Khủng hoảng tài chính Mỹ

Mỹ có nền kinh tế thị trường lớn nhất thế giới - năm 2005, GDP của Mỹ ước tính đạt hơn 12.000 tỉ đô la. Đó là một tổ hợp gồm 20 triệu công ty lớn nhỏ, trong đó có nhiều công ty xuyên quốc gia với doanh số từ vài chục tỉ đến một, hai trăm tỉ đô la. Các ngành không trực tiếp sản xuất ra hàng hóa gồm thương mại, giao thông vận tải, ngân hàng đã tạo ra đến 70% GDP, trong khi tỷ trọng của các ngành như nông nghiệp còn khoảng 3%; các ngành công nghiệp chế tạo truyền thống như dệt may tính cạnh tranh không mạnh như trước; ngành ô tô tuy vẫn là ngành quan trọng nhưng đang có nguy cơ phá sản vì bị cạnh tranh gay gắt về giá bán. Sự phát triển của nền kinh tế Mỹ gắn liền với sự cạnh tranh buộc các công ty phải luôn năng động và cải tiến để tồn tại và đi lên. Từ năm 1773 đến năm 2005, nền kinh tế Mỹ đã trải qua 232 năm với sự cạnh tranh không ngừng và ngày càng quyết liệt. Trong gần hai thập kỷ qua, kinh tế Mỹ đã phát triển khả quan, trải qua ba chu kỳ rưỡi lên xuống, ngoại trừ năm 1991 là GDP âm 0,2%, còn lại đều có chỉ số tăng dương, trong đó có 11 năm đạt từ 3,5 đến 4,5%. Lạm phát được kiểm soát trong khoảng 6,4% (1990) - 2,3% (năm tài chính 2004) so với trên 12% những năm 1970. Năng suất lao động gần như tăng ổn định, đạt từ 3,4% đến 4% trong bốn năm từ 2000 đến 2004.

doc61 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4809 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khủng hoảng tài chính Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ Contents CHƯƠNG I 3 DIỄN BIẾN KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 2007-2009 3 1. Tổng quan nền kinh tế Mỹ trước khủng hoảng 3 1.1 Tình hình sản xuất kinh doanh 3 1.2 Cán cân thanh toán 4 1.3 Thị trường chứng khoán 5 1.4 Thị trường bất động sản 5 2 .Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 6 3. Tác động của khủng hoảng Mỹ 8 3.1 Khủng hoảng tài chính toàn cầu 9 3.2 Tăng trưởng kinh tế 11 3.3 Thị trường chứng khoán sụt giảm nghiêm trọng 12 3.3 Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao kỷ lục 14 3.4 Cán cân thương mại 14 3.5 Tỷ giá hối đoái 16 3.6 Khủng hoảng niềm tin 19 CHƯƠNG II 22 NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG 22 1. Nguyên nhân trực tiếp 22 1.1 Khủng hoảng nợ dưới chuẩn 22 Mô hình khủng hoảng nợ dưới chuẩn 25 1.2 Các phát kiến tài chính 25 2. Nguyên nhân gián tiếp 32 2.1 Bong bóng bất động sản 32 2.2 Quản lý lỏng lẻo, thông tin thiếu minh bạch 36 2.3 Đòn bẩy tài chính quá cao 38 2.4 Khủng hoảng niềm tin 40 CHƯƠNG III 42 BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ VỚI KHỦNG HOẢNG CỦA HOA KỲ 42 1. Biện pháp của Fed 42 1.1 Chính sách tiền tệ 42 1.2 Nghiệp vụ thị trường mở 43 1.3 Chương trình đấu giá cho vay kì hạn (Term Auction Facility Program-TARP) 44 1.5 Nỗ lực của Fed phản ánh qua sự thay đổi của bảng cân đối tài sản 44 2. Biện pháp của Chính phủ Mỹ 45 2.1 Chính quyền Bush và Đạo luật kích thích kinh tế (ESA) 45 2.2 Chính quyền Obama và đạo luật tái đầu tư và phục hồi ( ARRA) 47 CHƯƠNG IV 53 BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TỪ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 53 1. Sự cần thiết duy trì hệ thống tài chính ổn định và minh bạch 53 1.1 Việc thực thi các chính sách 54 1.2 Củng cố niềm tin 55 1.3 Nâng cao vai trò quản