điện tử là gì chứ không nói gì đến việc liệu Chính phủ điện tử sẽ mang lại lợi ích gì cho đất nước. Hiện nay có rất ít, nếu không nói là không có tác giả trong nước nào đề cập đến vấn đề Chính phủ điện tử. Các nước phát triển trên thế giới đã đề ra và thực hiện chiến lược Chính phủ điện tử từ nhiều năm trước, vậy mà nước ta mới bắt đầu triển khai các đề án tin học hoá quản lý nhà nước. Khởi động chậm như vậy thì nước ta còn rất lâu mới đuổi kịp các nước khác. Do vậy, nghiên cứu về Chính phủ điện tử là vấn đề rất cần thiết đối với nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, em mạnh dạn lựa chọn đề tài: "PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC - BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM" với hy vọng phần nào đó nâng cao nhận thức của mình về vấn đề này cũng như đề xuất một số kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam. 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài Khoá luận bắt đầu bằng việc nghiên cứu những nội dung cơ bản về Chính phủ điện tử với mục đích đem lại cái nhìn tổng quát, khách quan nhất về Chính phủ điện tử. Từ đó, khoá luận sẽ đi sâu nghiên cứu về chiến lược và tổng hợp một số dữ liệu về thực trạng phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước tiêu biểu, cụ thể là ba nước Mỹ, Australia và Singapore, qua đó rút ra một số bài học kinh nghiệm về phát triển Chính phủ điện tử. Phần cuối cùng của bài khoá luận sẽ dành để tìm hiểu và đánh giá các tiền đề cho việc xây dựng Chính phủ điện tử ở Việt nam, từ đó đề ra định hướng và một số kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt nam. 3. Phương pháp nghiên cứu Bài viết áp dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau: Phương pháp nghiên cứu tham khảo và tổng hợp tài liệu; Phương pháp suy luận logic, phương pháp so sánh. 4. Kết quả nghiên cứu Qua nghiên cứu về chiến lược phát triển Chính phủ điện tử ba nước Mỹ, Singapore và Australia, khoá luận đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm cho các nước đi sau. Khoá luận cũng đã đi sâu tìm hiểu về tình hình chuẩn bị cho phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam.Từ đó, khoá luận đã mạnh dạn đề xuất các giải pháp phát triển Chính phủ điện tử phù hợp với khả năng của nước ta. 5. Nội dung nghiên cứu Khoá luận gồm ba chương: Chương I: Tổng quan về chính phủ điện tử Chương II: Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước và bài học kinh nghiệm với Việt nam Chương III: Định hướng và giải pháp phát triển Chính phủ điện tử ở Việt nam Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Thầy Nguyễn Quang Hiệp, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn đã giúp đỡ em trong việc thu thập tài liệu để hoàn thành khoá luận này. Do trình độ còn hạn chế và thời gian cũng có hạn, khoá luận này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý chân thành của các thầy cô giáo và các bạn. Hà nội, ngày 20/11/2003 Sinh viên Trần Thị Liên CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ 1. Sự ra đời Chính phủ điện tử Ngày nay người ta nói nhiều về Chính phủ điện tử (e-government). Một khi mà Internet và thương mại điện tử ra đời, thì sự ra đời Chính phủ điện tử là điều tất yếu. Trước kia, hầu hết chính phủ các nước phải giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội theo cách cũ, tức là hoàn toàn không có sự tham gia của công nghệ thông tin và viễn thông. Như đã thấy ở hầu hết các nước, cơ cấu bộ máy nhà nước bao gồm các Bộ như bộ Giáo dục, Bộ Y