Luận văn Ảnh hưởng của các loài tảo khác nhau đến sự sinh trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng hầu Thái Bình Dương

Trong những năm gần đây, nghề nuôi trồng thủy sản đã phát triển nhanh chóng, đa dạng hóa cả về hình thức cũng như đối tượng nuôi. Trong đó, động vật thân mềm được xem như là những đối tượng rất có tiềm năng trong nuôi trồng thủy sản và đang thu hút sự quan tâm của nhiều người. Hầu Thái Bình Dương Crassostrea gigas là loại động vật thân mềm hai mảnh vỏ phân bố và được ứng dụng vào nuôi rộng rãi trên khắp thế giới, bắt đầu phát triển nuôi tại Việt Nam vì giá trị kinh tế và giá trị dinh dưỡng rất cao. Thịt hầu thơm ngon và bổ, giá trị dinh dưỡng cao (chứa 45 – 75% protein, 7 -11% lipid, 19 – 38% glucid, nhiều chất khoáng và vi-ta-min), có thể bổ sung nguồn dinh dưỡng cần thiết cho người cao tuổi, chống béo phì và nâng cao tầm vóc nên hầu là loài có giá trị kinh tế lớn. Thịt hầu có thể ăn sống (với wasabi và chanh đang được hầu hết các nước ưa chuộng), nấu chín, phơi khô hay đóng hộp. Ngoài giá trị làm thức ăn, nó còn có giá trị y học; vỏ hầu dùng để nung vôi, làm bột phấn, làm vật bám để nuôi hầu hay các loài hải sản khác. Do những giá trị trên nên mặc dù nguồn lợi hầu này rất lớn nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng. Để đáp ứng được nhu cầu đó, nghề nuôi hầu đang được phát triển ở nhiều nước trên thế giới như: Pháp, Italia, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản với quy mô rất lớn để phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Ở Việt Nam, phong trào nuôi hầu phát triển mạnh ở Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu từ năm 2004 trở lại đây nhưng chưa đủ số lượng lớn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là chưa chủ động tạo ra được nguồn giống nhân tạo đủ về số lượng và chất lượng cho nuôi.

doc42 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1952 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ảnh hưởng của các loài tảo khác nhau đến sự sinh trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng hầu Thái Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG KHOA NUÔI TRỒNG THỦY SẢN LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC LOÀI TẢO KHÁC NHAU ĐẾN SỰ SINH TRƯỞNG VÀ TỈ LỆ SỐNG CỦA ẤU TRÙNG HẦU THÁI BÌNH DƯƠNG Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Nguyệt Ánh MSSV: 46135242 Giáo viên hướng dẫn Th.S Phùng Bảy Th.S Cái Ngọc Bảo Anh BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG KHOA NUÔI TRỒNG THỦY SẢN ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC LOÀI TẢO KHÁC NHAU Nannochloropsis sp., Chaetoceros sp., Isochrysis sp. ĐẾN SỰ SINH TRƯỞNG VÀ TỈ LỆ SỐNG CỦA ẤU TRÙNG HẦU THÁI BÌNH DƯƠNG Crassostrea gigas (Thunberg, 1793) Luận văn tốt nghiệp Chuyên ngành nuôi trồng thuỷ sản, khoá 2004 – 2009 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Nguyệt Ánh MSSV: 46135242 Giáo viên hướng dẫn Th.S Phùng Bảy Th.S Cái Ngọc Bảo Anh Nha Trang, tháng 11 năm 2008 LỜI CẢM ƠN Sau hơn ba tháng thực hiện và hoàn thành đề tài tốt nghiệp, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô trong Khoa Nuôi Trồng Thủy Sản, các cô chú, anh chị tại Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản III, thư viện trường Đại Học Nha Trang, thư viện Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản III. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới ThS. Phùng Bảy, ThS. Cái Ngọc Bảo Anh, KS. Phan Thị Thương Huyền đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong quá trình thực hiện đề tài tốt nghiệp. Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình và những người bạn luôn động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Nha Trang, ngày 04 tháng 11 năm 2008 Sinh viên Nguyễn Thị Nguyệt Ánh MỤC LỤC Trang Lời cảm ơn i Mục lục ii Chữ viết tắt và ký hiệu iv Danh mục các bảng v Danh mục các hình vi Phần I: MỞ ĐẦU 1 Phần II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 1. Tình hình nghiên cứu hầu Thái Bình Dương 3 1.1. Trên thế giới 3 1.2. Việt Nam 8 2. Nghiên cứu sử dụng tảo làm thức ăn cho ấu trùng động vật thủy sản 10 2.1. Nghiên cứu thành phần dinh dưỡng của một số loài vi tảo 11 2.2. Nghiên cứu nuôi và sử dụng vi tảo làm thức ăn cho ấu trùng động vật thủy sản 13 2.3 Nghiên cứu sử dụng vi tảo làm thức ăn cho ấu trùng động vật thân mềm 14 Phần III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 16 1. Đối tượng địa điểm và thời gian nghiên cứu 16 2. Phương pháp nghiên cứu và kỹ thuật sử dụng 16 2.1. Phương pháp gây nuôi tảo 16 2.2. Phương pháp nghiên cứu ảnh hưởng của các loài tảo đơn bào đến tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng hầu Thái Bình dương 17 2.3. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu 18 Phần IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 22 1. Gây nuôi sinh khối tảo 22 2. Ảnh hưởng của các loài tảo đơn bào đến tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng hầu Thái Bình Dương 24 Phần V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 27 1. Kết luận 27 2. Đề xuất ý kiến 27 TÀI LIỆU THAM KHẢO 28 Phụ lục A Phần I: MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, nghề nuôi trồng thủy sản đã phát triển nhanh chóng, đa dạng hóa cả về hình thức cũng như đối tượng nuôi. Trong đó, động vật thân mềm được xem như là những đối tượng rất có tiềm năng trong nuôi trồng thủy sản và đang thu hút sự quan tâm của nhiều người. Hầu Thái Bình Dương Crassostrea gigas là loại động vật thân mềm hai mảnh vỏ phân bố và được ứng dụng vào nuôi rộng rãi trên khắp thế giới, bắt đầu phát triển nuôi tại Việt Nam vì giá trị kinh tế và giá trị dinh dưỡng rất cao. Thịt hầu thơm ngon và bổ, giá trị dinh dưỡng cao (chứa 45 – 75% protein, 7 -11% lipid, 19 – 38% glucid, nhiều chất khoáng và vi-ta-min), có thể bổ sung nguồn dinh dưỡng cần thiết cho người cao tuổi, chống béo phì và nâng cao tầm vóc nên hầu là loài có giá trị kinh tế lớn. Thịt hầu có thể ăn sống (với wasabi và chanh đang được hầu hết các nước ưa chuộng), nấu chín, phơi khô hay đóng hộp. Ngoài giá trị làm thức ăn, nó còn có giá trị y học; vỏ hầu dùng để nung vôi, làm bột phấn, làm vật bám để nuôi hầu hay các loài hải sản khác. Do những giá trị trên nên mặc dù nguồn lợi hầu này rất lớn nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng. Để đáp ứng được nhu cầu đó, nghề nuôi hầu đang được phát triển ở nhiều nước trên thế giới như: Pháp, Italia, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản…với quy mô rất lớn để phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Ở Việt Nam, phong trào nuôi hầu phát triển mạnh ở Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu từ năm 2004 trở lại đây nhưng chưa đủ số lượng lớn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là chưa chủ động tạo ra được nguồn giống nhân tạo đủ về số lượng và chất lượng cho nuôi. Chính vì vậy việc sản xuất giống nhân tạo là điều cần thiết và cấp bách ngay bây giờ. Trong sản xuất giống nhân tạo, thức ăn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển, tỉ lệ sống, chất lượng con giống của hầu trong giai đoạn ấu trùng và sự mở rộng quy mô sản xuất. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng vi tảo là loại thức ăn tươi sống đặc biệt tốt cho ấu trùng thủy sinh vật, đặc biệt có kích thước nhỏ phù hợp với hầu hết giai đoạn phù du của động vật thân mềm hai mảnh vỏ. Ngoài việc cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng có giá trị như protein, hydrat carbon, vi tảo còn là nguồn cung cấp các loại vi-ta-min B1, B6, B12, C và muối khoáng. Với ý nghĩa kinh tế và nhu cầu thực tiễn như vậy, tôi đã được sự đồng ý của Khoa nuôi trồng thủy sản để thực hiện đề tài: “Ảnh hưởng của các loài tảo khác nhau Nannochloropsis sp., Chaetoceros sp., Isochrysis sp. đến sự sinh trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng hầu Thái Bình Dương Crassostrea gigas (Thunberg, 1793) ”. Với các nội dung sau: 1. Nuôi cấy sinh khối các loài tảo đơn bào Nannochloropsis sp., Chaetoceros sp., Isochrysis sp. làm thức ăn cho ấu trùng hầu. 2. Nghiên cứu ảnh hưởng của các loài tảo khác nhau Nannochloropsis sp., Chaetoceros sp., Isochrysis sp. đến tốc độ sinh trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng hầu Thái Bình Dương. Đề tài được thực hiện nhằm mục đích: nuôi cấy tảo làm thức ăn cho ấu trùng hầu Thái Bình Dương; tìm hiểu được sự kết hợp các loài tảo đơn bào nào thích hợp nhất cho sự sinh trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng hầu. Do kiến thức, hiểu biết của bản thân còn hạn hẹp, thời gian thực hiện đề tài ngắn, bắt đầu làm quen với phương pháp viết báo cáo khoa học, nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các thầy cô và các bạn góp ý kiến để đề tài được hoàn chỉnh hơn. Phần II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU Tình hình nghiên cứu hầu Thái Bình Dương. Trên thế giới: Vị trí phân loại: Ngành Mollusca Lớp Bivalvia Bộ Ostreoida Họ Ostreidae Giống Crassostrea Loài Crassostrea gigas (Thunberg, 1793) Đặc điểm hình thái: Cũng như các động vật thân mềm hai mảnh vỏ khác, hầu Thái Bình Dương có hai vỏ úp lại với nhau và khép mở nhờ cơ khép vỏ. Hai vỏ này rất cứng, thô, khác nhau hình dạng và kích thước: vỏ phải thì nhỏ, nông nằm ở trên còn vỏ trái thì cứng, lớn, sâu dùng để bám chặt vào vật bám và nằm ở dưới. Hầu Thái Bình Dương không có răng bản lề ở bên trong, cơ khép vỏ có màu tím hay nâu trong khi rìa của màng áo có màu đen. Để phân biệt với các loại hầu khác, đặc điểm dễ nhận biết là hầu Thái Bình Dương khi trưởng thành có tỉ lệ chiều dài và chiều rộng vỏ tương đối lớn (khoảng 3/1 so với 2/1 ở hầu cửa sông hay 1,5/1 so với nhiều loại hầu khác). Chính đặc điểm này nên người ta thường gọi hầu Thái Bình Dương là hầu ống hay hầu dài. Ngoài ra hai mép lưng bụng của hầu gần như song song với nhau cũng là một đặc điểm nhận dạng khác (Gosling, 2003). Đặc điểm phân bố: Theo chiều ngang: hầu Thái Bình Dương là động vật thân mềm hai mảnh vỏ thuộc họ Ostreidae thích nghi với phạm vi dao động rộng của các yếu ố môi trường. Chúng là loài bản địa của Đông Bắc châu Á như Nhật Bản nhưng được di chuyển và lan rộng ra nhiều quốc gia như Pháp, Trung Quốc (du nhập vào đầu và cuối những năm 70 của thế kỉ 20), Anh, Mỹ (vào những năm 1950), Ca-na-đa, Bra-xin, Hàn Quốc, Úc (những năm 1960) và Niu-Di-Lân vì mục đích nuôi. Ngoài ra sự phát tán của hầu Thái Bình Dương còn do nguyên nhân khách quan đó là trường hợp hầu bám trên những chiếc tàu lớn và được vận chuyển đi đến khắp nơi. Cho nên có thể nói hầu Thái Bình Dương phân bố toàn cầu. Theo phương thẳng đứng: hầu Thái Bình Dương trưởng thành không có tơ chân và bám chặt trên những vật bám cứng như đá hay vỏ động vật thân mềm khác trong vùng trung triều và vùng hạ triều đến độ sâu khoảng 3 mét nước. Chúng thiên về những vùng nước lợ cửa sông hay những vùng duyên hải gần bờ mặc dù chúng có thể thích nghi với biên độ dao động mạnh của nồng độ muối và các yếu tố môi trường nước nên có thể xuất hiện ở ngoài khơi ở độ sâu khoảng 40 mét nước nhưng mật độ ít và sinh trưởng kém (Gosling, 2003). Đặc điểm sinh học và sinh thái: Nhiệt độ và độ mặn: Nhiệt độ có ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình sống của hầu. Mỗi