Kiểm toán vốn bằng tiền do công ty kiểm toán AAC thực hiện

Chương I: Cơ sở lý luận về kiểm toán vốn bằng tiền 1. Khái quát về kế toán vốn bằng tiền 1.1 Khái nệm Khái niệm : Vốn bằng tiền là những tài sản có thể dùng để dự trữ, tích luỹ và làm phương tiện để thanh toán như: tiền mặt , tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển. Tiền mặt tại quỹ bao gồm cả nguyên tệ và ngoại tệ hiện có tại quỹ của đơn vị. Tiền gửi ngân hàng bao gồm tiền nguyên tệ và ngoại tệ được gửi tại ngân hàng. Tiền đang chuyển là tiền đang trong quá trình lưu thông từ ngân hàng về quỹ tiền, từ quỹ chuyển đến ngân hàng. 1.2. Những quy định của kế toán vốn bằng tiền Kế toán vốn bằng tiền phải căn cứ vào chế độ quản lý tiền tệ của Nhà nước và tôn trọng những quy định sau: Kế toán vốn bằng tiền phải sử dụng một đơn vị tiền tệ thống nhất là đồng Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể sử dụng ngoại tệ để ghi sổ kế toán nhưng phải được Bộ Tài chính chấp nhận bằng văn bản. Ở doanh nghiệp có sử dụng ngoại tệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo tỷ giá bình quân liên ngân hàng do ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ, hoặc tỷ giá giao dịch thực tế của nghiệp vụ kinh tế phát sinh để ghi sổ kế toán. Đối với vàng bạc, đá quý, kim khí quý được tính ra tiền theo giá thực tế (giá hoá đơn, hoặc giá thanh toán) để ghi sổ kế toán và theo dõi số lượng, trọng lượng, quy cách phẩm chất và giá trị của từng thứ, từng loại. 2. Kiểm toán khoản mục vốn bằng tiền 2.1. Ý nghĩa và mục tiêu kiểm toán vốn bằng tiền 2.1.1. Ý nghĩa Vốn bằng tiền là một khoản mục trong tài sản lưu động, được trình bày trước tiên trên bảng cân đối kế toán, và là căn để đánh giá khả năng thanh toán của một doanh nghiệp. Do đó, khoản mục này thường được trình bày sai lệch. Khi số dư của tài khoản này quá thấp sẽ cho thấy đơn vị sẽ gặp khó khăn trong thanh toán. Ngược lại, khi số dư quá cao sẽ cho thấy sự quản lý vốn bằng tiền kém hiệu quả. Kiểm toán các tài khoản tiền có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát hiện và ngăn ngừa những gian lận, sai sót hoặc lạm dụng quá trình quản lý, hạch toán các tài khoản tiền. Đồng thời các tài khoản tiền liên quan đến rất nhiều các chu kỳ kinh doanh khác, như: chu kỳ mua vào và thanh toán; chu kỳ bán hàng và thu tiền; chu kỳ tiền lương và nhân sự. Vì vậy việc kiểm toán các tài khoản tiền cũng được đặt trong mối quan hệ với kiểm toán các khoản mục liên quan. Việc sai sót, gian lận tiền dĩ nhiên sẽ dẫn đến những sai sót ở các chu kỳ liên quan. Hoặc ngược lại, những sai sót, gian lận ở các khoản mục liên quan, có thể dẫn đến sai sót và gian lận ở các tài khoản tiền. 2.1.2.Mục tiêu kiểm toán khoản mục vốn bằng tiền Việc xác định hệ thống mục tiêu kiểm toán có vai trò rất quan trọng. Nó giúp cho kiểm toán viên thực hiện đúng hướng và có hiệu quả. Là một loại hình kiểm toán, kiểm toán báo cáo tài chính có mục tiêu tổng quát là thu thập bằng chứng để đưa ra kết luận trình bày trên một báo cáo tài chính thích hợp. Mục tiêu tổng quát này đã được xác định trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 - mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính, khoản 11 xác định: “Mục tiêu kiểm toán báo cáo tài chính là giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành, có tuân thủ pháp luật liên quan, có phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính trên các khía cạnh trọng yếu không?” Đây là mục tiêu cơ bản của cuộc kiểm toán báo cáo tài chính. Mục tiêu tổng quát này được cụ thể hoá