tế, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Thương mại, Bộ Khoa học và công nghệ… Trung bình mỗi chính phủ có khoảng 50 tới 70 bộ hay cơ quan khác nhau ở trung ương. Mỗi bộ như vậy đều có các cơ quan chức năng riêng. Việc phát hiện một cơ quan làm không đúng chức năng, nhiệm vụ của mình có thể là khó khăn. Tệ hơn, ngay cả các vấn đề đơn giản như cấp giấy phép kinh doanh cho một doanh nghiệp, bán một căn nhà hoặc đăng ký khai sinh cho trẻ sơ sinh thì một số lớn các cơ quan khác nhau đòi hỏi một số biểu mẫu khác nhau. Điều này là quá thừa và không cần thiết. Hơn nữa, thủ tục giải quyết vấn đề về quản lý thường quá rườm rà, gây khó khăn cho người dân khi có nhu cầu. Ví dụ như phố Phoenix tỉnh thành Arizon thuộc bang SW Tây Nam nước Mỹ, dân chúng thường xuyên phải chen lấn nối đuôi nhau để đăng ký lại xe hơi và xe tải đã gây ồn ào và làm bẩn cả một khu vực trước trụ sở thành phố. Tình trạng này đã xảy ra không riêng gì ở Mỹ mà ở hầu hết các nước trên thế giới. Dân chúng quan hệ với các cơ quan, ban ngành của chính phủ từ trung ương đến địa phương đều nằm trong tình trạng ảm đạm và hao phí thời gian nên họ cũng muốn tránh né càng nhiều càng hay. Một trong các lý do cơ bản làm cho khu vực công kém hiệu quả, quan liêu là những việc xảy ra ở trên. Hệ thống tổ chức hàng dọc hay ngang của các cơ quan có quá nhiều ban ngành tạo ra sự phức tạp cho cán bộ nhân viên trong lúc thừa hành nhiệm vụ. Để giải quyết tình trạng trên, Chính phủ các nước trên thế giới đã tìm ra giải pháp áp dụng Internet và các thành tựu khác của khoa học công nghệ để cải thiện hoạt động của bộ máy nhà nước. Khả năng áp dụng Internet để cung cấp thông tin Chính phủ tới mọi người ở mọi nơi mà không cần bất cứ khâu trung gian nào sẽ ảnh hưởng rất lớn tới bản thân các quan chức Chính phủ. Các doanh nghiệp nhỏ có thể thu thập các quy tắc và các văn bản pháp luật dễ dàng hơn mà không cần phải thông qua luật sư. Ngay cả người dân cũng có thể nộp thuế từ nhà riêng vừa đỡ tốn thời gian tiền bạc vừa hiệu quả. Mặt khác, việc mọi người có thể chủ động hơn khi truy cập các thông tin và sử dụng các dịch vụ của Chính phủ cũng góp phần hạn chế hiện tượng lạm dụng quyền lực của các quan chức nhà nước, bảo vệ quyền lợi cá nhân cho công dân và đảm bảo an toàn và bảo mật các thông tin quan trọng của Chính phủ. Mặc dù vẫn còn sớm để dự đoán những ảnh hưởng của Internet đối với Chính phủ, nhưng có một điều chắc chắn rằng những ứng dụng của Internet trong việc đưa thông tin và dịch vụ của Chính phủ tới mọi người ở mọi nơi mọi lúc tạo ra cơ hội mở rộng, cải thiện và nâng cao chất lượng thông tin và dịch vụ của Chính phủ. Lợi ích của việc áp dụng Internet lại càng rõ ràng khi các Chính phủ trên khắp thế giới đang tự chuyển đổi sang Chính phủ điện tử. Vậy lý do của tất cả các hành động trên là gì và cơ sở hạ tầng thông tin đóng vai trò gì trong việc này? 1.1. Lý do ra đời Chính phủ điện tử Có 4 lý do chính khiến Chính phủ các nước chuyển đổi sang Chính phủ điện tử: 1.1.1. Tiết kiệm chi phí cho cả Chính phủ và dân chúng Trên thế giới hầu hết các Chính phủ đều nằm trong tình trạng chịu gánh nặng về chi phí. Mặc dù ở nhiều nước, khoản thu từ thuế tăng lên cùng với tốc độ tăng của nền kinh tế, đặc biệt là ở các nước công nghiệp, các khoản chi tiêu của Chính phủ vẫn tăng lên một cách nhanh chóng, nhất là khi dân số và các yếu tố khác tăng làm cho các khoản chi dành cho lương hưu và các khoản trợ cấp thất nghiệp, y tế tăng nhanh mỗi năm. Những khoản chi như vậy làm cho