Văn hóa truyền thống của người Việt từ ngàn đời nay được lưu giữ một phần
lớn và quan trọng là ở làng. Làng Việt ở Bắc Bộ là nơi định cư sớm của cư dân
Việt. Đa phần công việc trong làng là làm nghề nông. Về cảnh quan, có đường làng,
chùa làng, đình làng, ao làng, chợ làng,. và nhiều làng không thể thiếu cổng làng.
Cổng làng được các nhà nghiên cứu văn hóa xếp vào danh mục các di sản
văn hóa vật thể, cũng như các di tích kiến trúc nghệ thuật khác như đình, chùa, đền,
miếu, văn chỉ, từ chỉ, nhà thờ họ. Song, cổng làng không chỉ là di sản văn hóa vật
thể. Ẩn sau diện mạo khó quên của những chiếc cổng làng, còn có những giá trị văn
hóa phi vật thể mà nếu được quan tâm nghiên cứu, cổng làng sẽ là tư liệu quý, giúp
chúng ta hiểu thêm về làng Việt và văn hóa dân tộc.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 231 trang
231 trang | 
Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 2690 | Lượt tải: 8 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Cổng làng người Việt ở châu thổ Bắc Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN HÀN LÂM 
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI 
----------------- 
VŨ THỊ THU HÀ 
CỔNG LÀNG NGƯỜI VIỆT Ở CHÂU THỔ BẮC BỘ 
CHUYÊN NGÀNH VĂN HÓA DÂN GIAN 
Mã số: 62 22 01 30 
Người hướng dẫn khoa học: 
GS.TS. Nguyễn Xuân Kính 
Hà Nội, 2016 
 I 
LỜI CAM ĐOAN 
Tôi xin cam đoan luận án: Cổng làng người Việt ở châu thổ Bắc Bộ do tôi 
thực hiện. Các tư liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và 
lần đầu tiên được công bố tại luận án này. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. 
Nghiên cứu sinh 
 II 
MỤC LỤC 
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 
Chương 1: LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU CỔNG LÀNG, TỔNG QUAN VỀ CHÂU 
THỔ VÀ LÀNG VIỆT BẮC BỘ, LÝ THUYẾT VẬN DỤNG ............................ 8 
1.1. Lịch sử nghiên cứu cổng làng ............................................................................. 8 
1.2. Tổng quan về châu thổ Bắc Bộ và làng Việt ..................................................... 15 
1.3. Lí thuyết vận dụng......................................... .................................................... 38 
Chương 2: NHẬN DIỆN CỔNG LÀNG TRUYỀN THỐNG Ở CHÂU THỔ 
BẮC BỘ ................................................................................................................... 46 
2.1. Vị trí và sự phân bố cổng làng .......................................................................... 46 
2.2. Phân loại cổng làng ........................................................................................... 55 
2.3. Điêu khắc, trang trí trên cổng làng .................................................................... 72 
2.4. Mối quan hệ giữa cổng làng với đình làng, chùa làng ...................................... 80 
Chương 3: CHỨC NĂNG VÀ GIÁ TRỊ CỦA CỔNG LÀNG Ở CHÂU THỔ 
BẮC BỘ ................................................................................................................... 84 
3.1. Chức năng của cổng làng .................................................................................. 84 
3.2. Giá trị của cổng làng ....................................................................................... 104 
Chương 4: CỔNG LÀNG TRONG LỊCH SỬ VÀ TRONG CUỘC SỐNG 
ĐƯƠNG ĐẠI, NHỮNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN ................................................. 116 
4.1. Cổng làng trong lịch sử ................................................................................... 116 
4.2. Cổng làng trong cuộc sống đương đại ............................................................ 119 
4.3. Những vấn đề bàn luận ................................................................................... 125 
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 141 
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ  ....... . 144 
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 145 
PHỤ LỤC ...................................................................................................... ........156 
 III 
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 
CB 
ĐH 
Chủ biên 
Đại học 
GS 
H 
Giáo sư 
Hà Nội 
KHXH 
NCS 
Khoa học xã hội 
Nghiên cứu sinh 
Nxb 
PGS 
Nhà xuất bản 
Phó giáo sư 
Tr. trang 
TS 
TSKH 
Tiến sĩ 
Tiến sĩ khoa học 
Tp Thành phố 
UBND 
VHDG 
VHDT 
Uỷ ban nhân dân 
Văn hóa dân gian 
Văn hóa dân tộc 
VHNT Văn hóa nghệ thuật 
VHTT Văn hóa thông tin 
xb Xuất bản 
 1 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Văn hóa truyền thống của người Việt từ ngàn đời nay được lưu giữ một phần 
lớn và quan trọng là ở làng. Làng Việt ở Bắc Bộ là nơi định cư sớm của cư dân 
Việt. Đa phần công việc trong làng là làm nghề nông. Về cảnh quan, có đường làng, 
chùa làng, đình làng, ao làng, chợ làng,... và nhiều làng không thể thiếu cổng làng. 