lý của ngân hàng trung ương 55 1.4 Bài học cho các ngân hàng trong hoạt động quản lý tín dụng 55 2. Công khai hoạt động 57 3. Xây dựng các gói kích thích kinh tế phù hợp với điều kiện của quốc gia 57 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 60 A. Giáo trình và nghiên cứu chuyên đề 60 B. Internet (E-Paper) 61 CHƯƠNG I DIỄN BIẾN KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 2007-2009 Tổng quan nền kinh tế Mỹ trước khủng hoảng Tình hình sản xuất kinh doanh Mỹ có nền kinh tế thị trường lớn nhất thế giới - năm 2005, GDP của Mỹ ước tính đạt hơn 12.000 tỉ đô la. Đó là một tổ hợp gồm 20 triệu công ty lớn nhỏ, trong đó có nhiều công ty xuyên quốc gia với doanh số từ vài chục tỉ đến một, hai trăm tỉ đô la.      Các ngành không trực tiếp sản xuất ra hàng hóa gồm thương mại, giao thông vận tải, ngân hàng đã tạo ra đến 70% GDP, trong khi tỷ trọng của các ngành như nông nghiệp còn khoảng 3%; các ngành công nghiệp chế tạo truyền thống như dệt may tính cạnh tranh không mạnh như trước; ngành ô tô tuy vẫn là ngành quan trọng nhưng đang có nguy cơ phá sản vì bị cạnh tranh gay gắt về giá bán. Sự phát triển của nền kinh tế Mỹ gắn liền với sự cạnh tranh buộc các công ty phải luôn năng động và cải tiến để tồn tại và đi lên. Từ năm 1773 đến năm 2005, nền kinh tế Mỹ đã trải qua 232 năm với sự cạnh tranh không ngừng và ngày càng quyết liệt. Trong gần hai thập kỷ qua, kinh tế Mỹ đã phát triển khả quan, trải qua ba chu kỳ rưỡi lên xuống, ngoại trừ năm 1991 là GDP âm 0,2%, còn lại đều có chỉ số tăng dương, trong đó có 11 năm đạt từ 3,5 đến 4,5%. Lạm phát được kiểm soát trong khoảng 6,4% (1990) - 2,3% (năm tài chính 2004) so với trên 12% những năm 1970. Năng suất lao động gần như tăng ổn định, đạt từ 3,4% đến 4% trong bốn năm từ 2000 đến 2004. Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ so với các nước phát triển và Thế giới  Nguồn: IMF Data Mapper Cán cân thanh toán Nước Mỹ thiếu hụt trong cán cân thanh toán tiếp diễn từ năm 1983 và ngày càng ở mức trầm trọng trước khi diễn ra cuộc đại suy thoái kinh tế giai đoạn 2007-2008 . Trước năm 1993, tỉ lệ thiếu hụt trên GDP dưới 1%; từ năm 2000 tỉ lệ này tăng lên trên 3% ở mức mà các nhà kinh tế thường cho là có vấn đề nghiêm trọng. Nhưng thay vì được điều chỉnh, tỉ lệ thiếu hụt vào năm 2005 và 2006 vượt lên trên 5%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Mỹ chiếm khoảng 25% GDP, là mức không phải cao trên thế giới, nhưng giá trị tuyệt đối là rất lớn. Ví dụ, hàng năm Mỹ nhập khẩu 72-76 tỉ đô la hàng dệt may, 15 tỉ đô la giày dép, 25-27 tỉ đô la đồ gỗ... Nếu tính theo giá trị tuyệt đối, năm 2006 cán cân thanh toán của Mỹ thiếu hụt lên tới 721 tỉ USD. Thị trường chứng khoán Đặc trưng của kinh tế Mỹ là có một thị trường vốn rất phát triển. Thị trường chứng khoán Mỹ có tổng giá trị lên đến 33,4 ngàn tỉ đô la, tức gấp gần ba lần GDP của một năm. Riêng giá trị của thị trường chứng khoán New York đã là 20.000 tỉ đô la, với hơn 2.000 công ty niêm yết, giao dịch có ngày lên đến hơn 2,5 tỉ cổ phiếu. Hơn một nửa dân số Mỹ tham gia đầu tư tại các thị trường chứng khoán, trong khi đó sự hiện diện của các nhà đầu tư nước ngoài cũng ngày càng tăng. Tính đến tháng 4-2005, các nhà đầu tư ngoại quốc sở hữu 38% trái phiếu chính phủ Mỹ, 23% trái phiếu của các công ty