Kỹ thuật elisa trong chẩn đoán virus gumboro

Chăn nuôi gà là nghềsản xuất truyền thống lâu đời và chiếm vịtrí quan trọng thứhai (sau chăn nuôi lợn) trong toàn ngành chăn nuôi của Việt Nam. Hằng năm, cung cấp khoảng 350-450 ngàn tấn thịt và hơn 2,5-3,5 tỷ quảtrứng. Tuy nhiên, chăn nuôi gà của nuớc ta vẫn còn trong tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán, lạc hậu, năng suất thấp, dịch bệnh nhiều, sản phẩm hàng hoá còn nhỏbé. Bình quân sản lượng thịt xẻ, trứng/nguời chỉ đạt 4,5 - 5,4kg/nguời/năm và 35 trứng/nguời/năm. Trong vài thập kỷqua, mặc dù công tác chọn giống đã cải thiện một cách đáng kểthành tích sản xuất, chăn nuôi gà như: tăng trưởng nhanh hơn, hiệu quảsửdụng thức ăn cao hơn, khảnăng sản xuất thịt tốt hơn, tỷlệthịt ngực cao hơn nhưng sựtăng nhanh vềnăng suất sản xuất đã không đi cùng với việc tăng khảnăng miễn dịch, dẫn đến gà bịmắc nhiều bệnh vềrối loạn chuyển hóa và nhiều bệnh truyền nhiễm, tỷlệchết tăng cao. Trong đó, có thểkể đến Infectious bursal disease virus (IBDV), một lọai virus thuộc họBirnaviridae, serotype 1, chúng có khảnăng phá huỷtúi Fabracius, do đó làm giảm khảnăng miễn dịch của gà. Nhiều báo cáo khoa học đã cho biết: gà ởgiai đọan từ1-12 tuần tuổi, rõ nhất là ởgiai đọan 3-6 tuần tuổi đều có khảnăng mắc bệnh. Gà nhỏhơn 3 tuần tuổi mắc bệnh không biểu hiện triệu chứng nhưng sẽlàm gà suy giảm miễn dịch. Tỷlệmắc bệnh là 100%, tỷlệchết từ10-50% hoặc cao hơn nếu kết hợp với các bệnh khác. Do tính chất gây bệnh đặc trưng của virus là lây lan rất nhanh và không thểkiểm soát bằng hóa chất hay bất kỳphương thuốc nào mà chỉcó thểkhắc phục bằng biện pháp phòng trừ. Vì vậy thiệt hại do IBDV gây ra là rất đáng kể đối với chăn nuôi gà của các nước lớn trên thếgiới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Cùng với sựphát triền vượt bậc của công nghệsinh học, các kỹthuật phân tửtrong chẩn đóan bệnh ngày nay có thểgiúp ta chẩn đóan nhanh, sớm một cách chính xác nhiều bệnh do virus. Khởi phát từcác vấn đềnêu trên, trong giới hạn của bài seminar này em xin thực hiện nội dung “ Kỹthuật ELISA trong chẩn đoán virus Gumboro

pdf22 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2444 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kỹ thuật elisa trong chẩn đoán virus gumboro, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KỸ THUẬT ELISA TRONG CHẨN ĐOÁN VIRUS GUMBORO NGUYỄN TRẦN LÂM THANH 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TPHCM BỘ MÔN CÔNG NGHỆ SINH HỌC LỚP: DH06SH SEMINAR KỸ THUẬT ELISA TRONG CHẨN ĐOÁN VIRUS GUMBORO Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hải. Nguyễn Trần Lâm Thanh. MSSV: 06126131 Thành Phố Hồ Chí Minh Tháng 10/2009 KỸ THUẬT ELISA TRONG CHẨN ĐOÁN VIRUS GUMBORO NGUYỄN