ngân sách nhà nước ngày càng cạn kiệt, khiến cho Chính phủ phải vắt óc nghĩ cách giảm chi phí. Chính phủ các nước thấy rằng áp dụng công nghệ thông tin và viễn thông vào quản lý hành chính nhà nước và cung cấp dịch vụ của Chính phủ vừa giúp giảm chi cho nhà nước vừa tiết kiệm thời gian tiền bạc cho các đối tượng sử dụng dịch vụ của Chính phủ. Rõ ràng là sử dụng dịch vụ thanh toán bằng điện sẽ nhanh hơn và rẻ hơn rất nhiều so với việc dùng tiền mặt hay các phương tiện thanh toán truyền thống khác. Chính phủ cũng tiết kiệm được rất nhiều nếu đăng tải các thông tin mời thầu trên mạng thay vì phải đăng tải trên báo chí. Từ năm 1996, thành phố Arizona của Mỹ đi tiên phong trong việc cho phép dân chúng sử dụng dịch vụ đăng ký lại giấy phép lái xe qua trang Web. Thay vì phải đứng xếp hàng cả buổi trước sở giao thông để chờ đến lượt mình thì nay dân chúng có thể lên mạng đăng ký số xe, xin bảng số 24/24 giờ liên tục và 7 ngày một tuần. Nhờ giao dịch qua mạng nên mỗi giao dịch rút lại trung bình chỉ còn 2 phút và người dân cũng tiết kiệm được chi phí do không phải đóng lệ phí cho Sở Giao thông như trước đây. Website này do IBM xây dựng, bảo quản và công ty này được trả 2% trên trị giá của giao dịch. Tiến trình thực hiện trên mạng chỉ tốn 1,6 USD so với 6,6USD cho mỗi giao dịch tại Sở. Việc này tiết kiệm cho Chính phủ một số tiền lớn, Sở Giao thông tiết kiệm được 1,7 triệu USD mỗi năm nhờ cung cấp dịch vụ qua mạng. (Nguồn: Kinh tế học Internet: Từ thương mại điện tử đến Chính phủ điện tử - Vương Liêm, NXB Trẻ, 2001) 1.1.2. Áp lực cạnh tranh từ khu vực tư nhân Ngoài vấn đề chi phí, Chính phủ phải đối mặt với áp lực cạnh tranh ngày càng tăng và phức tạp từ khu vực tư nhân. Trong nền kinh tế thị trường và môi trường cạnh tranh tự do hiện nay, sản phẩm và dịch vụ khách hàng do khu vực tư nhân cung cấp ngày càng tăng về cả lượng và chất. Các công ty đang rất tích cực tìm hiểu thị hiếu và tâm lý khách hàng để tìm cách khác biệt hoá sản phẩm và dịch vụ của mình so với các công ty khác. Mặc dù việc này mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng và xã hội, song nó lại làm nảy sinh một vấn đề quan trọng, đó là khi các khách hàng được hưởng dịch vụ ngày càng tốt từ khu vực tư nhân thì họ lại càng mong đợi một dấu hiệu tương tự từ các dịch vụ của Chính phủ. Trước đây, khi Chính phủ cung cấp thông tin và dịch vụ phục vụ người dân, việc phải bỏ ra bao nhiêu chi phí để cung cấp dịch vụ đó luôn là vấn đề được xem xét đầu tiên, sau đó mới đến chất lượng dịch vụ. Nếu cứ trong tình trạng này thì chất lượng dịch vụ do Chính phủ cung cấp không bao giờ cạnh tranh được với chất lượng dịch vụ của khu vực tư nhân. Vì vậy, các công dân càng được hưởng dịch vụ tốt bao nhiêu từ khu vực tư nhân lại càng yêu cầu bấy nhiêu từ các dịch vụ do Chính phủ cung cấp. 1.1.3. Công nghệ thông tin và viễn thông đang cải thiện chất lượng dịch vụ ở khắp mọi nơi Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, Chính phủ cũng nhận thấy áp dụng khoa học công nghệ là một biện pháp hữu hiệu để cải thiện chất lượng dịch vụ. Nếu một sinh viên đại học có thể đăng ký lớp cho mình qua mạng từ nhà hay từ ký túc xá thì tại sao Chính phủ lại không thể cho phép công dân của mình nộp thuế theo cách tương tự như vậy? Khi công nghệ góp phần cải thiện chất lượng dịch vụ Chính phủ theo hướng tích cực cả về tính kinh tế lẫn tính kỹ thuật thì Chính phủ không còn sự lựa chọn nào khác là phải đi theo chiều hướng chung đó. Sử dụng công nghệ hiện đại, thoạt