thành các mục tiêu kiểm toán chung như: tính hợp lý chung, tính hiện hữu, tính đầy đủ, tính chính xác số học, phân loại và trình bày, quyền và nghĩa vụ, đánh giá và phân bổ. Trong quá trình thực hiện kiểm toán, ngoài việc phải xác định chính xác các mục tiêu cụ thể, Kiểm toán viên còn phải xác định chính xác các mục tiêu đó vào từng phần hành kiểm toán để xây dựng hệ thống mục tiêu đặc thù. Việc xác định mục tiêu kiểm toán đặc thù của mỗi phần hành, khoản mục cụ thể là một công việc quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc kiểm toán, đồng thời làm giảm rủi ro kiểm toán đến mức thấp nhất. Trên cơ sở mục tiêu kiểm toán đặc thù cho từng khoản mục, Kiểm toán viên tiến hành các thủ tục để khẳng định mục tiêu kiểm toán đó có được đơn vị tuân thủ hay không? Từ đó tìm ra các sai phạm

doc49 trang | Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 7189 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kiểm toán vốn bằng tiền do công ty kiểm toán AAC thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I: Cơ sở lý luận về kiểm toán vốn bằng tiền 1. Khái quát về kế toán vốn bằng tiền 1.1 Khái nệm Khái niệm : Vốn bằng tiền là những tài sản có thể dùng để dự trữ, tích luỹ và làm phương tiện để thanh toán như: tiền mặt , tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển. Tiền mặt tại quỹ bao gồm cả nguyên tệ và ngoại tệ hiện có tại quỹ của đơn vị. Tiền gửi ngân hàng bao gồm tiền nguyên tệ và ngoại tệ được gửi tại ngân hàng. Tiền đang chuyển là tiền đang trong quá trình lưu thông từ ngân hàng về quỹ tiền, từ quỹ chuyển đến ngân hàng. 1.2. Những quy định của kế toán vốn bằng tiền Kế toán vốn bằng tiền phải căn cứ vào chế độ quản lý tiền tệ của Nhà nước và tôn trọng những quy định sau: Kế toán vốn bằng tiền phải sử dụng một đơn vị tiền tệ thống nhất là đồng Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể sử dụng ngoại tệ để ghi sổ kế toán nhưng phải được Bộ Tài chính chấp nhận bằng văn bản. Ở doanh nghiệp có sử dụng ngoại tệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo tỷ giá bình quân liên ngân hàng do ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ, hoặc tỷ giá giao dịch thực tế của nghiệp vụ kinh tế phát sinh để ghi sổ kế toán. Đối với vàng bạc, đá quý, kim khí quý được tính ra tiền theo giá thực tế (giá hoá đơn, hoặc giá thanh toán) để ghi sổ kế toán và theo dõi số lượng, trọng lượng, quy cách phẩm chất và giá trị của từng thứ, từng loại. 2. Kiểm toán khoản mục vốn bằng tiền 2.1. Ý nghĩa và mục tiêu kiểm toán vốn bằng tiền 2.1.1. Ý nghĩa Vốn bằng tiền là một khoản mục trong tài sản lưu động, được trình bày trước tiên trên bảng cân đối kế toán, và là căn để đánh giá khả năng thanh toán của một doanh nghiệp. Do đó, khoản mục này thường được trình bày sai lệch. Khi số dư của tài khoản này quá thấp sẽ cho thấy đơn vị sẽ gặp khó khăn trong thanh toán. Ngược lại, khi số dư quá cao sẽ cho thấy sự quản lý vốn bằng tiền kém hiệu quả. Kiểm toán các tài khoản tiền có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát hiện và ngăn ngừa những gian lận, sai sót hoặc lạm dụng quá trình quản lý, hạch toán các tài khoản tiền. Đồng thời các tài khoản tiền liên quan đến rất nhiều các chu kỳ kinh doanh khác, như: chu kỳ mua vào và thanh toán; chu kỳ bán hàng và thu tiền; chu kỳ tiền lương và nhân sự... Vì vậy việc kiểm toán các tài khoản tiền cũng được đặt trong mối quan hệ với kiểm toán các khoản mục liên quan. Việc sai sót, gian lận tiền dĩ nhiên sẽ dẫn đến những sai sót ở các chu kỳ liên quan. Hoặc ngược lại, những