TRẦN LÂM THANH 2 Chương 1 ĐẶT VẤN ĐỀ. Chăn nuôi gà là nghề sản xuất truyền thống lâu đời và chiếm vị trí quan trọng thứ hai (sau chăn nuôi lợn) trong toàn ngành chăn nuôi của Việt Nam. Hằng năm, cung cấp khoảng 350-450 ngàn tấn thịt và hơn 2,5-3,5 tỷ quả trứng. Tuy nhiên, chăn nuôi gà của nuớc ta vẫn còn trong tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán, lạc hậu, năng suất thấp, dịch bệnh nhiều, sản phẩm hàng hoá còn nhỏ bé. Bình quân sản lượng thịt xẻ, trứng/nguời chỉ đạt 4,5 - 5,4kg/nguời/năm và 35 trứng/nguời/năm. Trong vài thập kỷ qua, mặc dù công tác chọn giống đã cải thiện một cách đáng kể thành tích sản xuất, chăn nuôi gà như: tăng trưởng nhanh hơn, hiệu quả sử dụng thức ăn cao hơn, khả năng sản xuất thịt tốt hơn, tỷ lệ thịt ngực cao hơn nhưng sự tăng nhanh về năng suất sản xuất đã không đi cùng với việc tăng khả năng miễn dịch, dẫn đến gà bị mắc nhiều bệnh về rối loạn chuyển hóa và nhiều bệnh truyền nhiễm, tỷ lệ chết tăng cao. Trong đó, có thể kể đến Infectious bursal disease virus (IBDV), một lọai virus thuộc họ Birnaviridae, serotype 1, chúng có khả năng phá huỷ túi Fabracius, do đó làm giảm khả năng miễn dịch của gà. Nhiều báo cáo khoa học đã cho biết: gà ở giai đọan từ 1-12 tuần tuổi, rõ nhất là ở giai đọan 3-6 tuần tuổi đều có khả năng mắc bệnh. Gà nhỏ hơn 3 tuần tuổi mắc bệnh không biểu hiện triệu chứng nhưng sẽ làm gà suy giảm miễn dịch. Tỷ lệ mắc bệnh là 100%, tỷ lệ chết từ 10-50% hoặc cao hơn nếu kết hợp với các bệnh khác. Do tính chất gây bệnh đặc trưng của virus là lây lan rất nhanh và không thể kiểm soát bằng hóa chất hay bất kỳ phương thuốc nào mà chỉ có thể khắc phục bằng biện pháp phòng trừ. Vì vậy thiệt hại do IBDV gây ra là rất đáng kể đối với chăn nuôi gà của các nước lớn trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Cùng với sự phát triền vượt bậc của công nghệ sinh học, các kỹ thuật phân tử trong chẩn đóan bệnh ngày nay có thể giúp ta chẩn đóan nhanh, sớm một cách chính xác nhiều bệnh do virus. Khởi phát từ các vấn đề nêu trên, trong giới hạn của bài seminar này em xin thực hiện nội dung “ Kỹ thuật ELISA trong chẩn đoán virus Gumboro” TP HCM, Tháng 10/2009 Nguyễn Trần Lâm Thanh KỸ THUẬT ELISA TRONG CHẨN ĐOÁN VIRUS GUMBORO NGUYỄN TRẦN LÂM THANH 3 Chương 2 TỔNG QUAN II.1 Giới thiệu tổng quát về bệnh Gumboro: II.1.1 Bệnh Gumboro là gì? Infectious bursal disease (IBD) là một căn bệnh rất dễ lây lan trong đàn gà con do một loại virus gây bệnh truyền nhiễm Infectious bursal disease virus(IBDV). Đặc trưng của bệnh là làm suy giảm hệ thống miễn dịch của gà và tỷ lệ tử vong thường từ 3-6 tuần tuổi. Bệnh do Cosgrove phát hiện lần đầu tiên vào năm 1962 tại Gumboro, vùng Delaware Hoa Kỳ. Đó là một trung tâm kinh tế