Luận án Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái

Nghiên cứu văn học sau khi “trở về chính mình” với những lí thuyết như chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hình thức, phê bình mới chủ yếu quan tâm đến những phương diện nội tại của tác phẩm dường như nhiều khi trở nên tự thu hẹp, khó tiếp cận với những vấn đề đương đại rộng lớn. Mặt khác, các trường phái nghiên cứu văn học hiện nay với những mối bận tâm về con người: phê bình phân tâm học, phê bình Marxism , lí thuyết tiếp nhận trên thực tế đã đạt được nhiều thành tựu nhưng có lẽ “đang trong giai đoạn thác ghềnh và thỉnh thoảng mất phương hướng”

doc164 trang | Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 4324 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT CON NG¦êI Vµ Tù NHI£N TRONG V¡N XU¤I VIÖT NAM SAU N¡M 1975 Tõ GãC NH×N PH£ B×NH SINH TH¸I Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 62.22.01.02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Lê Lưu Oanh HÀ NỘI - 2015 LỜI CẢM ƠN LuËn án ®­îc hoµn thµnh d­íi sù h­íng dÉn khoa häc cña PGS - TS Lª L­u Oanh. Chóng t«i xin ch©n thµnh c¶m ¬n PGS cïng tËp thÓ c¸c nhµ khoa häc thuéc chuyªn ngµnh LÝ luËn v¨n häc, Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi ®· gióp ®ì chóng t«i trong qu¸ tr×nh nghiªn cøu. Ng­êi viÕt còng xin c¶m ¬n sù gióp ®ì, chia sÎ cña b¹n bÌ, ®ång m«n vµ nh÷ng ng­êi th©n trong thêi gian thùc hiÖn luËn án. LuËn án ®­îc viÕt b»ng niÒm yªu thÝch ®Æc biÖt víi vÊn ®Ò nghiªn cøu, tuy nhiªn kh«ng tr¸nh khái nh÷ng thiÕu sãt, chóng t«i mong nhËn ®­îc nh÷ng nhËn xÐt, gãp ý tõ b¹n ®äc. T¸c gi¶ Trần Thị Ánh Nguyệt LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được hoàn thành với sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của nhiều nhà khoa học. Các số liệu, kết quả được trình bày trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án Trần Thị Ánh Nguyệt MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghiên cứu văn học sau khi “trở về chính mình” với những lí thuyết như chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hình thức, phê bình mới chủ yếu quan tâm đến những phương diện nội tại của tác phẩm dường như nhiều khi trở nên tự thu hẹp, khó tiếp cận với những vấn đề đương đại rộng lớn. Mặt khác, các trường phái nghiên cứu văn học hiện nay với những mối bận tâm về con người: phê bình phân tâm học, phê bình Marxism , lí thuyết tiếp nhận trên thực tế đã đạt được nhiều thành tựu nhưng có lẽ “đang trong giai đoạn thác ghềnh và thỉnh thoảng mất phương hướng” [150, xvii]. Cần phải tìm một hướng đi khác cho nghiên cứu văn học. Do vậy hiện nay, bên cạnh những hướng nghiên cứu văn học trước đó vẫn đang có những tìm tòi mới mẻ và đạt được nhiều thành tựu thì cũng xuất hiện sự chuyển hướng văn hóa trong nghiên cứu văn học, xuyên qua văn học để quan sát sự đổi thay văn hóa, nghiên cứu ý thức văn hóa được thể hiện như thế nào trong văn học, nghiên cứu ý thức về xã hội, ý thức về môi trường thể hiện trong văn học. Thế kỉ XXI là thế kỉ mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng con người phải đối mặt với nhiều nguy cơ sinh thái nhất. Trong xã hội hiện đại, cùng với tốc độ đô thị hóa và sự ỷ lại vào khoa học kĩ thuật con người đang ngày càng quay lưng với tự nhiên, khai thác quá mức, khiến cho tự nhiên ngày càng cạn kiệt. Thiên nhiên trả thù con người không phải chỉ bằng các thảm họa, thiên tai, mà đáng sợ hơn, trả thù bằng sự biến mất của chính nó. Cái “dây chuyền sống” huyền diệu của tạo hóa đang ngày càng bị phá hủy. Phê bình sinh thái (ecocritisim) nổi lên khi vấn đề biến đổi khí hậu, sự xuống cấp về môi trường không còn là vấn đề của mỗi quốc gia dân tộc nữa, nó ảnh hưởng đến sự sống. Văn học quan tâm đến sự sống cho nên khúc ngoặt của phê bình sinh thái xét đến cùng lại liên quan đến bản thể của văn học. Trên thế giới, khởi phát từ Anh – Mĩ, phê bình sinh thái đang là một trào lưu năng động hiện nay, thu hút sự quan tâm ngày càng nhiều hơn các nước ngoài phương Tây. Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tình trạng biến đổi khí hậu, nước biển dâng, mưa bão, lũ lụt... Sống ở vùng đất nhạy cảm với những đổi thay của môi trường, hẳn nhiên điều đó sẽ ánh xạ vào tác phẩm, nhất là với nhà văn đa cảm, trắc ẩn. Ý thức sinh thái này đã được nhiều tác giả văn xuôi sau năm 1975 đề cập đến: sự hủy hoại môi sinh dẫn tới việc mất cân bằng tự nhiên; quá trình đô thị hóa, nền kinh tế thị trường khiến con người rời xa môi trường sinh thái, con người trở thành nạn nhân, công cụ của thương mại Do vậy văn học có khuynh hướng tìm về biểu hiện mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, có một tư duy sinh thái trong việc nhận diện, phân tích và thể hiện những nỗi đau môi trường, số phận con người trong cuộc khủng hoảng môi sinh cũng như hướng con người sống có trách nhiệm với thiên nhiên, biết hòa mình vào tự nhiên để được thanh thản, cân bằng trong cuộc sốngTừ hướng nghiên cứu này, có một cách tiếp cận riêng trên con đường khám phá một trong những hấp dẫn của văn học Việt Nam sau 1975 và qua đó kết nối văn học với những vấn đề thiết cốt của nhân loại về trách nhiệm của con người trong khủng hoảng môi sinh. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài luận án là Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên chúng tôi hiểu như sau: Thứ nhất, từ cái nhìn sinh thái, chúng tôi xem xét mối quan hệ giữa con người và những yếu tố tự nhiên. Phê bình sinh thái cảnh tỉnh về nguy cơ của khủng hoảng sinh thái. Do vậy, đề tài xem xét quan hệ con người với thực thể tự nhiên để phân tích số phận con người trong cuộc khủng hoảng môi sinh, đồng thời chỉ ra những căn nguyên của những thảm họa môi trường. Mặt khác, vấn đề tự nhiên bao giờ cũng có mối liên hệ với xã hội. Do vậy, luận án cũng xem xét sự kết nối tính sinh thái với các vấn đề xã hội để thấy hành trình bóc lột tự nhiên có mối liên hệ với hành trình bất công xã hội. Từ đó, phê bình sinh thái đặt ra nhiều vấn đề về sự bất công môi trường, về nông thôn và thành thị, những vấn đề áp bức phụ nữ, vấn đề giai cấp... Từ thực trạng suy thoái môi trường cần thức tỉnh ý thức sinh thái và tạo ra những góc nhìn khác về sự sống mà có thể cung cấp nền tảng đạo đức và kiến thức cho cách hiểu đúng đắn về tương quan giữa các tồn tại trên trái đất. Thứ hai, từ cái nhìn sinh thái dưới góc độ văn học, chúng tôi "đọc" các mã văn học thể hiện ý thức sinh thái trên các phương diện chủ đề, motif cốt truyện, nhân vật, cảm hứng, ngôn ngữ và giọng điệu. Từ đó chỉ ra những đặc điểm của văn học sinh thái như là một xu hướng văn học có tầm quan trọng xã hội thẩm mĩ và chứa đựng bên trong những nhân tố cách tân văn học. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Dựa trên phê bình sinh thái Anh-Mĩ, hướng tiếp cận nảy sinh trong thời đại khủng hoảng môi trường, đề tài chỉ ra những điểm có thể vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái để nghiên cứu dựa trên văn xuôi hư cấu sau năm 1975, chủ yếu là truyện ngắn và tiểu thuyết làm đối tượng khảo sát chính. Từ đó để thấy sự phản ứng của văn học trước những khủng hoảng sinh thái đang diễn ra. 3. Nhiệm vụ của luận án - Khảo sát các tác phẩm văn xuôi sinh thái sau năm 1975; phân tích các tác phẩm dưới góc nhìn của phê bình sinh thái - Đưa ra một cái nhìn toàn cảnh về văn học sinh thái Việt Nam sau năm 1975 - Khảo sát những bình diện khác nhau của khuynh hướng văn xuôi sinh thái 4. Phương pháp nghiên cứu Ngoài những phương pháp được sử dụng như những thao tác thường xuyên trong nghiên cứu văn học như thống kê – phân loại, phân tích, tổng hợp, so sánh (đồng đại, lịch đại), chúng tôi sử dụng các phương pháp sau: 4.1. Phương pháp luận - Vận dụng "cảm quan nhìn lại" của phê bình sinh thái làm tiền đề để nhận thức mối quan hệ giữa con người và tự nhiên xung quanh như một thực thể của chỉnh thể sinh thái. Sự nhận thức lại này sẽ giúp chúng ta nhận diện rõ hơn mối quan hệ giữa tự nhiên và văn hóa. - Phương pháp liên ngành: Phê bình sinh thái là một hướng nghiên cứu liên ngành, kết hợp văn học với khoa học, phân tích tác phẩm văn chương để rút ra những cảnh báo môi trường. Luận án vận dụng những kiến thức của các ngành khoa học (sinh thái học, dân tộc học, sử học, triết học, chính trị, đạo đức...), một số loại hình nghệ thuật khác (điện ảnh, âm nhạc) để hiểu và lý giải một số quan điểm của các tác phẩm. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu khác - Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Thi pháp học hiện đại đã được vận dụng để nhận diện khuynh hướng văn xuôi sinh thái qua điểm nhìn, motif cốt truyện, nhân vật, giọng điệu. - Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Phương pháp này giúp xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên hệ thống mà cụ thể là những dấu hiệu lặp lại có tính quy luật của những yếu tố ấy. Trên cơ sở hệ thống hóa các yếu tố, tính chỉnh thể sẽ được bộc lộ rõ. 5. Những đóng góp mới của luận án - Tổng thuật các nghiên cứu trên thế giới (chủ yếu là Anh-Mỹ) và Việt Nam về phê bình sinh thái. - Chứng minh có một khuynh hướng văn xuôi sinh thái sau năm 1975, đặc biệt là sau năm 1986. Chỉ ra những đặc điểm của văn xuôi sinh thái như là một xu hướng văn học có tầm quan trọng xã hội thẩm mĩ và chứa đựng những nhân tố cách tân nghệ thuật. - Khảo sát 2 bình diện của khuynh hướng văn xuôi sinh thái xác lập cho văn chương đương đại, là 1) cảm hứng phê phán trên tinh thần sinh thái và 2) xác lập đạo đức sinh thái. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 4 chương Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu Chương 2: Khuynh hướng văn xuôi sinh thái Việt Nam sau năm 1975 Chương 3: Cảm hứng phê phán từ điểm nhìn phê bình sinh thái Chương 4: Kiến lập cảm quan đạo đức sinh thái Chương 1 TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1. Phê bình sinh thái – Một khuynh hướng mới trong phê bình văn học 1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái Sinh thái (oikos) theo nghĩa gốc tiếng Latin là nhà ở, nơi cư trú, bất kì một sinh vật sống nào cũng cần nơi cư trú của mình. Thuật ngữ sinh thái học (ecology) có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp, bao gồm oikos (chỉ nơi sinh sống) và logos (học thuyết, khoa học). Thuật ngữ “sinh thái học” chỉ thật sự ra đời vào năm 1869 do nhà sinh vật học người Đức Ernst Haecker đưa ra. Ông là người đầu tiên đặt nền móng cho môn khoa học sinh thái về mối tương quan về động vật với các thành phần môi trường vô sinh. Trải qua hàng trăm năm phát triển, sinh thái học