Cổng làng được các nhà nghiên cứu văn hóa xếp vào danh mục các di sản 
văn hóa vật thể, cũng như các di tích kiến trúc nghệ thuật khác như đình, chùa, đền, 
miếu, văn chỉ, từ chỉ, nhà thờ họ... Song, cổng làng không chỉ là di sản văn hóa vật 
thể. Ẩn sau diện mạo khó quên của những chiếc cổng làng, còn có những giá trị văn 
hóa phi vật thể mà nếu được quan tâm nghiên cứu, cổng làng sẽ là tư liệu quý, giúp 
chúng ta hiểu thêm về làng Việt và văn hóa dân tộc. 
Là một bộ phận cấu thành của thực thể làng Việt, cổng làng có vai trò, chức 
năng của nó. Cổng làng thể hiện mơ ước, nguyện vọng của cộng đồng, mang giá trị 
tâm linh, trở thành một biểu tượng khó mờ phai đối với dân làng. Thêm nữa, cổng 
làng còn là vách ngăn, một thứ biểu tượng để phân biệt làng này với làng khác, là 
nơi chức dịch kiểm soát dân làng. Vai trò, chức năng ấy đã dần dần thay đổi. Những 
yếu tố truyền thống và biến đổi hiện nay trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc 
trang trí, những yếu tố vay mượn của cổng làng và ý nghĩa của cổng làng trong 
không gian văn hóa của làng quê xưa và nay luôn luôn cần được tìm hiểu. Việc 
nghiên cứu một cách hệ thống cổng làng vùng châu thổ Bắc Bộ sẽ góp phần khẳng 
định những giá trị truyền thống văn hóa của làng, góp thêm tiếng nói vào việc 
nghiên cứu sự biến đổi văn hóa hiện nay. 
Thực trạng của cổng làng hiện nay có rất nhiều vấn đề đáng quan tâm, số 
lượng cổng làng cũ hiện tại không còn nhiều bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. 
Có nhiều cách lý giải, ứng xử trước sự biến đổi này. Liệu có cần thiết giữ gìn nét 
truyền thống của cổng làng ở mỗi làng quê cho phù hợp với cảnh quan không gian 
 2 
của làng? Sự tồn tại của cổng làng sẽ làm tôn thêm vẻ đẹp truyền thống của mỗi 
làng, hay chỉ bó buộc không gian sống của con người, cản trở giao thông khi xe cộ 
càng nhiều, kích thước càng lớn? Khi xây mới hoặc tu sửa cổng cũ thì cần lưu ý 
những gì? 
Trong thời kì mở cửa, hội nhập và phát triển kinh tế, văn hóa hiện nay, cổng 
làng cũng như nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật khác đã trải qua nhiều tác động 
tiêu cực của thời gian, của cơ chế thị trường và những bất cập trong quản lý văn 
hóa, đặc biệt là của quá trình đô thị hóa quá nóng. Diện mạo, chức năng và giá trị 
của cổng làng đang dần mai một theo văn hóa truyền thống. Để bảo tồn, phát huy và 
khai thác những giá trị lịch sử - nghệ thuật cổng làng của người Việt vùng châu thổ 
Bắc Bộ trong bối cảnh hiện nay, với những lý do vừa trình bày, tôi chọn “Cổng làng 
người Việt ở châu thổ Bắc Bộ” làm đề tài nghiên cứu. 
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 
2.1. Mục đích nghiên cứu 
Nhận diện cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ trong quá trình lịch sử, trình bày 
diện mạo, chức năng, giá trị và vai trò của nó trong xã hội truyền thống và đương 
đại. 
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 
 2.2.1. Tìm hiểu sự vận động của cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ trong diễn 
trình lịch sử 
 2.2.2. Phân tích các chức năng, giá trị của cổng làng truyền thống 
 2.2.3. Khảo sác các xu hướng ứng xử hiện nay với cổng làng 
 2.2.4. Trình bày những suy nghĩ về vai trò của cổng làng trong xã hội đương 
đại, dự báo số phận của nó trong tương lai. 
