Khóa luận Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương Việt Nam trong những năm gần đây

Qua hơn 15 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có thêm thế và lực để bước vào giai đoạn phát triển mới. Chúng ta đã đạt được một số thành tựu to lớn như nhịp độ phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ, kiềm chế và đầy lùi được nạn siêu lạm phát, nâng cao đời sống nhân dân. Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải nhận thấy rằng Việt Nam vẫn đang còn là một nước nông nghiệp, công nghiệp còn nhỏ bé, kết cấu hạ tầng còn kém phát triển, cơ sở vật chất - kỹ thuật chưa xây dựng được bao nhiêu. Nền kinh tế có mức tăng trưởng cao nhưng năng suất, chất lượng và hiệu quả còn thấp. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế chưa cao. Nhà nước còn quản lý rất chặt chẽ nhiều lĩnh vực quan trọng như ngân hàng, bưu điện, điện lực Những tệ nạn như tham nhũng, buôn lậu, vi phạm kỷ cương còn nặng và phổ biến. Tuy nhiên khó khăn còn đang tồn tại và sẽ tiếp tục phát sinh nhưng những thách đố gay go nhất của thời kỳ chuyển toàn bộ nền kinh tế từ cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới và sự hẫng hụt về viện trợ, đảo lộn về ngoại thương do có sự sụp đổ của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu đã qua rồi. Không có khó khăn nào có thể lớn hơn những khó khăn đã gặp phải trong những năm đầu khởi động chương trình đổi m ới. Khó khăn đang tồn tại và sẽ phát sinh chỉ là khó khăn của yêu cầu phát triển, tăng tốc độ nền kinh tế chứ không phải là khó khăn có thể dẫn đến nền kinh tế sụp đổ như những năm trước đây.

pdf129 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1992 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương Việt Nam trong những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG -------***------- KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: TÁC ĐỘNG CỦA ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI ĐẾN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY Giáo viên hướng dẫn : TS Nguyễn Văn Hồng Sinh viên thực hiện : Đỗ Thuý Hằng Lớp : Pháp 2 - K38 E HÀ NỘI - 2003 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI 1. Đặc điểm của kinh tế Việt Nam Qua hơn 15 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có thêm thế và lực để bước vào giai đoạn phát triển mới. Chúng ta đã đạt được một số thành tựu to lớn như nhịp độ phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ, kiềm chế và đầy lùi được nạn siêu lạm phát, nâng cao đời sống nhân dân. Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải nhận thấy rằng Việt Nam vẫn đang còn là một nước nông nghiệp, công nghiệp còn nhỏ bé, kết cấu hạ tầng còn kém phát triển, cơ sở vật chất - kỹ thuật chưa xây dựng được bao nhiêu. Nền kinh tế có mức tăng trưởng cao nhưng năng suất, chất lượng và hiệu quả còn thấp. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế chưa cao. Nhà nước còn quản lý rất chặt chẽ nhiều lĩnh vực quan trọng như ngân hàng, bưu điện, điện lực…Những tệ nạn như tham nhũng, buôn lậu, vi phạm kỷ cương còn nặng và phổ biến. Tuy nhiên khó khăn còn đang tồn tại và sẽ tiếp tục phát sinh nhưng những thách đố gay go nhất của thời kỳ chuyển toàn bộ nền kinh tế từ cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới và sự hẫng hụt về viện trợ, đảo lộn về ngoại thương do có sự sụp đổ của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu đã qua rồi. Không có khó khăn nào có thể lớn hơn những khó khăn đã gặp phải trong những năm đầu khởi động chương trình đổi mới. Khó khăn đang tồn tại và sẽ phát sinh chỉ là khó khăn của yêu cầu phát triển, tăng tốc độ nền kinh tế chứ không phải là khó khăn có thể dẫn đến nền kinh tế sụp đổ như những năm trước đây. Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 1 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây Mặt khác, bên cạnh những khó khăn, thách đố, nền kinh tế Việt Nam còn có thời cơ và thuận lợi, nội lực và ngoại lực. Nếu khai thác tốt các yếu tố thuận lợi, tận dụng được thời cơ sẽ cho phép khắc phục khó khăn, vượt qua thách đố, hành trang của nền kinh tế Việt Nam trên con đường hội nhập chứa đựng thuận lợi nhiều hơn khó khăn, thời cơ lớn hơn thách đố. 2. Vai trò của chính sách thương mại đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và đối với ngoại thương nói riêng. Hoạt động kinh tế trong một nền mậu dịch tự do diễn ra theo các quy luật kinh tế, đó là quy luật về giá cả, cung cầu, quy luật cạnh tranh …, các quy luật kinh tế này tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người. Nếu một nền kinh tế nào hoạt động dưới tác động, điều tiết của quy luật kinh tế thì sẽ tối đa hoá được lợi nhuận có thể rút ra từ các nguồn tài nguyên hiện có. Nhưng với một nền kinh tế thị trường không có sự quản lý của Nhà nước sẽ dễ dàng nảy sinh ra những khuyết tật của thị trường như tình trạng phân hoá giàu nghèo rất cao, tình trạng thất nghiệp sẽ ngày càng nghiêm trọng mà từ đó sẽ nảy sinh ra những tệ nạn xã hội, hoặc có những lĩnh vực có ích cho cộng đồng và phát triển kinh tế như xây dựng hạ tầng cơ sở, đầu tư vào giáo dục, y tế cần nhiều vốn nhưng thời gian thu hồi chậm và lợi nhuận thu được ít thì sẽ không được các nhà đầu tư quan tâm. Chính vì những lý do trên, để hướng nền kinh tế phát triển theo hướng có lợi nhất và phù hợp nhất với đặc điểm kinh tế của từng quốc gia, chính sách tự do hoá thương mại cũng cần có sự quản lý của Nhà nước dù ở mức độ can thiệp, quản lý của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường như thế nào lại phụ thuộc vào điều kiện lịch sử và quan điểm nhận thức của mỗi nước. Vì vậy, chúng ta thấy hiện nay các nước đều sử dụng chính sách thương mại của mình để can thiệp vào thị trường, thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển bền vững, ổn định và khuyến khích xuất khẩu, xâm nhập ra thị trường nước ngoài. Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 2 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây Chính sách thương mại là một hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện pháp thích hợp mà Nhà nước áp dụng để quản lý, điều chỉnh các hoạt động thương mại của quốc gia trong từng thời kỳ, nhằm đạt được các mục đích đã định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia đó. Chính sách thương mại là một trong những chính sách quan trọng mà mỗi quốc gia xuất phát từ đặc điểm và mục tiêu kinh tế - xã hội của mình xây dựng nên một cách phù hợp. Ngoài ra chính sách thương mại của một nước chịu ảnh hưởng và cũng chi phối hoạt động ngoại thương của các nước khác. Ở Việt Nam, chính sách thương mại đã dần xoá bỏ được các định kiến. Chuyển đổi chính sách thương mại từ quản lý theo mô hình kế hoạch hoá tập trung sang kiểu quản lý theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1995 ta đã sửa đổi lại chính sách thuế, chính sách phi quan thuế, chính sách tài chính tiền tệ… phù hợp với yêu cầu của Hiệp định CEPT, Hiệp định thuế quan của khối APEC và của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Những thay đổi đó đã được các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế công nhận, qua đó vị thế của nền kinh tế nước ta trên trường quốc tế đã thay đổi đáng kể. Nền kinh tế của ta đang và sẽ hội tụ đầy đủ các yếu tố cần thiết để hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia vào quá trình tự do hóa thương mại đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới. Riêng đối với lĩnh vực ngoại thương, chính sách thương mại chịu ảnh hưởng và cũng chi phối rất lớn đến lĩnh vực này. Chính sách thương mại đã thúc đẩy các doanh nghiệp tích cực tham gia sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, góp phần làm kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ cao. Cơ chế xuất nhập khẩu thể hiện trong chính sách của Nhà nước ngày càng mở rộng, linh hoạt đã tạo điều kiện và cơ hội cho các doanh nghiệp chủ động tìm đối tác và thị trường xuất khẩu. Mặt khác, sự cạnh tranh cả ở thị trường trong nước và thị trường quốc tế đã buộc các doanh nghiệp phải cải tiến mẫu mã sản phẩm, Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 3 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây áp dụng kỹ thuật công nghệ mới, do đó đã nâng cao được khối lượng kim ngạch và chất lượng xuất khẩu. Một vấn đề rất đáng chú ý là chính sách thương mại đã thúc đẩy xuất khẩu tới thị trường đích và nhập khẩu từ thị trường nguồn. Chính sách tự do hoá thương mại và các quy chế cụ thể đã giúp các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư chế biến hàng xuất khẩu để đưa tới thị trường tiêu dùng (thị trường đích) và nhập khẩu, nhất là nhập khẩu máy móc thiết bị từ thị trường có công nghệ hiện đại (thị trường nguồn). Chính sách thương mại của nước ta đã từng bước cụ thể hoá đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, đưa nước ta từ một nền kinh tế đóng sang một nền kinh tế mở, đã và đang gặt hái được nhiều thành công rất đáng khích lệ. 3. Tính cấp thiết phải đổi mới chính sách thương mại Chính sách thương mại là một trong những chính sách quan trọng mà mỗi quốc gia, xuất phát từ đặc điểm và mục tiêu kinh tế - xã hội của mình xây dựng nên một cách phù hợp. Tuy nhiên, không có chính sách thương mại nào là phù hợp cho tất cả các quốc gia, trong mọi thời điểm bởi vì các quy luật kinh tế chi phối nền kinh tế của thế giới cũng như của các quốc gia luôn luôn biến động, sự biến động của các quy luật này kéo theo sự thay đổi chiến lược kinh tế của từng quốc gia, do đó chính sách thương mại tất yếu cũng thay đổi theo. Hiện nay, xu hướng phát triển kinh tế của thế giới đang thay đổi và xu thế tự do hoá thương mại ngày càng khẳng định được vị trí của mình. Tất cả các quốc gia, nếú không muốn đứng ngoài dòng chảy của sự phát triển kinh tế thế giới thì buộc phải tham gia vào quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế, từng bước hội nhập nền kinh tế thế giới. Cụ thể là phải mở cửa nền kinh tế, thực hiện tự do hoá thương mại, giảm bớt các hàng rào thuế quan, phi thuế quan, các biện pháp bảo hộ nền sản xuất trong nước, ban hành những chính Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 4 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây sách kinh tế thông thoáng hơn để thu hút đầu tư nước ngoài và kích thích sản xuất trong nước, khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Chính vì những yêu cầu thực tiễn trên mà các nhà hoạch định chính sách không thể không nghĩ đến vấn đề cải cách và đổi mới chính sách thương mại của nước mình để phù hợp với xu thế phát triển chung của toàn thế giới. Đối với Việt Nam, chúng ta không thể duy trì mãi chính sách khép kín, chia cắt trong hoạt động thương mại và cô lập trong quan hệ quốc tế đã góp phần làm cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, kinh tế không phát triển và tụt hậu so với các nước khác trên thế giới. Trong hơn 15 năm qua, Việt Nam đã không ngừng cải cách, đổi mới chính sách thương mại và thành công của công cuộc đổi mới đã được thể hiện bằng những kết quả đáng ghi nhận như tốc độ tăng trưởng GDP, kim ngạch xuất nhập khẩu … Có thể nói, đổi mới chính sách thương mại là một lựa chọn tất yếu không chỉ riêng Việt Nam mà còn là của tất cả các nước trên thế giới. II. NỘI DUNG VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI 1. Khái quát chính sách thương mại trước đổi mới. 1.1. Chính sách thương mại trước đổi mới. Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, nền kinh tế nước ta vẫn là một nền kinh tế lạc hậu, lệ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu, phụ tùng và thiết bị của bên ngoài. Nhà nước vẫn duy trì chính sách kinh tế đóng, quan hệ buôn bán với nước ngoài chưa phát triển, chủ yếu là buôn bán với các nước XHCN, hoạt động xuất nhập khẩu còn manh múm, chính vì vậy, chính sách thương mại thời kỳ này chủ yếu là quản lý, điều chỉnh các quan hệ kinh tế trong nước và giữa nước ta với các nước XHCN. Xuất phát từ nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu và mô hình kế hoạch hoá tập trung ảnh hưởng của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 5 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây độc quyền Nhà nước đối với ngoại thương đã trở thành quy phạm pháp luật có tính bắt buộc. Điều này có thể thấy được thông qua các khía cạnh sau: - Nhà nước độc quyền quản lý về ngoại thương Mọi hoạt động ngoại thương đều tập trung vào Nhà nước, Bộ Ngoại thương là cơ quan duy nhất thay mặt Nhà nước quản lý hoạt động ngoại thương. Bộ Ngoại thương xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu và trực tiếp phân bổ kế hoạch chó các doanh nghiệp được phép kinh doanh xuất nhập khẩu, đồng thời Bộ trực tiếp điều tiết, quản lý hoạt động ngoại thương bằng các chỉ tiêu pháp lệnh và thông qua hệ thống cấp giấy phép xuất nhập khẩu. Vì vậy, Bộ Ngoại thương thay mặt Nhà nước trực tiếp kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Trong quá trình thực hiện, nếu gặp khó khăn, vướng mắc, các doanh nghiệp phải báo cáo Bộ và xin ý kiến chỉ đạo, không được tự ý sửa đổi kế hoạch. - Nhà nước độc quyền kinh doanh ngoại thương Các quan hệ thương mại, kinh tế giữa nước ta với các nước XHCN kế khác đều mang tính chất Nhà nước và được thực hiện trên cơ sở các hiệp định và Nghị định thư mà Chính phủ ta ký kết với chính phủ các nước XHCN. Hoạt động kinh doanh ngoại thương do Nhà nước độc quyền, Bộ Ngoại thương cho phép một số doanh nghiệp quốc doanh được phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài, các doanh nghiệp này chỉ được kinh doanh những mặt hàng và ngành hàng được cho phép. Thực chất đây cũng là những tổ chức kinh doanh độc quyền về các mặt hàng và ngành hàng được giao. Tính độc quyền của Nhà nước trong kinh doanh ngoại thương rất cao và gần như là tuyệt đối. Số lượng các doanh nghiệp được phép kinh doanh ngoại thương là rất nhỏ, tính đến năm 1981, chỉ có 12 doanh nghiệp Nhà nước được phép kinh doanh xuất nhập khẩu, đến năm 1987 là 35 doanh nghiệp. Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 6 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây Tính độc quyền trong kinh doanh ngoại thương còn được thể hiện trong quá trình thực hịên hoạt động ngoại thương, các doanh nghiệp phải thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước, điều đó nghĩa là sản xuất cái gì, xuất khẩu, nhập khẩu mặt hàng gì, trị giá bao nhiêu, thị trường nào hầu như đều do Nhà nước chỉ đạo, thậm chỉ trong nhiều trường hợp ngay cả giá cả cũng do Nhà nước quy định. Hạch toán kinh tế ở giai đoạn này chỉ mang tính chất hình thức. Thông qua chế độ “thu bù chênh lệch