đã có rất nhiều định nghĩa nhưng chung nhất vẫn là học thuyết nghiên cứu về nơi sinh sống của sinh vật, mối tương tác giữa cơ thể sinh vật sống và môi trường xung quanh. Ngày nay, sinh thái học không chỉ tồn tại trong sinh học mà nó còn là khoa học của nhiều ngành khác, trong đó có khoa học xã hội và nhân văn. Với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa và văn học, phê bình sinh thái (ecocriticism), được hình thành ở Mĩ vào giữa những năm 90 của thế kỉ XX, đã hấp thu tư tưởng cơ bản của sinh thái học vào nghiên cứu văn học “dẫn nhập quan niệm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào phê bình văn học” [89]. Trong các định nghĩa về phê bình sinh thái, định nghĩa của Glotfelty được xem là ngắn gọn và dễ hiểu hơn cả: Nói đơn giản, phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên. Cũng giống như phê bình nữ quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ góc độ giới tính, phê bình Marxit mang lại ý thức của phương thức sản xuất và thành phần kinh tế để đọc văn bản, phê bình sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earth-centered approach) để nghiên cứu văn học [150, xviii]. Để hiểu rõ hơn định nghĩa này, chúng ta cần hiểu quan niệm của phê bình sinh thái về con người/ tự nhiên, tự nhiên/ văn hóa, những vấn đề làm nên tư tưởng đặc thù của phê bình sinh thái. Về mặt từ nguyên, tự nhiên (nature) mà gốc Latin của nó là natura, nghĩa là “đặc điểm thuộc về tự nhiên, vũ trụ” hay natus (sự sinh ra, được sinh ra) để phân biệt với thế giới được chế tạo, như các đồ vật được làm bởi con người. Dẫu vậy, “tự nhiên” đã trở thành một diễn ngôn mơ hồ, luôn biến đổi, nó là cái tồn tại mặc nhiên từ buổi hoang sơ, nhưng cũng là cái đã bị con người sở hữu và chiếm hữu theo nhiều cách. “Tự nhiên” do đó đã không còn là nó một cách nguyên thủy, mà các yếu tố cấu thành nó ít nhiều đều bị quy định bởi con người. Theo sự biến thiên này, cặp từ tự nhiên (nature)/ văn hóa (culture) không còn là sự đối lập đơn giản mà có sự xuyên thấm lẫn nhau. Thật khó có một thứ gì đó có thể phân loại rành mạch rõ ràng, nhất là cặp đôi “phiền phức” văn hóa/ tự nhiên. Peter Barry đã chứng minh bằng cách lấy thí dụ, cái chúng ta gọi là ‘môi trường bên ngoài’ là một chuỗi các khu vực xâm nhập, sấn chéo lên nhau và dịch chuyển dần dần từ khu vực tự nhiên sang khu vực văn hóa, theo trật tự như sau: Khu vực một: cái hoang dã (the wilderness). Thí dụ sa mạc, đại dương, những lục địa không có người sinh sống. Khu vực hai: Cảnh trí hiểm trở (the scenic sublime). Thí dụ rừng, hồ, núi, thác nước Khu vực ba: vùng nông thôn (the countryside). Thí dụ đồi, cánh đồng, rừng cây.. Khu vực bốn: cảnh trí nhân tạo quanh nhà (the domestic picturesque). Thí dụ công viên, vườn, đường Khi chúng ta di chuyển (trong suy nghĩ) giữa các khu vực này, rõ ràng chúng ta đã di chuyển từ khu vực thứ nhất – “thuần túy” tự nhiên sang khu vực thứ tư – phần lớn là “văn hóa”. Dĩ nhiên, cái hoang dã bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng nhà kính – vốn là do văn hóa tạo ra, và các khu vườn thì tồn tại phụ thuộc vào ánh nắng – vốn thuộc lực lượng tự nhiên [140, 252]. Do vậy, các nhà phê bình sinh thái sử dụng thuật ngữ human/ nonhuman khi chỉ mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên. Karen Thornber giải thích “sử dụng thuật ngữ "nonhuman" (thế giới phi nhân loại) để chỉ sinh học (nghĩa là, các sinh vật không phải con người) và vô sinh (có nghĩa là để nói, yếu tố vật chất không sống như không khí, nước