Mỹ và 11% trái phiếu của các tổ chức, các quỹ của Mỹ. Độ hấp dẫn về đầu tư của thị trường chứng khoán Mỹ vẫn cao, và do đó các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục đổ vốn vào Mỹ. Mỹ dùng nguồn vốn này cân đối lại các thâm hụt của mình, tiếp tục chấp nhận tình trạng nợ lớn. Đến hết năm 2004, riêng chính phủ các nước châu Á đã mua 1,1 ngàn tỉ đô la trái phiếu chính phủ Mỹ, tăng 22% so với năm trước đó; tính đến tháng 9-2005 Nhật Bản mua của chính phủ Mỹ 687 tỉ, Trung Quốc mua 252 tỉ và Anh mua 182 tỉ đô la chứng khoán. Thị trường bất động sản Năm 2005, tại Mỹ, giá nhà đất đã tăng ở mức trung bình 12,5 %, thậm chí tăng đến 20% tại một số bang như California, Nevada, Hawaii, Maryland, Washington DC và tăng ở mức độ khủng khiếp tới 35% tại Palm Beach, Florida. Trong giai đoạn từ 2000 đến 2005, tại California, đã có 500 nghìn giấy phép kinh doanh bất động sản được cấp. Tuy nhiên, đến cuối năm 2006, bức tranh về tình hình kinh doanh địa ốc ở Mỹ đã xấu đi, các chuyên gia kinh tế thế giới đã cảnh báo rằng "một vụ nổ bong bóng lịch sử sẽ đến".Từ năm 2002 - 2007, nợ tiêu dùng của người Mỹ đã tăng 13%, nợ cầm cố tăng 23%. Do giá cả bất động sản tăng ở mức cao, nhiều người dân Mỹ đã đổ tiền bạc vào thị trường bất động sản vì họ cho rằng đầu tư vào lĩnh vực này sẽ mang lại những khoản lợi nhuận cao hơn các lĩnh vực khác, còn nếu có tệ cũng là ngang ngửa nhau. Tuy nhiên, theo thống kê của một số chuyên gia tài chính thì thực tế đã không hẳn như vậy: trong thời gian từ 1890 - 2004, giá nhà đất tại Mỹ tăng 0,4% mỗi năm, tăng 0,7% từ 1940 - 2004 và chỉ tăng trung bình 1% mỗi năm. Những con số này nhỏ nhoi hơn nhiều so với lợi nhuận thu được từ thị trường chứng khoán hoặc trái phiếu. Do vậy, khi thị trường bất động sản đã lên tới mức bão hòa theo đúng quy luật của thị trường, kẻ bán nhiều hơn người mua, thì việc quả bóng bất động sản xì hơi là điều tất yếu. 2 .Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp và không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ - quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ. Merrill Lynch đã phong toả số tiền lên tới 800 triệu USD của 2 quỹ này. Ngày 15/08/2007: Cổ phiếu của Countrywide Financial (công ty cho vay cầm cố lớn nhất ở Mỹ) giảm khoảng 13% trên sàn chứng khoán New York do các nhà đầu tư lo ngại công ty có thể đối mặt với rủi ro phát sản từ thông tin Countrywide Financial có các khoản xiết nợ và nợ quá hạn trong cho vay cầm cố đã tăng lên mức cao nhất kể từ đầu năm 2002. Đây được coi là mức giảm trong ngày lớn nhất kể từ khủng hoảng TTCK năm 1987. Ngày 18/09/2007: FED tiếp tục cắt giảm 0.5 điểm phần trăm lãi suất liên ngân hàng định hướng (Fed Funds Rate) xuống còn 4.75%/năm đã thúc đẩy TTCK Mỹ và kéo theo cả thị trường Châu Á tăng trưởng mạh do kỳ vọng lãi suất sẽ giảm giúp phục hồi nền kinh tế Mỹ. Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11 Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn. 16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư Mỹ JP Morgan Chase với giá 2 USD một cổ phiếu. 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày. 7/9/2008: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm soát hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ. 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%. 