 Nhằm thực hiện những nhiệm vụ trên, tức là tác giả luận án đã trả lời cho các 
câu hỏi nghiên cứu sau: 
- Cổng làng ra đời từ bao giờ, diện mạo, chức năng xã hội và giá trị của nó ra 
sao? 
- Cổng làng biến đổi như thế nào trong cuộc sống hiện nay? 
 3 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 
3.1. Đối tượng nghiên cứu 
 Đối tượng nghiên cứu của luận án là các cổng làng truyền thống và cổng làng 
mới ở châu thổ Bắc Bộ từ xưa đến nay. 
3.2. Phạm vi nghiên cứu 
 3.2.1.Không gian nghiên cứu 
 Không gian nghiên cứu là cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ. Châu thổ Bắc Bộ là 
một vùng rộng lớn, bên cạnh việc cố gắng bao quát bức tranh chung, tình hình 
chung, nghiên cứu sinh chọn những điểm nghiên cứu có tính đại diện. 
 Trước hết, NCS chú ý đến những cổng làng là đại diện cho bốn tiểu vùng 
Đông, Tây, Nam, Bắc của Bắc Bộ xưa. Về xứ Đông, chúng tôi khảo sát cổng làng 
Cầu Nôm (nay thuộc Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên), (H1)1. Về xứ Đoài (phía Tây) chúng 
tôi khảo sát cổng làng Mông Phụ (nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội), 
(H2). Về phía Nam, nghiên cứu sinh khảo sát cổng làng Tây Bình Cách (xã Đông 
Xá), (H3); cổng Tây (thôn Duyên Hà, xã Đông Kinh), (H4), cả hai cổng làng này đều 
thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Về xứ Bắc, chúng tôi khảo sát một số cổng 
làng xã Dương Xá2 (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội), (H5); cổng làng Đồng Kị 
(nay thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), (H6); cổng làng Thổ Hà (nay thuộc huyện 
Việt Yên, tỉnh Bắc Giang), (H7). 
 Thứ hai, NCS chú ý đến những tiêu chí đại diện khác. Cổng làng Ước Lễ 
(nay thuộc Thanh Oai, Hà Nội ), là cổng làng cổ được coi là đẹp nhất châu thổ Bắc 
Bộ, là cổng trước của một làng nông nghiệp có hai nghề phụ nổi tiếng là nghề giã 
giò và nghề may mặc. Cổng làng Mông Phụ là chiếc cổng cổ nhất còn giữ được cho 
đến nay (H8). Cổng làng Cầu Nôm là cổng của một làng buôn bán trước Cách mạng 
tháng Tám năm 1945. Làng này có nghề buôn đồng nát nổi tiếng: “Bao nhiêu đồng 
nát thì về Cầu Nôm, con gái nỏ mồm thì ở với cha” (tục ngữ). Cổng làng Thổ Hà là 
cổng làng nghề gốm lâu đời. Cổng làng Đồng Kị là cổng của một làng có quá trình 
1 (H1), (H2), (H3)... tương ứng với hình ảnh trong phụ lục. 
2 Xã Dương Xá gồm có sáu thôn: Dương Đanh, Dương Đá, Dương Đình, Thuận Tiến 
Thuận Quang, Yên Bình. 
 4 
đô thị hóa rất nhanh, tiêu biểu cho loại làng “vươn ra phố” (Nguyễn Thị Phương 
Châm). Cổng làng Tây Bình Cách và cổng Tây làng Duyên Hà, Thái Bình tiêu biểu 
cho loại cổng của những làng thuần nông. Một số cổng hiện còn ở đường trên phố 
Thụy Khuê (quận Tây Hồ, Hà Nội hiện nay), như Hồ Khẩu, Trích Sài, Bái Ân, 
Võng Thị... là loại cổng vốn là của làng xóm xưa kia, nay bị kẹt cứng trong không 
gian đô thị (H9). Cổng làng Dương Xá (Gia Lâm, Hà Nội) nằm ngay sát nội đô Hà 
Nội, cũng là một kiểu cổng cần tìm hiểu. 
 Ngoài ra, trong những phân tích cụ thể, trong những vấn đề cụ thể, chúng tôi 
sẽ phân tích những cổng làng khác nữa. 