ngoại thương”, các khoản được coi là lãi phải nộp cho Nhà nước, các khoản được coi là lỗ thì được Ngân sách Nhà nước cấp bù. Tuy nhiên, từ khi Nghị định số 40/CP ngày 7/2/1980 ra đời, quyền kinh doanh ngoại thương được mở rộng hơn cho các địa phương thông qua các tổ chức ngoại thương địa phương. Mở rộng quyền xuất khẩu trực tiếp cho các liên hiệp xí nghiệp. Các liên hiệp xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trực thuộc các Bộ quản lý sản xuất. Từ quy định này hình thành nên Bộ quản lý Nhà nước về ngoại thương (Bộ Ngoại thương) và Bộ chủ quản của các tổ chức sản xuất được quyền hoạt động ngoại thương (Bộ quản lý ngành). Ngoài ra, Nghị định này còn đề cập đến việc sửa đổi công tác kế hoạch hoá xuất khẩu theo hướng thu hẹp các chỉ tiêu pháp lệnh đối với hàng xuất khẩu, cho phép xuất khẩu những sản phẩm ngoài kế hoạch, do đó đã hình thành hàng xuất khẩu theo kế hoạch và hàng xuất khẩu ngoài kế hoạch. - Nhà nước độc quyền về tài sản trong kinh doanh ngoại thương Do hoạt động kinh doanh ngoại thương tập trung vào các doanh nghiệp Nhà nước, tài sản phục vụ cho lưu thông và hàng hoá xuất nhập khẩu thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp trong kinh doanh ngoại thương. Trong một thời gian dài, nguyên tắc Nhà nước độc quyền ngoại thương được mở rộng ra toàn bộ các lĩnh vực kinh tế đối ngoại và được ghi vào Hiến Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 7 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây pháp Việt Nam năm 1980: “Nhà nước độc quyền ngoại thương và các quan hệ kinh tế đối ngoại” (Điều 21). Trong thời kỳ này, nền kinh tế nước ta được thực hiện theo cơ chế quản lý tập trung, hoạt động ngoại thương được tập trung vào tay Nhà nước. Bộ Ngoại thương có chức năng quản lý Nhà nước (hoạch định chính sách, soạn thảo pháp luật, kiểm tra, giám sát các hoạt động ngoại thương…) đồng thời có chức năng chỉ đạo các nghiệp vụ kinh doanh (ấn định các danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu, thị trường, phương thức mua bán, giá cả..) từ đó dẫn đến sự lẫn lộn giữa chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh và quản lý kinh doanh. Tuy nhiên, mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung chỉ có thể thực hiện được trong điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội nhất định. Ngày nay, hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu tan vỡ, cùng với xu hướng quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế – xã hội, Việt Nam cũng phải thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, phát triển sản xuất hàng hoá với nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, do đó chính sách thương mại thời kỳ này với việc Nhà nước độc quyền ngoại thương không còn phù hợp nữa. Chính vì thế, Nhà nước ta đã có chủ trương đổi mới về chính sách và cơ chế quản lý đề ngày càng phù hợp hơn với xu thế tự do hoá thương mại đang diễn ra mạnh mẽ trong khu vực và trên toàn thế giới. 1.2. Hoạt động ngoại thương trong thời kỳ 1976-1985: Trong bối cảnh đất nước đã thống nhất, hoạt động ngoại thương có những thuận lợi mới, đồng thời có những khó khăn mới. Đất nước được thống nhất, chúng ta có điều kiện và khả năng khai thác có hiệu quả tiền năng của đất nước (đất đai, rừng, biển, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh, nguồn lao động và yếu tố con người, vị trí của Việt Nam …) để đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển du lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ, phát triển ngoại thương mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với nước ngoài, thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài. Nhưng