14/9/208: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/cổ phiếu sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers. 15/9/2008: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở lại sau vụ khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào Tháng 9 năm 2001. Lehman Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm; American International Group - tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan. 16/9/2008: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng của hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD. 18/9/2008: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh; Tập đoàn Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng khoán Mỹ kiềm chế tình trạng bán khống. 19/9/2008: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế hoạch mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó khăn, giúp làm thanh sạch hệ thống tài chính. 20-21/9/2008: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall. 22/9/2008: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm hoạt động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu Âu và Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley. 23/9/2008: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs; Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi ngờ có sự gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ. 26/9/2008: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaMu và sau đó bán các tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho JPMorgan Chase & Co. với giá 1,9 tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ. Trong khi đó tại Washington D.C, các thành viên chủ chốt trong quốc hội đã đồng ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. 29/9/2008: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt giảm gần 778 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay. 1/10/2008: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ 74-25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000 USD. 3/10/2008: Sau 3 giờ thảo luận và thuyết phục nhau, Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu lần thứ hai và thong qua dự luật giải cứu với tỷ lệ phiếu 262-171. Không đầy 2 giờ sau đó, Tổng thống Mỹ Gorge W. Bush đặt bút ký để chính thức chuyển kế hoạch thành đạo luật với tên gọi Economic Stimulus Act of 2008.( Đạo luật kích thích kinh tế 2008) 8/10/2008: Trong một nỗ lực phối hợp chưa từng có tiền lệ, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 4 ngân hàng trung ương các nước khác đã đồng loạt cắt giảm lãi suất nhằm giảm ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1930. Ngày 21/12/2008: Chính phủ Mỹ công bố gói cứu trợ khẩn cấp trị giá 17,4 tỷ USD cho ngành chế tạo ô tô Mỹ. Tác động của khủng hoảng Mỹ Khủng hoảng tín dụng, khủng hoảng cho vay thế chấp, khủng hoảng nợ dưới chuẩn của các ngân hàng và các tập đoàn tài chính khổng lồ ở Mỹ đã lan toả nhanh chóng tới tất cả các quốc gia ở các khu vực, ảnh hưởng tới tất cả lĩnh vực tài chính, kinh tế, thương mại, đời sống, xã hội trên phạm vi toàn cầu.Trong bài tiểu luận này, chúng tôi xin đi sâu vào phân tích tác động của khủng hoảng tài chính đến nội tại nền kinh tế Mỹ. Khủng hoảng tài chính toàn cầu Sự đổ vỡ dây chuyền trong ngành tài chính Mỹ đã lan qua Đại Tây Dương, tới Châu Âu, sang Châu Á và trở thành “cơn sóng thần thế kỷ” (Alan Greenspan, cựu Chủ tịch FED). Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã khiến hàng loạt các vấn đề yếu kém và tồn tại của kinh tế thế giới được bộc lộ ra ở phạm vi quốc gia, khu vực và thế giới. Thực tế cho thấy tình hình khủng hoảng đã diễn ra trên phạm vi rộng, tác động lớn và chuyển từ khủng hoảng cho vay cầm cố dưới chuẩn sang khủng hoảng kinh tế, tài chính. Trầm trọng hơn, thế giới không chỉ đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu mà cuộc khủng hoảng tài chính lần này còn xẩy ra trong bối cảnh thế giới đang phải đối mặt với các cuộc khủng hoảng khác, đó là cuộc khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng khí hậu và khủng hoảng lương thực. Hình 1: Tăng trưởng kinh tế thế giới trong khủng hoảng  Nguồn : Crisishelper Cuộc khủng hoảng tài chính đã gây ra sự suy thoái kinh tế trên phạm vi toàn câu, và được đánh giá là trầm trọng nhất kể từ 80 năm qua. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã sụt giảm nhanh chóng từ mức 5.2% năm 2007 xuống còn 3.4 % năm 2008. Mức độ suy thoái kinh tế trong quý IV/2008 và quý I/2009 ở nhiều nền kinh tế phát triển và đang phát triển xấu hơn dự báo. Tăng trưởng thương mại thế giới giảm nhanh từ 7.2% năm 2007 xuống 4.1% năm 2008. Cuối tháng 3/2009, theo báo cáo đánh giá thường niên về thương mại toàn cầu của Tổ chức thương mại thế giới WTO mức suy giảm được dự báo sẽ cao nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ 2. Hoạt động thương mại toàn cầu giảm đáng kể từ tháng 9/2008. Tính chung cả năm 2008, xuất khẩu vẫn tăng 2%, nhưng thấp hơn nhiều tốc độ tăng trưởng 6% của năm 2007. Hoạt động sản xuất ngưng trệ vì suy thoái toàn cầu có thể khiến thương mại toàn câu năm 2009 giảm tới mức 10% (mức giảm lớn nhất trong 7 thập kỷ qua). Hệ thống tài chính thế giới lung lay Khởi đầu của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là sự đổ vỡ của thị trường tín dụng dưới chuẩn của Mỹ vào tháng 7/2007. Năm 2007 có 3 ngân hàng tại Mỹ sụp đổ đến 2008 con số này đã là 25 và gần hết nửa đầu năm 2009, hơn 40 ngân hàng tiếp tục “ra đi”. Đặc biệt sự sụp đổ điêu đứng của các tên tuổi lớn như Lehman Brothers, Washington Mutual Inc… hay AIG, Fannie Mae, Freddie Mac, Northern Rock… khiến cả thể giới chao đảo theo. Toàn cầu hoá giúp liên thông thị trường tài chính thế giới, nhưng cũng chính toàn cầu hoá cũng khiến sự ảnh hưởn lan truyền trong hệ thống tài chính thế giới thêm nghiêm trọng. Không chỉ các định chế tài chính ở Mỹ gặp khó khăn, mà hệ thống tài chính toàn cầu đứng trước nguy cơ sụp đổ khi cơn bão tràn qua châu Âu, châu Mỹ-latinh, Châu Á… Tăng trưởng kinh tế Biểu đồ 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của Hoa Kỳ      Nguồn: Trading Economics. Com; Bureau of Economic Analysis Theo như báo cáo của phòng Thương mại Mỹ, GDP của nước này đã sụt giảm tới mức 6.1%/năm đặc biệt 3 tháng cuối năm 2008 mức độ sụt giảm lên cao kỷ lục tới 6.3% chính điều này đã làm cho cuộc khủng hoảng trở nên tồi tệ nhất trong vòng 50 năm trở lại đây. Khi cuộc khủng hoảng diễn ra, các nhà kinh tế dự đoán rằng mức sụt giảm GDP vào khoảng 4.7% tuy nhiên tỷ lệ thực tế đã vượt xa mức dự đoán và trong vòng 40 năm trở lại đây lần đầu tiên GDP sụt giảm nghiêm trọng trong