sai sót, gian lận ở các khoản mục liên quan, có thể dẫn đến sai sót và gian lận ở các tài khoản tiền. Mục tiêu kiểm toán khoản mục vốn bằng tiền Việc xác định hệ thống mục tiêu kiểm toán có vai trò rất quan trọng. Nó giúp cho kiểm toán viên thực hiện đúng hướng và có hiệu quả. Là một loại hình kiểm toán, kiểm toán báo cáo tài chính có mục tiêu tổng quát là thu thập bằng chứng để đưa ra kết luận trình bày trên một báo cáo tài chính thích hợp. Mục tiêu tổng quát này đã được xác định trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 - mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính, khoản 11 xác định: “Mục tiêu kiểm toán báo cáo tài chính là giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành, có tuân thủ pháp luật liên quan, có phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính trên các khía cạnh trọng yếu không?” Đây là mục tiêu cơ bản của cuộc kiểm toán báo cáo tài chính. Mục tiêu tổng quát này được cụ thể hoá thành các mục tiêu kiểm toán chung như: tính hợp lý chung, tính hiện hữu, tính đầy đủ, tính chính xác số học, phân loại và trình bày, quyền và nghĩa vụ, đánh giá và phân bổ. Trong quá trình thực hiện kiểm toán, ngoài việc phải xác định chính xác các mục tiêu cụ thể, Kiểm toán viên còn phải xác định chính xác các mục tiêu đó vào từng phần hành kiểm toán để xây dựng hệ thống mục tiêu đặc thù. Việc xác định mục tiêu kiểm toán đặc thù của mỗi phần hành, khoản mục cụ thể là một công việc quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc kiểm toán, đồng thời làm giảm rủi ro kiểm toán đến mức thấp nhất. Trên cơ sở mục tiêu kiểm toán đặc thù cho từng khoản mục, Kiểm toán viên tiến hành các thủ tục để khẳng định mục tiêu kiểm toán đó có được đơn vị tuân thủ hay không? Từ đó tìm ra các sai phạm. Mục tiêu kiểm toán của khoản mục vốn bằng tiền nhằm xác định các vấn đề chủ yếu sau: Tính hiện hữu của kiểm soát nội bộ đối với vốn bằng tiền: Tức là xem xét đánh giá sự hiện diện, tính liên tục và tính hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ đối với vốn bằng tiền có được đảm bảo không? Sự đảm bảo về mức độ trung thực, hợp lý của các khoản mục vốn bằng tiền trên báo cáo tài chính, thể hiện trên các khía cạnh sau: Mục tiêu hiện hữu: xác nhận số dư các khoản tiền tồn tại vào ngày lập bảng cân đối kế toán là hợp lý. Vì số dư này liên quan đến khả năng thanh toán nên doanh nghiệp khai báo tiền vượt quá số dư thực tế để che dấu tình hình tài chính thực hoặc thất thoát tài sản hoặc tiền bị chiếm dụng nên số thực tế nhỏ hơn số sổ sách. Mục tiêu này liên quan đến mục tiêu hiện hữu của khoản tiền và được coi là mục tiêu quan trọng trong kiểm toán khoản mục này. Mục tiêu về sự đầy đủ: Xác nhận tất cả các nghiệp vụ liên quan đến tiền là có thật và đều được ghi nhận. Đây là mục tiêu quan trọng nhất vì thế Kiểm toán viên cần chú trọng đến mục tiêu này để đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán. Mục tiêu quyền sở hữu: Xác nhận doanh nghiệp có quyền sở hữu về mặt pháp lý đối với các khoản tiền. Đây là mục tiêu Kiểm toán viên xác định nhưng nó không giữ vai trò quan trọng trong việc kiểm toán khoản mục vốn bằng tiền nên Kiểm toán viên có thể bỏ qua mục tiêu này trong quá trình thực hiện kiểm toán để tránh lãng phí thời gian. Mục tiêu đánh giá: Số dư của tiền phải được ghi theo đúng giá trị có thể thực hiện được. Mục tiêu này áp dụng cho những tài khoản ngoại tệ, nếu doanh nghiệp có ngoại tệ và với giá trị lớn thì mục tiêu này khá quan trọng. Mục tiêu ghi chép chính xác: Sổ chi tiết được tổng