bên cạnh những thuận lợi mới, chúng ta cũng đứng Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 8 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây trước những khó khăn gay gắt bắt nguồn từ trình độ phát triển kinh tế của cả nước còn thấp, cơ sở vật chất và kỹ thuật còn thấp lém, kinh tế hàng hoá chưa phát triển, chưa có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, nền kinh tế còn bị lệ thuộc nặng nề vào bên ngoài. Chiến tranh kéo dài làm đã để lại những hậu quả kinh tế nặng nề làm cho đất nước phát triển chậm lại nhiều năm. Bên cạnh đó, một số nước phương Tây đã thực hiện chính sách cấm vận và phân biệt đối xử với nước ta. Hoàn cảnh quốc tế không thuận lợi đó đã gây ra cho nước ta không ít khó khăn, nhưng kinh tế nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng vẫn được tiếp tục phát triển. Sau đây là kết qủa hoạt động xuất, nhập khẩu giai đoạn 1976 -1985: Qua bảng thống kê sau chúng ta thấy: - Kim ngạch xuất khẩu tăng dần qua các năm. Tỷ lệ tăng trưởng bình quân trong 10 năm (1976 - 1985) của xuất khẩu tăng cao hơn tỷ lệ tăng của tổng kim ngạch buôn bán hai chiều và của nhập khẩu. Trong khi tỷ lệ tăng trưởng bình quân trong 10 năm của xuất khẩu là 13,5% thì của XNK cộng lại là 8,4%, và của nhập khẩu chỉ có 7%/ năm. - Trị giá xuất khẩu tuy có tăng nhưng trong 10 năm (1976-1985) xuất khẩu cũng chỉ đảm bảo được 30,8% tổng số tiền nhập khẩu. - Cán cân thương mại quốc tế luôn nghịch sai (nhập siêu) và nhập siêu có xu hướng tăng. Bảng 1: Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1976 -1985 Đơn vị: Triệu rúp – USD Năm Tổng Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại KNXNK Trị giá Tỉ lệ % 1976 1.226,8 222,7 1.004,1 -881,4 22,2 Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 9 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây 1977 1.540,9 322,5 1.218,4 -815,9 28,3 1978 1.630,0 326,8 1.303,2 -976,4 25,1 1979 1.846,6 320,,5 1.562,1 -120,5 21,0 1980 1.652,8 338,6 1.314,2 -975,6 25,8 1981 1.783,4 401,2 1.382,2 -981,0 29,0 1982 1.998,8 526,6 1.472,2 -945,6 35,8 1983 2.143,2 616,5 1.526,7 -910,2 40,4 1984 2.394,6 649,6 1.745,0 -1.095,4 37,2 1985 2.555,9 698,5 1.857,4 -1.158,9 37,6 Tổng số 18.773,0 4.423,5 14.349,5 -9.926,0 30,8 Nguồn: Giáo trình Kinh tế ngoại thương - 1997 Hầu hết các loại hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống đều phải nhập khẩu toàn bộ hay một phần di sản xuất trong nước không đảm bảo. Ngoài sắt thép, xăng dầu, máy móc thiết bị còn nhập khẩu cả hàng tiêu dùng. Kể cả những loại hàng hoá lẽ ra sản xuất trong nước có thể đáp ứng được như lúa gạo, vải mặc. Trong những năm 1976 -1985 đã nhập khẩu 60 triệu mét vải các loại và gần 1,5 triệu tấn lương thực quy ra gạo. Xuất khẩu tuy có tăng nhưng trị giá xuất khẩu quá thấp. Hàng xuất khẩu chủ yếu dựa vào thu gom sản phẩm từ nền sản xuất hàng hoá kém phát triển: 63% trị giá xuất khẩu của năm 1985 là nông, lâm, thuỷ sản: 28,9% là hàng công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp. Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E 10 Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây 2. Nội dung cơ bản của đổi mới chính sách thương mại: 2.1. Mở rộng quyền tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nghị định 33/CP ngày 19/4/1994 của Chính phủ về quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu là một bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự thay đổi tương đối cơ bản về chính sách xuất nhập khẩu nước ta. Từ năm 1994 trở về trước, có thể nói Nhà nước ta độc quyền về ngoại thương, hoạt động xuất nhập khẩu hầu như chỉ thực
Luận văn liên quan