quan trọng đối với ngành công nghiệp gia cầm trên toàn thế giới. Đến năm 1970 thì Hitchner đề nghị lấy tên chính thức cho căn bệnh này là Infectious bursal disease (IBD) hay còn gọi là bệnh Gumboro và virus gây ra bệnh là Infectious bursal disease virus (IBDV). Trong những năm gần đây, nhiều chủng rất độc của IBDV (vvIBDV) đã được phát hiện, chúng là nguyên nhân gây chết đồng loạt ở gà, bệnh đã xuất hiện ở châu Âu, châu Mỹ Latinh, Đông Nam Á, Châu Phi và Trung Đông. II.1.2 Hệ thống miễn dịch ở gia cầm: Đây là một hệ thống phức tạp, hoàn thiện cả về chức năng và cấu trúc, phân bố khắp cơ thể, bao gồm cơ quan, những yếu tố tế bào và những yếu tố dịch thể. Cũng như ở động vật có vú, năng lực miễn dịch của gia cầm phát triển thông qua hệ thống lympho. Cơ quan của hệ miễn dịch được chia thành cơ quan lympho sơ cấp và thứ cấp. + Túi Fabricius (viết tắt là túi F) và tuyến ức là cơ quan lympho sơ cấp trong đó các tiền lympho bào phát triển thành các lympho bào miễn dịch. + Những tổ chức lympho thứ cấp là lách, tủy xương, tuyến Harderian, tuyến quả thông (pineal gland) và các mô lympho gắn với bề mặt niêm mạc như niêm mạc khí quản, niêm mạc ruột và những cụm biệt hóa của những tế bào lympho thuộc các cơ quan khác nhau. Các tổ chức lympho này được đặt ở những vị trí quan trọng để khi những kháng nguyên như vi khuẩn bệnh đi vào cơ thể qua da hay qua các bề mặt niêm mạc có thể bị tóm gọn rồi bị tiêu diệt. KỸ THUẬT ELISA TRONG CHẨN ĐOÁN VIRUS GUMBORO NGUYỄN TRẦN LÂM THANH 4 Sự phát triển của hệ thống miễn dịch xảy ra chủ yếu trong quá trình phát triển của phôi. Các cơ quan miễn dịch và các globulin miễn dịch thành thục trong các cơ quan miễn dịch bị chi phối bởi nhiều yếu tố, ngoài yếu tố di truyền, thức ăn cũng là một yếu tố quan trọng. II.1.3 Vai trò của túi Fabricius trong hệ thống miễn dịch gia cầm: II.1.3.1 Cấu tạo: Túi Fabricius là tổ chức lympho dạng túi, nằm liền sát lổ huyệt của gia cầm. Túi được cấu tạo từ biểu mô có nếp gấp, bao gồm khoảng 12.000 nang lympho. Trọng lượng của túi thay đổi tùy theo tuổi. Về mặt cấu tạo vi thể, mỗi nang lympho gồm 2 phần riêng biệt nhau: phần vỏ và phần tủy. + Phần vỏ: chứa một số lượng lớn lymphocytes, lymphoblaste đang trong thời kỳ gián phân, các đại thực bào, hệ thống mạch máu bao gồm các động - tĩnh mạch nhỏ, các mao mạch. + Phần tủy: chứa các lymphocyte, các đại thực bào, bạch cầu và các tế bào mầm. II.1.3.2 Sự phát triển: Sau giai đoạn phát triển phôi, khi gà nở, túi Fabricius tiếp tục phát triển cho đến tận tuần tuổi thứ 6 hay tuần tuổi thứ 12 tùy theo giống, giới tính và điều kiện chăn nuôi, sau đó túi bắt đầu thoái hóa. Quan sát vi thể sự thoái hóa của túi Fabricius từ tuần tuổi thứ 24, người ta ghi nhận được một số dấu