cộng đúng và phải phù hợp với tài khoản tổng hợp trên sổ cái. Mục tiêu trình bày và công bố: số tiền được phân loại và trình bày thích hợp trên báo cáo tài chính. Các trường hợp tiền bị hạn chế sử dụng đều được khai báo đầy đủ. 2.2. Quy trình kiểm toán vốn bằng tiền 2.2.1. Lập kế hoạch kế toán khoản mục vốn bằng tiền Sau khi đã xác định mục tiêu của cuộc kiểm toán cho từng khoản mục, Kiểm toán viên tiến hành thu thập bằng chứng cho cuộc kiểm toán. Để thực hiện công việc này, Kiểm toán viên cần xây dựng một quy trình kiểm toán cụ thể cho cuộc kiểm toán để có thể đạt được kết quả tốt. Kiểm toán khoản mục vốn bằng tiền được tiến hành qua ba giai đoạn: lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán và kết thúc kiểm toán. Bước1: Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán khoản mục vốn bằng tiền Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán nhằm xác định cơ sở pháp lý, các mục tiêu, phạm vi kiểm toán cùng các điều kiện về nhân lực, vật lực cho cuộc kiểm toán. Khi tiếp nhận thư mời kiểm toán, công ty kiểm toán cần đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán thông qua xem xét kiểm soát nội bộ, tính liêm chính của ban quản lý và liên lạc với Kiểm toán viên tiền nhiệm. Nếu chấp nhận thư mời kiểm toán, công ty kiểm toán sẽ lựa chọn nhân viên kiểm toán xuống đơn vị theo yêu cầu của khách hàng. Nhóm trưởng phân công công việc cho các thành viên trong nhóm, Kiểm toán viên được phân công kiểm toán khoản mục vốn bằng tiền phải có trình độ, năng lực chuyên môn về vốn bằng tiền và hiểu biết về ngành nghề kinh doanh của khách hàng. Sau khi được phân công kiểm toán khoản mục vốn bằng tiền, Kiểm toán viên phải xác định mục tiêu kiểm toán khoản mục vốn bằng tiền. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện cũng cần tránh thay đổi nhân viên nhằm đảm bảo hiệu quả cũng như chất lượng công việc. Đặc biệt, việc kiểm toán cho một khách hàng trong nhiều năm có thể giúp cho Kiểm toán viên tích luỹ được nhiều kinh nghiệm cũng như có được hiểu biết sâu sắc về ngành nghề kinh doanh của khách hàng. Bước 2: Thu thập thông tin cơ sở Đây là một giai đoạn quan trọng công việc lập kế hoạch kiểm toán tổng quát. Giai đoạn này sẽ cung cấp những thông tin cơ bản làm nền tảng cho các công việc tiếp theo. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300 - lập kế hoạch kiểm toán đã xác định rằng Kiểm toán viên cần thu thập hiểu biết về ngành nghề kinh doanh của khách hàng, tìm hiểu về hệ thống kế toán, hệ thống kiểm soát nội bộ và các bên liên quan để đánh giá rủi ro và lên kế hoạch kiểm toán. Công việc này rất cần thiết cho việc đảm bảo tính thận trọng nghề ngiệp đúng mức của Kiểm toán viên. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (IAS) 310 chỉ rõ: “Để thực hiện công tác kiểm toán tài chính, chuyên gia kiểm toán phải hiểu biết đầy đủ về hoạt động đơn vị được kiểm toán, để xác định và hiểu được các sự kiện, nghiệp vụ và cách làm việc của đơn vị, mà theo đánh giá của Kiểm toán viên có thể có một tác động quan trọng đến báo cáo tài chính, đến việc kiểm toán hoặc đến báo cáo kiểm toán”. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 310: hiểu biết về tình hình kinh doanh, đoạn 2 đã quy định: “Để thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, Kiểm toán viên phải nắm bắt được tình hình kinh doanh của khách hàng để có thể nhận thức và xác định sự kiện, nghiệp vụ và thực tiễn hoạt động mà theo đánh giá Kiểm toán viên có thể ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, đến việc kiểm tra của Kiểm toán viên hoặc đến báo cáo kiểm toán”. Đối với phần hành kiểm toán vốn bằng tiền, Kiểm toán viên phải dựa vào các căn cứ chủ yếu sau: Chính sách chế độ liên quan đến quản lý vốn bằng tiền, như quy định về mở tài khoản tiền gửi ngân hàng, chế độ thanh toán không dùng tiền mặt, quy định về phát hành séc về quản lý và hạch toán ngoại tệ. Các quy định của hội đồng quản trị (hay ban giám đốc) đơn vị về trách nhiệm và thủ tục phê chuẩn, xét duyệt chi tiêu vốn bằng tiền, quy định về phân công trách nhiệm giữ quỹ, kiểm kê, đối chiếu… Báo cáo tài chính. Các chứng từ, tài liệu thu chi, chuyển tiền. Sổ kế toán các tài khoản vốn bằng tiền (sổ tổng hợp, sổ chi tiết và các chứng từ, tài liệu, sổ kế toán khác có liên quan). Bước 3: Thực hiện thủ tục phân tích đối với khoản mục vốn bằng tiền Thực hiện thủ tục phân tích là việc Kiểm toán viên phân tích các số liệu, thông tin, các tỷ suất quan trọng, qua đó tìm ra xu hướng biến động và tìm ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin có liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến. Các thủ tục phân tích thường được thực hiện ở cả 3 bước là lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán, kết thúc kiểm toán. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, các thủ tục phân tích giúp Kiểm toán viên nhận diện các vấn đề quan trọng cần trong quá trình kiểm toán, xác định được rủi ro tiềm tàng liên quan đến các khoản mục. Thủ tục phân tích ít được sử dụng trong kiểm toán khoản mục vốn bằng tiền. Tuy nhiên trong một số trường hợp, thủ tục phân tích có thể vẫn hữu ích. Như sử dụng tỉ lệ số dư tài khoản tiền, các tài khoản lưu động. Tỷ lệ này có thể đem so với số dự toán về ngân sách hay so với tỷ lệ của năm trước. Nếu Kiểm toán viên có thể sử dụng tỷ lệ này, thủ tục phân tích được sử dụng để thu thập bằng chứng về những mục tiêu kiểm toán hiện hữu, đầy đủ và đánh giá, thủ tục này làm giảm số lượng bằng chứng của các thủ tục cơ bản khác nếu số liệu phân tích phù hợp với dự đoán của Kiểm toán viên. Bước 4: Tìm hiểu sơ bộ về hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng đối với vốn bằng tiền Đây là công việc hết sức quan trọng trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Việc nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng và đánh giá rủi ro kiểm soát đã được quy định trong chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ, đã nêu: “Kiểm toán viên phải có hiểu biết đầy đủ về hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ để đánh giá thái độ, mức độ quan tâm và sự can thiệp của các thành viên trong hội đồng quản trị và ban giám đốc với kiểm soát nội bộ và đánh giá khả năng của kiểm soát nội bộ của khách hàng trong việc ngăn ngừa, phát hiện các sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính”. Các nguyên tắc kiểm soát nội bộ đối với vốn bằng tiền Nhân viên phải có đủ khả năng và liêm chính: Vì không thể có kiểm soát nội bộ vững mạnh khi nhân viên không đủ khả năng, hoặc không liêm chính và cố tình gian lận. Áp dụng nguyên tắc phân chia trách nhiệm: nghĩa là không cho bất cứ cá nhân nào thực hiện các chức năng từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc nghiệp vụ. Nói cách khác, mỗi cá nhân chỉ được phân công một nhiệm vụ trong quá trình xử lý nghiệp vụ, bao gồm các chức năng xét duyệt nghiệp vụ; ghi chép vào sổ kế toán; bảo quản tài sản; kiểm kê, đối chiếu các số liệu ghi trên sổ sách kế toán với số liệu thực tế. Tập trung đầu mối thu: nên hạn chế tối đa số người nắm giữ tiền, nghĩa là chỉ cho phép một số ít