liên tiếp 3 quý. Richard Berner nhà kinh tế hàng đầu thuộc ngân hàng Morgan Stanley ở New York cho rằng kinh tế Mỹ chắc chắn sẽ hồi phục một cách chậm chạp và yếu ớt. Các chính sách được đưa ra để cứu vớt nền kinh tế sẽ phải mất thời gian mới có hiệu lực cùng với đó là những tác động trái chiều cản trở nền kinh tế phát triển Thị trường chứng khoán sụt giảm nghiêm trọng Năm 2008, TTCK Mỹ lập kỷ lục về mức đáy mới, những lần giảm suy giảm chưa từng có trong lịch sử. Chỉ số công nghiệp Down Jones mất giá 33.84% và đây là mức giảm tồi tệ nhất kể từ năm 1931 (khi chỉ số này sụt giảm 52.6%). Chỉ số tổng hợp Nasdaq cũng giảm tới 40.54% trong năm 2008 (năm tồi tệ nhất kể từ khi chỉ số này ra đời năm 1971). số S&P 500 giảm 38.49% và cũng là giảm mạnh nhất trong 77 năm qua. Biểu đồ 3: Chỉ số Down Jones  Nguồn: Bloomberg Biểu đồ 4: Chỉ số S&P 500  Nguồn: Bloomberg Biều đồ 5: Chỉ số NASDAQ Composite  Nguồn: Nasdaq.com 3.3 Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao kỷ lục Vẫn vượt ra ngoài những dự đoán ban đầu tỷ lệ thất nghiệptăng cao đã gây ra nhiếu áp lực cho Fed trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhiều doanh nghiệp không đủ sức chống đỡ lại vòng xoáy của khủng hoảng nên đã buộc phải cắt giảm nhân sự và tạo nên làn song thất nghiệp lớn. Theo báo cáo công bố ngày 4/4/2009 của Chính phủ Mỹ, trong tháng 3/2009, 80.000 việc làm đã bị cắt giảm và đây là mức cắt giảm lớn nhất trong vòng 5 năm qua. Đến cuối 6/2009, số người thất nghiệp ở Mỹ đã lên tới 627.000 người. Tháng 2/2010 mức thất nghiệp là 9.6%. Sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp khiến cho nhu cầu tìm kiếm công việc khác trong xã hội của người lao động tăng cao. Những khó khăn về vấn đề việc làm đã ảnh hưởng đến khu vực tiêu dùng của dân chúng khi mà hoạt động tiêu dùng chiếm đến 2/3 hoạt động kinh tế Mỹ . Biểu đồ 6: Tỷ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ  Nguồn: TradingEconomics.com; Bureau of Labor Statistics 3.4 Cán cân thương mại Trong một thời gian dài, cán cân thương mại của Mỹ bị thâm hụt nặng nề, đặc biệt là trong thời kỳ khủng hoảng. Nguyên nhân là do đồng đô la mạnh trong thời kỳ khủng hoảng so với hầu hết các đồng tiền trên thế giới làm cho giá cả hàng hoá của Mỹ tại nước ngoài đắt hơn và xuất khẩu giảm. Nguyên nhân của sự tăng giá của đồng đô la sẽ được trình bày trong mục biến động của tỷ giá hối đoái. Biểu đồ 7: Tình trạng thâm hụt cán cân thương mại của Hoa Kỳ  Nguồn: US Department of Labor Bureau of Labor Statistics Bảng 1: Cán cân vãng lai của Mỹ Year  Bil of USD  Year  Bil of USD   1981  4,8  1995  -114   1982  -12  1996  -125   1983  -44  1997  -141   1984  -99  1998  -215   1985  -124  1999  -302   1986  -147  2000  -417   1987  -161  2001  -398   1988  -121  2002  -459   1989  -100  2003  -522   1990  -79  2004  -631   1991  2,9  2005  -749   1992  -52  2006  -804   1993  -85  2007  -727   1994  -122  2008  -706    Nguồn : IMF data Mapper 3.5 Tỷ giá hối đoái Nền kinh tế thế giới lâm vào suy thoái với hàng loạt tin tức ảm đạm về tình hình tăng trưởng kinh tế của hàng hoá các nước từ Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản Trung Quốc kéo theo sự sụt giảm nghiêm trọng của thị trường hàng hoá như vàng, dầu mỏ và chứng khoán. Trong bối cảnh hàng hoá sụt giảm nghiêm