hiệu đặc trưng như sau: + Lớp biểu mô teo lại và tróc ra. + Các nếp gấp mất dần. + Phần tủy thoái hóa và sự xuất hiện các nang. + Sự phát triển của các mô liên kết của bộ khung. + Sự xâm nhập của các heterophile, macrophage trong các vùng hoại tử. Sự tiến hóa của túi Fabricius được kiểm soát bởi các hormone của các cơ quan khác nhau với hiệu ứng kích thích hoặc kềm hãm. Bệnh tật và một số yếu tố khác từ bên ngoài cũng ảnh hưởng đến sự tiến hóa của túi. II.1.3.3 Vai trò của túi Fabricius trong sự miễn nhiễm: Từ những tế bào nguồn có bên trong túi Fabricius, trong giai đọan phát triển phôi (khoảng từ ngày thứ 8 đến 15) những tế bào này sẽ tự dị biệt dưới tác động của quá trình tiếp xúc với các tế bào lưới biểu mô và sự hiện diện của các chất chiết xuất polypeptide trong túi Fabricius, hình thành nên KỸ THUẬT ELISA TRONG CHẨN ĐOÁN VIRUS GUMBORO NGUYỄN TRẦN LÂM THANH 5 các tế bào có mang kháng thể ( IgM - ngày thứ 12, IgG - ngày thứ 14, IgA - ngày thứ 16) Những tế bào miễn dịch này sẽ di chuyển ra khỏi túi Fabricius trong suốt thời kỳ phát triển sau phôi và cuối thời gian này để đi đến các cơ quan ngoại vi ( lách, ruột….) II.1.4 Infectious bursal disease virus (IBDV). IBDV có cấu trúc mạch đôi RNA dạng cuộn tròn, thuộc loài Avibirnavirus của họ Birnaviridae. IBDV có dạng khối, nhiều góc cạnh, kích thước 55-65nm, là virus dạng trần, không có vỏ bọc ngoài. IBDV có 2 dạng serotypes khác biệt , nhưng chỉ có serotype 1 là nguyên nhân gây ra bệnh cho gia cầm. Có ít nhất là 6 lọai kháng nguyên phụ của IBDV serotype 1 đã được phát hiện trong phản ứng trung hòa trong ống nghiệm. Những virus thuộc một trong những loại kháng nguyên phụ này thường được gọi là các biến thể, chúng là nguyên nhân gây ra tỷ lệ tử vong cao ở gà khỏang 60-100%. Với sự phát triển vượt bậc của sinh học phân tử như là phản ứng phiên mã ngược chuỗi polypedtide (RT-PCR) và kỹ thuật cắt phân đoạn đa hình đa hình (RFLP), nó đã trở thành một khả năng để phát hiện các vvIBDV, để phân biệt chủng IBDV, và sử dụng thông tin như vậy trong nghiên cứu các dịch tễ học phân tử của virus. Bộ gen IBDV chứa 2 mạch: mạch A và mạch B, được bao bọc trong một vỏ capsid. Lớp capsid này được hợp thành bởi 32 capsomer. Mỗi capsomer được tạo bởi 5 loại protein cấu trúc khác nhau: VP1, VP2, VP3, VP4 và VP5 (Viral Protein-VP). + Mạch B (2.9kb) mã hóa cho VP1. VP1 là protein có hoạt tính enzym RNA- polymerase. Enzym xúc tác quá trình tổng họp RNA của virus. + Mạch A lớn hơn (3.2kb) bao gồm 2 cấu trúc gen tổng hợp protein. Cấu trúc thứ nhất là một khung đọc mở đa gen ( poly-cistronic open reading frame) mã hóa cho một “tiền protein” có phân tử lượng 110 kDa mà trong quá trình kế tiếp sẽ được phân cắt thành các protein cấu