và đất). Tôi sử dụng thuật ngữ " human" (nhân loại) để chỉ con người và công trình xây dựng của con người cả về vật chất và trí tuệ, bao gồm cả công nghệ” [158]. Phê bình sinh thái khẳng định tầm quan trọng của việc nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa nhân loại (human) và phi-nhân-loại (nonhuman) trong các diễn ngôn văn hóa. Phê bình sinh thái trở thành một giải pháp khôi phục ý nghĩa và tầm quan trọng của tự nhiên với con người cũng như khẳng định vai trò của ngôn ngữ trong việc định hình và thay đổi các quan niệm về tự nhiên như lời khẳng định của Glotfelty Toàn bộ phê bình sinh thái chia sẻ những giả thuyết cơ bản mà văn hóa con người kết nối với tự nhiên, ảnh hưởng tới nó và chịu ảnh hưởng của nó. Phê bình sinh thái đặt vấn đề quan hệ nối kết giữa tự nhiên và văn hóa, đặc biệt là sự tạo tác văn hóa của ngôn ngữ và văn học. Như một quan điểm phê bình, phê bình sinh thái đặt một chân ở văn học và chân kia trên mặt đất, như là một diễn ngôn lí thuyết, phê bình sinh thái dàn xếp giữa con người (human) và (thế giới) phi nhân loại (nonhuman) [151, xix]. 1.1.2. Lịch sử phê bình sinh thái 1.1.2.1. Cội nguồn triết học của phê bình sinh thái Mặc dù nhiều nhà nghiên cứu sinh thái cho rằng phê bình sinh thái không có lịch sử của nó, nghĩa là phong trào này mới phát xuất từ những năm 70 của thế kỉ XX khi những cảnh báo về sự khủng hoảng môi trường ngày càng trầm trọng và con người ta bắt đầu nhận thấy mặt trái của văn minh kĩ trị đã ảnh hưởng đến môi trường như thế nào. Tuy nhiên, hành trình đó cũng bắt đầu bằng cách tìm cách trở về với trái đất nguyên thủy vì sự thực bất kì lí thuyết nào cũng có cội nguồn của nó. Triết học phương Tây đã manh nha các tư tưởng sau này trở thành tiền đề cho phê bình sinh thái: tư tưởng sinh thái của Rousseau, Darwin, Heidegger... Nghiên cứu về phương diện tiến hóa của Darwin đã chứng minh một cách thuyết phục bằng khoa học, giáng một đòn mạnh mẽ vào tư tưởng "con người kiểu mẫu muôn loài" có thể đứng cao hơn tất thảy. Sự thực, nhân loại và các sinh vật khác có cùng nguồn gốc trên ý nghĩa sinh vật học, do vậy, con người phải ý thức rằng tất cả các sinh vật đều có quan hệ huyết thống, cần đem sự quan tâm của con người mở rộng đến tất cả các sinh mệnh khác. Rousseau, một nhà triết học Ánh Sáng cũng đề cao việc tôn trọng tự nhiên. Ông khẳng định rằng bản chất con người là lương thiện nhưng xã hội làm cho hư hỏng và bất hạnh vì vậy cần giáo dục con người quay trở về tự nhiên. Các nhà triết học hiện tượng luận (Hussel, R. Ingarden, Heidegger, Merleau Ponty) đi vào thế giới nhân sinh bên trong của con người, quan tâm nhiều đến tri giác. Họ cho rằng con người cảm nhận thế giới bằng chính cảm giác trực giác của mình, tất cả các chức năng cao hơn của ý thức như sự hiểu biết, ý chí đều có nguồn gốc và phụ thuộc vào sự phản ánh của chủ thể, rằng tồn tại thể xác chính là tri giác. Đặc biệt, phê bình sinh thái ảnh hưởng trực tiếp nhất từ tư tưởng triết học các trường phái của luân lí học môi trường phương Tây hiện đại: Đại địa luân lí học (Land Ethics), Tự nhiên giá trị luận (Theory of nature value), Động vật giải phóng (Animal liberation), Sinh thái học bề sâu (Deep ecology) - triết lí sinh thái và môi trường hiện đại tôn trọng sự tồn tại bình đẳng của tạo vật, coi mọi sinh vật trong hệ thống không có loài nào ở thế ưu trội. Arne Naes, người Na Uy trong tham luận Bề mặt và bề sâu, khoảng cách của phong trào sinh thái (The Shallow and the Deep, Long-range Ecology Movement, Inquiry 