 3.2.2.Thời gian nghiên cứu 
 Tác giả luận án bắt đầu nghiên cứu cổng làng Bắc Bộ từ năm 2009 đến tháng 
8 năm 2015. Những thông tin về thời gian trước năm 2009 là những thông tin hồi cố 
từ các cán bộ dân làng địa phương hoặc tác giả thu thập từ thư tịch, báo chí. 
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 
4.1. Phương pháp luận 
 Khi nghiên cứu cổng làng người Việt ở Bắc Bộ, tác giả luận án luôn luôn đặt 
cổng làng trong bối cảnh của làng (bao gồm điều kiện địa lí tự nhiên, không gian 
vật lí và không gian văn hóa xã hội). 
 Khi nghiên cứu cổng làng người Việt ở Bắc Bộ nghiên cứu sinh nhìn đối 
tượng trong sự vận động, vận dụng những tri thức về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật để 
lí giải sự biến đổi, sự xuất hiện những yếu tố mới, sự vắng bóng những yếu tố cũ. 
4.2.Phương pháp nghiên cứu 
Để thực hiện đề tài luận án, NCS sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu. 
 Trước hết là phương pháp tập hợp các tài liệu thứ cấp. Tài liệu viết về cổng 
làng khá hiếm. Nhiều khi trong một cuốn sách, trong một bài tạp chí, chúng tôi chỉ 
tìm được mươi dòng có thông tin liên quan đến đề tài luận án. Thí dụ trong cuốn 
sách của Phan Hữu Dật, NCS chỉ tìm thấy một dòng thông tin: “Các làng miền 
Trung nước ta làm gì có cổng làng” [20, tr.116]. Chúng tôi đã đọc hết ba cuốn sách 
về văn bia mà không thấy một thông tin nào về cổng làng [110], [127], [128]. NCS 
 5 
đã đọc kĩ hai cuốn sách sưu tập 3000 và 5000 hoành phi, câu đối Hán Nôm do Trần 
Lê Sáng chủ biên mà không tìm thấy một thông tin nào về cổng làng [90], [91]. 
 Thứ hai, từ những gợi ý của các tác giả đi trước, NCS tiến hành khảo sát thực 
địa. NCS khảo sát 47 cổng làng tại Hà Nội và các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái 
Bình, Hưng Yên. Chúng tôi đã chụp ảnh, hỏi chuyện người dân địa phương. Có 
những cổng làng NCS đi đến nhiều lần như cổng làng Đường Lâm, cổng làng 
Dương Xá, cổng làng Đồng Kỵ, cổng làng Duyên Hà, cổng làng Cầu Nôm, cổng 
làng Ước Lễ,... 
 Thứ ba, NCS sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp trong nghiên 
cứu văn hóa dân gian. Về phương pháp này, Đinh Gia Khánh đã trình bày chi tiết 
trong cuốn sách của Viện Văn hóa dân gian: Văn hóa dân gian những phương pháp 
nghiên cứu (1990) [126]. Tiếp thu những gợi ý của tác giả, NCS hiểu cổng làng là 
một tổng thể, nhiều yếu tố. Để hiểu nó, cần phân tích những yếu tố cụ thể để nghiên 
cứu sau đó sẽ tổng hợp lại. 
 Thứ tư, phương pháp phỏng vấn chuyên gia cũng được sử dụng. NCS đã 
phỏng vấn GS.TSKH Phan Đăng Nhật và PGS.TS Nguyễn Xuân Đức. Cả hai vị đều 
là nhà nghiên cứu văn hóa, văn hóa dân gian. Đặc biệt GS.Phan Đăng Nhật năm nay 
84 tuổi (sinh năm 1931). Kí ức của ông cho biết tình hình cổng làng ở làng quê ông 
trước cách mạng tháng Tám 1945. PGS.TS Nguyễn Xuân Đức (sinh năm 1948), 
hiện đang nghỉ hưu ở Hà Nội. Ông cho tôi biết văn hóa ở làng quê ông hiện nay ở 
huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ngoài ra, nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh được đào 
tạo về Hán học, có nhiều năm giữ cương vị Giám đốc Sở Văn hóa thông tin tỉnh 
Thái Bình. Ông giúp đỡ chúng tôi những hiểu biết về một vùng quê lúa và cổng 
làng trước kia. Không chỉ qua trò chuyện, ông còn trực tiếp dẫn chúng tôi đến hai 
cổng làng cổ ở Thái Bình. Về Hán học, chúng tôi nhận được sự giúp đỡ của nhà 
giáo TS. Nguyễn Ngọc Lân, Trường Đại học Hà Nội. Ông đã thể hiện các chữ Hán 
mà ở phần câu đối, tác giả Vũ Kiêm Ninh chỉ mới phiên âm bằng chữ quốc ngữ. 