trúc có tên gọi VP2, VP3, VP4. Ngoài ra, mạch A còn mã hóa cho một protein khác có tên là VP5. Đây là 1 protein có trọng lượng phân tử khá bé (17kDa) mới được phát hiện gần đây, có chức năng trong quá trình điều hòa sao chép và tổng hợp protein. Bằng các phương pháp miễn dịch học và phương pháp gây bệnh trên động vật thí nghiệm, VP2 đã được chứng minh là protein kháng nguyên bảo vệ vật chủ vì kích thích tạo kháng thể, đồng thời cũng là yếu tố độc lực của IBDV. Sự biến đổi bất kỳ một acid amin nào trong VP2 về nguyên tắc đều có thể dẫn đến sự thay đổi nhất định của tính kháng nguyên và khả năng gây KỸ THUẬT ELISA TRONG CHẨN ĐOÁN VIRUS GUMBORO NGUYỄN TRẦN LÂM THANH 6 bệnh của virus. Tuy nhiên có 1 một vùng hẹp trong cấu trúc của VP2 được gọi là ”vùng siêu biến đổi”, chịu trách nhiệm đặc biệt về tính kháng nguyên và kích thích cơ thể tạo kháng thể tham gia phản ứng trung hòa virus. Sự khác nhau ở trình tự nu của gen quy định sự tổng hợp VP2, hay cụ thể hơn là khác nhau ở vùng siêu biến đổi nên vùng này được chọn làm đích để so sánh, chẩn đoán, phân tích đặc tính kháng nguyên gây miễn dịch của các chủng IBDV. VP3 kích thích cơ thể sản sinh kháng thể kết tủa mà IBDV ở các nhóm thuộc các serotypes 1 và 2 đều kích thích sản sinh được. Vì vậy, VP3 dễ cho phản ứng kết tủa chéo, chỉ có tác dụng nhận biết IBDV đơn thuần và phân biệt sơ bộ với các virus khác. Do đó VP3 được sử dụng làm kháng nguyên kết tủa để phân biệt IBDV với các virus khác. Trong khi VP2 dùng để phân biệt các chủng và tính độc lực của các chủng IBDV. VP4 có chức năng protease cắt rời tiền protein tạo nên các protein độc lập. VP5 không chỉ có vai trò điều hòa trong sự tổng hợp ARN mà còn có vai trò trong tiến triển gây bệnh do một số thực nghiệm đã chứng minh: nếu virus thiếu thành phần hay khiếm khuyết thành phần VP5 thì có khả năng mất một phần hay hoàn toàn tính gây bệnh. IBDV có sức đề kháng hoàn toàn với Ether, Chloroforn, nhưng kém đề kháng với Formalin và Chloramin. Virus có sức chịu nhiệt tốt, có thể sống sót sau khi xử lý nhiệt ở nhiệt độ 56OC trong 5h hoặc ở nhiệt độ 37 OC hàng ngày, do vậy khử trùng nhiệt tốt nhất đối với virus là bằng cách đun sôi. Các loại hóa chất và thuốc sát trùng phải ở nồng độ cao (1% trở lên) mới có khả năng tác dụng. Chỉ có hóa chất chứa ion Clo và Iod tự do như hợp chất Chloramin, Iodine hoặc Formalin nồng độ cao (1% trở lên) mới tiêu diệt được chúng. II.1.5 Những đặc điểm của bệnh Gumboro: II.1.5.1 Nguồn bệnh: Theo Benton (1967) virus tồn tại được từ 52-122 ngày trong các ô chuồng trước đó xảy ra dịch bệnh. Trong phân, nước, chất độn chuồng, dụng cụ chăn nuôi, chất thải, chất bẩn... IBDV vẫn giữ nguyên đặc tính gây nhiễm và gây bệnh. II.1.5.2 Phương thức truyền