nhân viên được thu tiền. Điều này làm giảm khả năng thất thoát số tiền đã thu. Ghi chép kịp thời và đầy đủ số thu: Phân công cho một nhân viên ghi nhận kịp thời các nghiệp vụ thu tiền ngay vào thời điểm phát sinh. Hàng ngày đối chiếu số liệu giữa thủ quỹ và kế toán, nộp ngay số thu cho ngân hàng. Để tăng cường kiểm soát, trước khi thủ quỹ nộp tiền vào ngân hàng, có thể phân công cho một nhân viên độc lập so sánh giữa tổng số thu trên chứng từ, số thu trên chứng từ với số thu đã ghi vào sổ sách kế toán. Có biện pháp khuyến khích người nộp tiền yêu cầu cung cấp biên lai hoặc phiếu thu. Thực hiện tối đa những khoản chi tiền bằng tiền gửi ngân hàng, hạn chế chi tiền mặt. Cuối mỗi tháng thực hiện đối chiếu giữa số liệu ghi trên sổ sách với thực tế, cụ thể là đối chiếu giữa: Sổ cái và sổ phụ về số dư và số phát sinh của tài khoản tiền gửi ngân hàng. Tài khoản tiền mặt với biên bản kiểm kê quỹ. Để đạt được sự hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ, Kiểm toán viên tiến hành khảo sát thông qua các hình thức cơ bản sau: phỏng vấn, kiểm tra chứng từ, sổ sách, báo cáo, khảo sát thực tế, lấy xác nhận… căn cứ vào ước tính về tính hiện hữu của kiểm soát nội bộ, Kiểm toán viên sẽ đánh giá rủi ro kiểm soát theo những cách thức khác nhau theo tỷ lệ, theo mức độ… Đối với doanh nghiệp nhỏ, Kiểm toán viên thường soạn thảo tường thuật, còn với doanh nghiệp lớn, họ thường dùng lưu đồ để mô tả cơ cấu kiểm soát nội bộ hiện hành. Để thiết lập, Kiểm toán viên thường dựa vào sự quan sát và sử dụng bảng câu hỏi về kiểm soát nội bộ. Bảng 1: Bảng câu hỏi về kiểm soát nội bộ tiền mặt và tiền gửi ngân hàng có thể như sau: Câu hỏi  Trả lời  Ghi chú    Có  Không  Yếu kém       Quan trọng  Thứ yếu    1. Khi phát sinh nghiệp vụ thu chi tiền có được phản ảnh đầy đủ vào các sổ sách liên quan? 2. Việc xét duyệt thu chi có giới hạn ở một số người mà họ không đảm nhận việc ghi chép sổ sách kế toán hay lưu giữ chúng? 3. Việc ghi chép, kiểm tra và lưu giữ sổ sách trong quá trình hạch toán vốn bằng tiền có được thực hiện độc lập bởi các nhân viên chuyên trách không? 4. Kế toán quỹ và thủ quỹ có độc lập với nhau không? 5. Nơi thực hiện quá trình thu chi và quản lý cất giữ tiền có đủ rộng, ngăn cách khỏi văn phòng? 6. Việc thu tiền có tổ chức việc thu tại công ty? 7. Công ty có sử dụng két sắt để bảo vệ tiền mặt chưa? 8. Mã số của két sắt có được giữ bí mật theo quy định không? 9. Quy trình xét duyệt các khoản chi tiền mặt có được sự phê chuẩn của kế toán trưởng và thủ trưởng đơn vị không? 10. Biên lai thu tiền hoặc phiếu bán hàng có được quy định đánh số trước? 11. Các khoản tiền mặt thu về có nộp vào ngân hàng đầy đủ và kịp thời không? 12. Những khoản thu chi lớn có được thực hiện qua ngân hàng? 13. Tiền gửi ngân hàng có được mở sổ chi tiết là tiền Việt nam, ngoại tệ? 14. Hàng tháng quá trình tổng hợp đối chiếu cân chỉnh về thu chi tiền gửi ngân hàng với những ngân hàng liên quan có được thực hiện không? Và cuối năm có sự xác nhận của ngân hàng?        