Ông cũng góp phần trao đổi về ý nghĩa của một số điển tích. 
 Thứ năm, NCS sử dụng phương pháp so sánh. NCS sẽ so sánh giữa các cổng 
làng với nhau để hiểu cái chung và nét riêng của từng khu vực và từng thời đại. 
 6 
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án 
5.1. Đưa ra cái nhìn hệ thống về cổng làng của người Việt ở Bắc Bộ từ góc 
nhìn văn hóa học, trình bày những mốc chính trong diễn trình lịch sử của nó (trong 
điều kiện tài liệu hiện nay cho phép), mô tả và phân loại chi tiết về cổng làng. 
5.2. Phân tích có hệ thống các chức năng, giá trị của cổng làng, nhìn nhận vai 
trò của các chức năng này trong diễn trình lịch sử. 
5.3.Trình bày các xu hướng ứng xử với cổng làng trong cuộc sống đương 
đại, đề xuất những suy nghĩ để các nhà quản lí và giới nghiên cứu tham khảo. 
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án 
6.1. Ý nghĩa lí luận 
 6.1.1. Góp phần vào việc nhận diện cảnh quan, đời sống văn hóa, tâm linh ở 
nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhận diện sự biến đổi 
của những yếu tố này trong thời đại mới. 
 6.1.2. Làm rõ vai trò qua lại giữa các thành tố trong một hệ thống với toàn bộ 
hệ thống và sự tương tác giữa các yếu tố trong một hệ thống. 
6.2. Ý nghĩa thực tiễn 
 6.2.1. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà 
quản lí, các cấp có thẩm quyền trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống, hoạch định, 
xây dựng nông thôn mới hiện nay. 
 6.2.2. Bản luận án sẽ góp phần vào nhận thức của người dân Việt nói chung, 
của thế hệ trẻ nói riêng trên con đường tìm về cội nguồn, hướng về cội nguồn, trong 
đạo lí uống nước nhớ nguồn và từ đó thêm yêu quê hương, đất nước. 
7. Cơ cấu của luận án 
Trong phần chính văn, ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, bản luận 
án có bốn chương như sau: 
Chương 1. Lịch sử nghiên cứu cổng làng, tổng quan về châu thổ Bắc Bộ và 
làng Việt, lý thuyết vận dụng (tr.8 - tr.438) 
Chương 2. Nhận diện cổng làng truyền thống Bắc Bộ (tr.46 - tr.80) 
 7 
 Chương 3. Chức năng và giá trị của cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ (tr.84 - 
tr.104) 
 Chương 4. Cổng làng trong lịch sử và trong cuộc sống đương đại, những vấn 
đề bàn luận (tr.116 - tr.125) 
 Ngoài ra, luận án còn có một phụ lục, nhằm làm rõ thêm nội dung của phần 
chính văn. 
 8 
Chương 1 
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU CỔNG LÀNG, TỔNG QUAN VỀ CHÂU THỔ BẮC 
BỘ VÀ LÀNG VIỆT, LÝ THUYẾT VẬN DỤNG 
1.1. Lịch sử nghiên cứu cổng làng 
 Khi nghiên cứu cổng làng, văn bia là một trong những nguồn tài liệu thu hút 
sự chú ý của chúng tôi. Văn bia thời Mạc (1996) của Đinh Khắc Thuân [110] giới 
thiệu 147 văn bia và một bài minh văn khắc trên chuông đồng chùa Tư Phúc (ở Thái 
Bình). 148 trong số tài liệu này, văn bia ở chùa chiếm đại đa số (nói về việc công 
đức tu sửa chùa, làm giếng chùa, dựng cầu vào chùa, làm lại hướng mới của 
chùa,). Ngoài ra còn có bia đền thần, bia ghi lại công tích, sự nghiệp của danh 
nhân, Trong công trình Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt 
làng xã (2003), tác giả Phạm Thị Thùy Vinh cho biết số lượng bia thời Lê; dựng và 
phân bố ở các địa điểm như sau: chùa 556 bia; đình 302 bia; đền, miếu 50 bia; văn 
chỉ 40 bia; từ đường 36 bia; lăng mộ 22 bia; từ chỉ 19 bia; cầu 15 bia; chợ 9 bia; 
sinh từ 7 bia; điếm 6 bia; am 1 bia [127]. Trong Tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà 
Nội. Tuyển tập văn khắc Hán Nôm (2010), chủ biên Phạm Thị Thùy Vinh và các 
đồng soạn giả biên dịch 135 bài minh văn, nội dung chủ yếu của các văn bản này 
nói về việc dựng chùa, tu sửa chùa, làm đình, đúc chuông, cung tiến ruộng đất, lập 
từ đường, [128]. 