lây: Bệnh có thể lây gián tiếp qua trứng, qua không khí, hoặc thức ăn, nước uống, dụng cụ chăn nuôi nhiễm mầm bệnh. KỸ THUẬT ELISA TRONG CHẨN ĐOÁN VIRUS GUMBORO NGUYỄN TRẦN LÂM THANH 7 Bệnh lây lan trực tiếp giữa gà mang mầm bệnh và gà khỏe do tiếp xúc. II.1.5.3 Cơ chế lây bệnh của IBDV: Virus tấn công vào các tế bào lympho đặc biệt là các tế bào lympho B. Đối với những gà con khoảng 2-8 tuần tuổi có hoạt động của túi Fabricius cao thì có khả năng mắc bệnh cao hơn. Đối với gà hơn tám tuần tuổi thì có khả năng kháng lại và không có những biểu hiện lâm sàng, trừ khi bị nhiễm bởi chủng độc lực cao. Sau khi xâm nhiễm, virus này phá hủy các nang lympho của túi Fabricius cũng như các tế bào lympho B thứ cấp như GALT, CALT, BALT, tuyến Harderian,….bệnh cấp tính và dẫn đến tử vong là do hiện tượng “necrotizing”của những virus trên mô chủ. II.1.5.4 Triệu chứng: Thời gian ủ bệnh ngắn 2-3 ngày. Sau khi IBDV xâm nhập vào túi Fabracius gà sẽ có những biểu hiện: + Đàn gà uống nhiều nước, sào xạc khi có tiếng động lạ hay khi có người bước vào chuồng. + Cơ vùng hậu môn co bóp nhanh, mạnh, gà có phản xạ như muốn đi ngoài nhưng không thực hiện được, gà có biểu hiện đi giật lùi. + Sau đó gà sốt cao, uống nhiều nước dẫn đến rối loạn tiêu hoá, gà tiêu chảy mạnh, viêm hoại tử ruột. + Phân gà trắng loãng, lúc đầu có màu trắng ngà sau chuyển sang vàng trắng, trắng nhớt đôi khi lẫn máu. + Bệnh tiến triển rất nhanh chỉ sau 6-8 giờ kể từ con ốm đầu tiên, đàn gà căn bản đã thay đổi về mặt thể trạng, chúng trở nên xơ xác, xù lông, run rẩy, yếu dần rồi chết. Gà bắt đầu chết từ ngày thứ 3 sau khi phát bệnh, tỉ lệ chết tăng nhanh, sau 5 - 7 ngày thì ngưng, những con còn sống sót khỏi bệnh. Tỉ lệ chết thường thấp, nhưng nếu điều kiện chăn nuôi kém tỉ lệ chết có thể lên đến 30% hoặc cao hơn. Hình: Gà bệnh nằm ủ rũ, xù lông Hình: Gà tiêu chảy phân loãng trắng. KỸ THUẬT ELISA TRONG CHẨN ĐOÁN VIRUS GUMBORO NGUYỄN TRẦN LÂM THANH 8 II.1.5.5 Bệnh tích: Xác chết khô, lông xơ xác, chân khô. Túi Fabricius ở giai đầu sưng rất to, xung quanh túi có thủy thũng mạnh đặc biệt ở vùng cuống túi tiếp giáp với trực tràng, túi chuyển từ màu vàng sáng sang trắng đục, túi dễ cấu, dễ bục, các nếp múi khế sưng to không rõ nét, nhiều trường hợp túi xuất huyết ở dạng lấm tấm đinh ghim hoặc kéo dài thành vật ở niêm mạc túi. Điển hình tiếp theo là xung xuất huyết hệ cơ, nếu xung huyết khi lột da, cơ khô nhanh và có màu thẫm. Nếu xuất huyết, khi lột da và quan sát thấy có dạng vệt xuất huyết, có khi chạy dài thành từng tia xuyên suốt chiều dài sợi cơ. Ngoài ra lách sưng nhẹ, thận sưng căng nhưng bệnh tích ở thận không được coi là điển hình. Một điều cần chú ý là cá biệt có trường hợp thấy xuất huyết ở dạ dày tuyến nên