Bước 5: Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro đối với khoản mục vốn bằng tiền Đánh giá tính trọng yếu: Trọng yếu là khái niệm chỉ tính hệ trọng của phần nội dung cơ bản của kiểm toán có ảnh hưởng tới tính đúng đắn của việc nhận thức, đánh giá đối tượng kiểm toán và việc sử dụng thông tin đã đánh giá đó để ra quyết định quản lý. Để đánh giá mức trọng yếu, nhân viên kiểm toán cần thực hiện các bước sau: Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu: Là sai số tối đa mà Kiểm toán viên tin rằng tại mức đó các báo cáo tài chính có chứa đựng sai sót nhưng chưa ảnh hưởng tới quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Việc ước tính này đòi hỏi chủ yếu là kinh nghiệm và trình độ của Kiểm toán viên. Phân bố ước tính ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục: các khoản mục vốn bằng tiền sẽ lần lược phân phối tính ban đầu về tính trọng yếu. Đánh giá rủi ro: Trong khi lập kế hoạch kiểm toán, Kiểm toán viên đánh giá rủi ro kiểm toán đối với từng khoản mục trong báo cáo tài chính. Kiểm toán viên thường quan tâm các loại rủi ro sau: Rủi ro tiềm tàng (IR): là mức rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trong yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ. Do bản chất của vốn bằng tiền nên rủi ro tiềm tàng thường có nguy cơ xảy ra rất cao đối với khoản mục này. Rủi ro tiềm tàng của khoản mục vốn bằng tiền phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như: bản chất hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, tính tung thực của ban giám đốc, bản chất nghiệp vụ kinh tế phát sinh, kết quả các lần kiểm toán trước. Rủi ro kiểm soát (CR): là khả năng xảy ra các sai phạm trọng yếu do hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị khách hàng không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả, do đó đã không phát hiện và ngăn chặn các sai phạm này. Đối với khoản mục vốn bằng tiền, kiểm toán sẽ tiến hành đánh giá lại rủi ro kiểm soát của từng sơ sở dẫn liệu. Công việc này chủ yếu là để nhận diện các điểm yếu, điểm mạnh của hệ thống kiểm soát nội bộ, nhằm điều chỉnh chương trình kiểm toán cho phù hợp. Nếu Kiểm toán viên đánh giá rủi ro kiểm soát là thấp, thì các thử nghiệm cuối năm có thể chỉ hạn chế ở mức đối chiếu với sổ phụ ngân hàng và so sánh số dư này với xác nhận của ngân hàng. Nếu đánh giá mức độ rủi ro trong kiểm soát là trung bình, thì có thể áp dụng các thủ tục trên và bổ sung thêm một số thủ tục nhằm phát hiện gian lận. Nếu đánh giá rủi ro kiểm soát là đáng kể hay tối đa thì kiểm toán cần mở rộng các thủ tục kiểm tra chi tiết các khoản mục. Rủi ro phát hiện (DR): là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp lại mà trong quá trình kiểm toán, Kiểm toán viên không phát hiện được. Rủi ro kiểm toán (AR): AR = IR x CR x DR DR = AR / (IR x CR) Với mức rủi ro kiểm toán có thể chấp nhận được và các rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát xác định Kiểm toán viên sẽ tính ra rủi ro phát hiện và dựa vào đó xác định số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập. Bước 6: Lập kế hoạch kiểm toán chung và thiết kế chương trình kiểm toán Trên cơ sở hiểu biết về tình hình kinh doanh, nghĩa vụ pháp lý cùng hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng, Kiểm toán viên tiến hành lập kế hoạch kiểm toán chung và thiết kế chương trình kiểm toán cho khoản mục vốn bằng tiền. 2.2.2. Thực hiện kiểm toán khoản mục vốn bằng tiền Thực hiện kế hoạch kiểm toán là thực hiện các công việc đã lập ra trong kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán. Mục đích của giai đoạn này là thu thập bằng chứng đầy đủ, tin cậy làm cơ sở cho việc đưa ra ý kiến của Kiểm toán viên trên báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Thực chất của công việc này là thu thập các bằng chứng để chứng minh đánh giá rủi ro kiểm soát và tính chính xác của nghiệp vụ phát sinh về vốn bằng tiền. Để đạt được mục đích trên, Kiểm toán viên phải thực hiện ba bước công việc: Thực hiện thủ tục kiểm soát, Thực hiện các thủ tục phân tích, Thực hiện các thủ t