 Trong tất cả ba cuốn sách nêu trên, không có một văn bia nào nói về việc xây 
hoặc tu sửa cổng làng! 
 Cổng làng thường có các câu đối. Chính vì vậy, chúng tôi đã tìm đọc cuốn 
3000 hoành phi, câu đối Hán Nôm (2003) do Trần Lê Sáng chủ biên [90], cuốn 
5000 hoành phi, câu đối Hán Nôm (2015) cũng do Trần Lê Sáng chủ biên [91]. 
Đáng tiếc, hai cuốn sách không cho nghiên cứu sinh một thông tin nào về cổng 
làng. 
 9 
 Những tài liệu đề cập đến cổng làng thực sự ít ỏi. Số lượng tài liệu không chỉ 
ít, trong mỗi tài liệu, đại đa số các tác giả lại chỉ viết rất ít về cổng làng. 
1.1.1. Tài liệu viết không tập trung về cổng làng 
Pierre Gourou (1900 - 1999), nhà sử học và địa lí học người Pháp công bố cuốn 
sách Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ vào năm 1936. Khi viết về làng của người Việt, 
tác giả đặc biệt chú ý đến lũy tre và đã viết về cổng làng. Ông cho biết số lượng cổng 
của một làng, chất liệu xây dựng, kích thước của cổng và công dụng của cổng. Cuốn 
sách của ông còn có một bức ảnh về cổng làng Đông Viên, thôn Chu Quyến, phủ 
Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội) [29]. 
Năm 1939 khi viết về khu phố buôn bán ở Hà Nội, Henri Bernard nhận thấy: 
“Những bức tường bao và những cổng phố được đóng lại vào ban đêm, đã chia cắt 
những phường khác nhau, với số lượng là 36, mỗi một phường lại chia thành hai 
phường nhỏ” [7, tr.79]. Tác giả không mô tả cổng phố, không có ảnh chụp và không 
cho biết cổng phố có khác cổng làng không, nó được làm bằng chất liệu gì. Chúng 
tôi không nhận được thông tin cụ thể về hình dáng, kích thước và chất liệu làm 
cổng. 
 Vào nửa cuối những năm 60 của thế kỉ trước, tại Sài Gòn, trong cuốn sách 
Làng xóm Việt Nam với hơn 270 trang, tác giả Toan Ánh chỉ dành hai đoạn miêu tả 
cổng làng: một đoạn gồm 8 dòng (viết về chiếc cổng xây), một đoạn 15 dòng (viết 
về cổng tre). Cả hai chiếc cổng này đều ở Bắc Bộ [1,tr.6,10]. 
 Năm 1977, trong cuốn sách nhiều tác giả, trong bài “Về vai trò của làng xã 
trong sự nghiệp đấu tranh vũ trang giữ nước ở Việt Nam thời xưa”, tác giả Lê Văn 
Lan cho biết từ đầu Công nguyên, người Trung Quốc đã nói đến những lũy tre gai 
“không sao công phá được” ở các làng Việt, ghi nhận từ thế kỉ thứ XIII, sứ giả nhà 
Nguyên là Trần Phu đã viết về các bụi tre gai ở Đại Việt. Từ đó tác giả nghĩ rằng đi 
kèm với lũy tre là cổng làng với hai hình thức thô sơ (cổng tre) và kiên cố (cổng xây 
bằng gạch). Tác giả không chỉ ra được những cái cổng đó được sách vở, tác giả nào 
ghi nhận [123]. Trong cuốn sách vừa nêu, trong bài “Làng xã trong cuộc kháng 
chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông (thế kỉ XIII)”, tác giả Phùng Văn Cường 
 10 
cũng dẫn câu văn mà sứ giả Trần Phu ghi nhận những bụi tre gai nước Việt, và 
không nói gì về cổng làng [123, tr.262]1. 
 Năm 1978, trong bài “Tìm hiểu về sự cư trú ở một số làng xã trên miền đồng 
bằng Bắc Bộ”, tác giả Huy Vu dành hai đoạn văn (đoạn dài nhất không quá một 
trang) miêu tả cả