tiên các viên chức Chính phủ cần phải giải quyết với nhiều loại giao dịch phong phú hơn với công dân và do đó phải có kiến thức sâu rộng hơn về công nghệ. Các tổ chức Chính phủ cũng sẽ chịu nhiều ảnh hưởng. Trước kia, nếu một công dân muốn xin giấy phép lái xe, đăng ký xe hay muốn nộp thuế, anh ta sẽ phải đến ba cơ quan nhà nước khác nhau. Chỉ để thực hiện một dịch vụ rất đơn giản mà phải đi đến rất nhiều nơi và thực hiện nhiều thủ tục rườm rà. Để giải quyết tình trạng này, Chính phủ cần phải rút gọn lại bộ máy hành chính của mình. Như vậy thì một công dân thất nghiệp khi muốn hưởng trợ cấp thất nghiệp, bồi thường hay trợ cấp về y tế có thể ngồi ở nhà và yêu cầu qua điện thoại hay một máy tính cá nhân thay vì cứ phải đi đến 4, 5 cơ quan khác nhau của Chính phủ để yêu cầu. 1.1.4. Tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế Các Chính phủ dân chủ tự do trên thế giới thấy rằng Chính phủ cũng là một thành viên quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Chính phủ ngày nay nhận thức rõ rằng Chính phủ cần thực hiện thêm chức năng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số- một động lực phát triển kinh tế của thế kỷ 21. Vai trò mới này của Chính phủ yêu cầu phải có nhiều công cụ quản lý hơn ngoài các công cụ truyền thống. Cơ sở hạ tầng vật chất cũ như hệ thống đường bộ, đường sắt, đường ống, hệ thống phân phối ga và điện vẫn quan trọng, song chúng cần phải được bổ sung thêm các cơ sở hạ tầng mới như mạng điện thoại cố định, điện thoại không dây, vệ tinh, Internet không dây,… Nếu không có cơ sở hạ tầng viễn thông tiên tiến cũng như hệ thống giáo dục và hệ thống kỹ thuật số hiện đại cho các dịch vụ của Chính phủ thì nước đó sẽ không có lợi thế cạnh tranh so với các nước khác. Trên đây là một số lý do chính khiến cho Chính phủ các nước, nhất là các nước phát triển, phải nhanh chóng gấp rút tạo tiền đề, cơ sở vật chất kỹ thuật để chuyển đổi sang Chính phủ điện tử và đặt ra mục tiêu cho chiến lược Chính phủ điện tử của mình. Bảng dưới đây sẽ cung cấp một số thông tin về mục tiêu mà Chính phủ các nước G7 và một số nước khác đặt ra trong chiến lược phát triển Chính phủ điện tử. Tên nước  Mục tiêu   Úc  Đến năm 2001 tất cả các dịch vụ Chính phủ sẽ được thực hiện trên mạng.   Canada  Đến năm 2004 tất cả các dịch vụ Chính phủ quan trọng sẽ được cung cấp trực tuyến.   Phần lan  Tới năm 2000, đa số các biểu mẫu sẽ được điện hoá.   Pháp  Năm 2000, tất cả chính quyền các cấp phải phổ cập truy cập dịch vụ và thông tin Chính phủ qua mạng.   Đức  Chỉ đặt ra một số mục tiêu cấp bộ.   Ailen  Cung cấp hầu hết các loại dịch vụ Chính phủ qua trên mạng vào cuối năm 2001.   Ý  Chỉ đặt ra một số mục tiêu cấp bộ.   Nhật bản  Tất cả các thủ tục như đăng ký, xin cấp giấy phép và các thủ tục khác sẽ được cung cấp trên mạng Internet vào năm tài chính 2003.   Singapore  Thực hiện các dịch vụ thanh toán điện tử vào năm 2001.   UK  100% dịch vụ công sẽ được thực hiện bằng điện vào năm 2005.   Mỹ  Phổ cập truy cập dịch vụ và thông tin Chính phủ qua mạng vào năm 2003.   Nguồn: Central Internet Unit (2000) 1.2. Các nhân tố thúc đẩy sự ra đời Chính phủ điện tử 1.2.1. Toàn cầu hoá Trong điều kiện toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, các quốc gia trở nên gắn bó với nhau về kinh tế, văn hoá và xã hội. Sự phụ thuộc lẫn nhau về văn hoá và xã hội giữa các nước khác nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNoi dung khoa luan.Doc
  • docso do 1.doc
  • docSo do 2.doc
Luận văn liên quan