16, Spring, 1973) phát biểu tại Budapest bàn về bản chất của triết học và sinh thái, đề ra thuật ngữ Deep Ecology (Sinh thái học bề sâu) coi tự nhiên và chúng ta cùng một thể. Nguyên tắc cốt lõi của sinh thái học bề sâu là niềm tin rằng môi trường sống như một chỉnh thể cần được được tôn trọng. Môi trường sống có những quyền bất khả xâm phạm để sinh sống và phát triển, độc lập với lợi ích thực dụng của con người. Sinh thái bề sâu cho rằng thế giới tự nhiên là một sự cân bằng tinh tế của mối quan hệ phức tạp, trong đó sự tồn tại của sinh vật phụ thuộc vào sự tồn tại của những sinh vật khác trong hệ sinh thái. Can thiệp của con người hoặc phá hủy thế giới tự nhiên đặt ra một mối đe dọa do đó không chỉ đối với con người mà cho tất cả các sinh vật tạo thành trật tự tự nhiên . Aldo Leopold (1887 - 1948) được coi là người đầu tiên đề xướng sự bảo vệ sinh thái của phương Tây cận đại. Niên giám về đất nước sa mạc (A sand country almanac, 1949, Oxford University press, 1966) của Aldo Leopold được coi là tác phẩm kinh điển, cuốn sách chuẩn mực cho các khóa học văn học Mỹ. Trong đó chương Đại địa luân lí học (Land Ethics) biểu đạt tư tưởng cốt lõi của ông: con người và đất đai, nước, thực vật và động vật tồn tại mối quan hệ luân lí. Xét trên lập trường nhân loại, động - thực vật khác trên trái đất chỉ là tài sản. Mối quan hệ giữa người và đất đai vẫn thuần là kinh tế, con người chỉ có quyền lợi mà không có nghĩa vụ đối với đất đai. Thuật ngữ quan trọng nhất để Aldo Leopold giải thích là “cộng đồng” (Community), ông cho rằng mỗi cá nhân đều sống trong một môi trường xã hội, trở thành một bộ phận cùng nương tựa nhau để tồn tại trong cộng đồng này. Phạm vi đạo đức trước đây giới hạn trong “cộng đồng nhân loại” (Humman Community), mối quan hệ này chỉ coi trọng quan hệ con người và con người, con người với xã hội, còn “luân lí môi trường” mở rộng ra Cộng đồng sinh vật (Biotic Community) bao gồm cả cỏ cây, sông nước, động vật - thế giới của muôn loài. Quan niệm Đại địa luân lí học làm thay đổi vai trò nhân loại trong văn minh truyền thống phương Tây. Con người, từ kẻ chinh phục, kẻ thao túng tự nhiên trở thành một thành viên trong đó. Con người phải có sự tôn trọng thích đáng đối với tất cả các thành viên thuộc giới hữu tình và vô tình, và cùng sinh tồn với các loài khác hợp thành một cộng đồng rộng lớn, con người có nghĩa vụ trách nhiệm bảo vệ “cộng đồng sinh vật” được hài hòa, ổn định, và đẹp đẽ “Hành vi mà có thể bảo hộ tính chỉnh thể, tính ổn định, và vẻ đẹp của Cộng đồng sinh vật là đúng, trái ngược lại với điều đó là hành vi sai trái” [153, 26]. Những tư tưởng của sinh thái học như: Cộng đồng sinh vật (Biotic Community), Ý thức sinh thái (Ecological conscience), Đại địa mĩ học (Land aesthetic) mà Aldo Leopold đề xuất chủ yếu để thay đổi thế giới quan nhân loại trung tâm (human-centred) trong văn minh truyền thống Kitô giáo phương Tây, phá bỏ sự cách biệt giữa con người và thiên nhiên để nhận thức Vạn vật bình đẳng. Lương tâm sinh thái xuất phát từ thái độ con người thay đổi thế giới quan, từ mối quan tâm con người với con người kéo dài ra đến con người và vạn vật trên trái đất. Chỉ khi con người nhận thức được loài vô tình hay giới hữu tình trong Đại địa đều là một phần tử của Cộng đồng sinh vật thì nhân loại mới có thể tôn trọng và bảo vệ chúng được. Như vậy, đạo đức môi trường đã mở rộng ra từ quyền con người sang quyền của thiên nhiên. Cuối thế kỉ XX là thời kì khởi phát phong trào bảo
Luận văn liên quan