dễ nhầm với bệnh gà rù. Nếu gà nhiễm bệnh đến ngày thứ 5,6,7 thì túi Fabricius nhỏ lại, đến ngày thứ 8 thì chỉ bằng 1/3 trọng lượng ban đầu. Hình: Túi Fabricius sưng to, đỏ, xuất huyết lấm tấm. Hình: Cơ đùi xuất huyết thành từng vệt. KỸ THUẬT ELISA TRONG CHẨN ĐOÁN VIRUS GUMBORO NGUYỄN TRẦN LÂM THANH 9 II.1.5.6 Phòng bệnh: Chủ yếu là dùng vaccin phòng bệnh Gumboro (tiêm cho gà lúc 1 tuần tuổi, cần tiêm phòng cho đàn gà bố mẹ để tạo miễn dịch thụ động cho gà con trong những ngày đầu mới nở), loại bỏ gà có triệu chứng lâm sàng ngay sau khi chủng vaccin để loại bỏ mầm bệnh. Vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, vệ sinh thức ăn, nước uống tránh nhiễm mầm bệnh. Tiến hành ủ phân để tiêu diệt mầm bệnh. Định kỳ mỗi tuần sát trùng chuồng trại Trong quá trình nuôi cung cấp thêm các sản phẩm bổ sung chất dinh dưỡng, vitamin, chất điện giải nhằm tăng cường sức đề kháng bệnh, chống stress… II.1.5.7 Điều trị: Bệnh do virus gây ra do đó không có thuốc đặc hiệu để điều trị, khi đàn gà phát bệnh biện pháp chủ yếu để giảm tỉ lệ chết là tăng cường sức đề kháng bằng việc nuôi dưỡng, quản lý, chăm sóc, cung cấp đầy đủ chất điện giải, vitamin. Æ Điều trị bệnh Gumboro phải theo nguyên tắc: hạ sốt + giải độc + trợ lực + chống xuất huyết + loại trừ bội nhiễm các vi khuẩn gây bệnh khác. Vì thấy gà chết chủ yếu do: + Sốt cao. + Ngộ độc urat do thận bị tổn thương. + Bội nhiễm các loại vi khuẩn khác. + Mất nước do tiêu chảy quá nặng. Hiệu quả điều trị bệnh cao hay thấp tùy thuộc vào thời điểm mà chúng ta phát hiện bệnh, nếu phát hiện sớm việc điều trị sẽ mang lại hiệu quả cao. Hình: Xuất huyết trên niêm mạc dạ dày tuyến (chổ tiếp giáp giữa mề và tiền mề). KỸ THUẬT ELISA TRONG CHẨN ĐOÁN VIRUS GUMBORO NGUYỄN TRẦN LÂM THANH 10 Mặt khác, khi đàn gà mắc bệnh, việc dùng kháng sinh để điều trị càng làm bệnh trở nên trầm trọng và tăng tỉ lệ chết. Khi gà bệnh cần cho uống đường glucose và một số loại thuốc hỗ trợ đề kháng như: Vime C Electrolyte, Vimeperos, Vimix Plus, Vimevit Electrolyte, Aminovit, Vitaral…. II.2 Enzym - Linked Immunosorbent Assay ( ELISA): ELISA (Enzyme-Linked ImmunoSorbent Assay) hay EIA (Enzyme ImmunoAssay) – xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với enzym, là một kỹ thuật sinh hóa hữu ích và mạnh trong việc xác định việc hiện diện cũng như định lượng ở mức ng/ml, pg/ml các chất có trong dung dịch như: huyết thanh, tinh dịch, nước tiểu, dịch huyền phù nuôi cấy. Hiện nay ELISA được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học sự sống và bệnh học nói chung. II.2.1 Nguyên lý chung của ELISA: Sử dụng 1 enzym để phát hiện sự gắn kết đặc hiệu giữa kháng nguyên ( Antigen-Ag) và kháng thể (Antibody-Ab). Enzym sẽ chuyển cơ chất không màu thành sản phẩm có màu, nhờ đó ta sẽ thấy được sự liên kết giữa Ag-Ab. Với nguyên lý trên, ELISA giúp xác định sự có mặt hay không có mặt cũng như lượng Ag trong mẫu nghiên cứu. II.2.2 Một số ứng dụng của ELISA: Xác định nồng độ của Ab trong huyết thanh; Kiểm tra sự có mặt của Ag Phát hiện các yếu tố có khả năng gây dị ứng trong thực phẩm Xác định hoạt tính của một hợp chất sinh học …. II.2.3 Các phương pháp ELISA: Có 3 phương pháp chính gồm: ELISA trực tiếp, ELISA gián tiếp, ELISA sandwich. Tất cả các kiểu này đều có thể được sử dụng trong các xét nhiệm được gọi là ELISA cạnh tranh (competition ELISA) hay ELISA kềm hãm (inhibition ELISA) KỸ THUẬT ELISA TRONG CHẨN ĐOÁN VIRUS GUMBORO NGUYỄN TRẦN LÂM THANH 11 II.2.3.1 ELISA trực tiếp: gồm các bước chính: 1. Kháng nguyên được pha loãng trong dung dịch đệm (thường là carbonate/bicarbonate ở pH cao 9.6 hay dung dịch PBS trung tính), rồi bổ sung dung dịch vào pha rắn. ( trong dung chị đệm không chứa các protein có thể cạnh tranh với kháng nguyên mục tiêu để gắn vào pha rắn) 2. Kháng nguyên sẽ bám thụ động vào bề mặt pha rắn trong quá trình ủ. Tuy nhiệt độ, thời gian ủ là không quan trọng, nhưng việc chuẩn hóa các điều kiện là rất cần thiết, chẳng hạn ta nên ủ ở 37oC. 3. Sau khi ủ, ta tiến hành rửa để loại bỏ các kháng nguyên không hấp thụ được vào bề mặt rắn. 4. Kháng thể có gắn enzym được bổ sung trực tiếp vào các vị trí kháng nguyên trên bề mặt rắn. Các kháng thể này được pha loãng trong dung dịch đệm chứa một số cơ chất ức chế sự hấp thu thụ động của protein, nhưng cũng cho phép sự gắn kết miễn dịch. Sau khi ủ, kháng thể sẽ gắn vào kháng nguyên của chính nó. 5. Rửa lần 2 để loại bỏ các kháng thể không bám, để còn lại trên đĩa là phức hợp kháng nguyên - kháng thể có gắn enzym. 6. Bổ sung các cơ chất phù hợp cho enzym đã gắn vào kháng thể. Điều này giúp hổ trợ cho phản ứng xúc tác tạo màu của enzym. Cuối cùng màu của dung dịch sẽ được xác định qua máy quang phổ trắc quang ( spectrophotometer), đọc tại một bước sóng phù hợp. Ưu điểm của phương pháp: đơn giản nhất. Nhược điểm của phương pháp: độ đặc hiệu bị giới hạn vì thông thường thì kháng nguyên có ít nhất là 2 epitop mà trong phương pháp này chỉ sử dụng một kháng thể gắn vào 1 epitop. Tốn công: phải đánh dấu cho từng kháng thể chuyên biệt với từng đối tượng. KỸ THUẬT ELISA TRONG CHẨN ĐOÁN VIRUS GUMBORO NGUYỄN TRẦN LÂM THANH 12 II.2.3.2 ELISA gián tiếp: các bước đầu tiên tương tự như ELISA trực tiếp. 1. Sau khi kháng nguyên được hấp phụ trên bề mặt vật rắn và rửa bỏ những phần không hấp phụ, một kháng thể không đánh dấu được bổ sung vào. 2. Sau khi ủ, rửa bỏ các kháng thể không bám vào kháng nguyên. 3. Bổ sung một kháng thể thứ 2 có gắn enzym
Luận văn liên quan