loài hầu có một phạm vi nhiệt độ thích hợp nhất định, vượt quá phạm vi này thì sự sống của chúng bị giảm sút, thậm chí có khi bị chết. Hầu Thái Bình Dương thích nghi rộng với sự dao động nhiệt độ từ -1,8°C đến +35°C . Nhiệt độ đẻ trứng thường trên 20°C nhưng cũng có ít trường hợp từ 15 - 18°C. Ranh giới độ mặn cực thuận của loài này từ 20 - 25‰ mặc dù chúng có thể xuất hiện tại những vùng nước có độ muối dưới 10‰ và có thể sống sót tại độ muối trên 35‰ nhưng sinh trướng chậm và thường không có khả năng sinh sản Thức ăn và phương thức bắt mồi: Thức ăn của hầu Thái Bình Dương khi trưởng thành là những hạt nhỏ lơ lửng trong nước như vi khuẩn, các loại tảo đáy, ấu trùng của những động vật khác, mùn bã hữu cơ và những chất hòa tan trong nước như amino acid, muối khoáng (đặc biệt là muối calci rất cần thiết cho sự hình thành vỏ). Khi còn trong giai đoạn sống trôi nổi, ấu trùng hầu ăn chủ yếu các loại tảo đơn bào nổi như Isochrysis sp., Chaetoceros sp., Nannochloropsis sp…. Đến giai đoạn sống bám, thức ăn của hầu là các loài tảo đáy và mùn bã hữu cơ. Hầu không có phương thức bắt mồi chủ động, thức ăn nhờ dòng nước đưa đến mang, qua chọn lọc của mang và xúc biện được đưa tới miệng. Chúng chỉ có khả năng chọn lọc thức ăn theo độ lớn: hạt nhỏ thích hợp thì được tiêu thu, hạt lớn không thích hợp thì bị thải ra ngoài. Do đó trong dạ dày của hầu ta còn bắt gặp những hạt không tiêu hóa được. Chi tiết này cho chúng ta biết rằng khi chọn bãi nuôi hay khi ương giống hầu điều quan trọng là chúng ta nên chọn vùng có nước chảy hay nước thủy triều ra vào để đảm bảo thức ăn được mang đến cho hầu thường xuyên. Sinh trưởng: Hầu Thái Bình Dương có tốc độ sinh trưởng nhanh (có thể sinh trưởng hơn 75mm trong vòng 12 tháng đầu tiên). Tuy nhiên tại vùng nước Wadden Sea (Đan Mạch) hầu có thể sinh trưởng đạt 100mm sau 12 tháng nuôi đầu tiên. Hầu Thái Bình Dương có thể sống tới 10 năm và đạt cỡ trung bình khoảng 150 – 200mm (Spenser, 2002) Đặc điểm sinh sản Giống như hầu hết các loại hầu khác, hầu Thái Bình Dương thay đổi giới tính trong vòng đời. Chúng thường tham gia sinh sản đầu tiên như là con đực và sau đó chuyển thành con cái. Các yếu tố môi trường đặc biệt là thức ăn có thể ảnh hưởng tới giới tính của hầu. Trong điều kiện dồi dào thức ăn, hầu đực có xu hướng chuyển giới tính thành con cái và ngược lại trong điều kiện thức ăn hạn chế hay chúng thành lập những quần thể với mật độ quá lớn, toàn bộ là hầu đực. Một số ít cá thể thì lưỡng tính. Việc đẻ trứng phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường và thường diễn ra vào những tháng mùa xuân và mùa hè. Theo Spenser (2002) thì nhiệt độ đẻ trứng của hầu Thái Bình Dương dao động trong khoảng 22 – 250C. Hầu Thái Bình Dương tham gia sinh sản lần đầu sau khoảng một năm (kích thước hầu khoảng 70 – 100mm) và một hầu cái có thể sản sinh ra khoảng 30 – 40 triệu trứng trong một lần đẻ. Việc đẻ trứng thường được tác động bởi các yếu tố môi trường như sự dồi dào của thức ăn và sự nâng lên của nhiệt độ. Quá trình thụ tinh diễn ra trong môi trường nước. Trong điều kiện nhân tạo, thụ tinh chỉ diễn ra trong vòng một giờ hay ngắn hơn sau khi hầu đẻ ở nhiệt độ khoảng 25°C khi trộn trứng và tinh lại với nhau, nếu ngoài thời gian này trứng và tinh trùng thường là bất động không có khả năng thụ tinh. Các giai đoạn phát triển của ấu trùng: - Ấu trùng Trochophore (ấu trùng bánh xe): xuất hiện sau khi trứng thụ tinh khoảng 8 -12 giờ. Ấu trùng có dạng hình bầu dục có gắn đĩa bơi, xung quanh đĩa bơi có tiêm mao bao phủ. Ấu trùng vận động xoay tròn xoắn ốc và thường ngược chiều kim đồng hồ. Ấu trùng Verliger: xuất hiện khoảng 18 – 22 giờ sau khi thụ tinh, ấu trùng có dạng hình chữ D, có hai vỏ và vành tiêm mao nằm ở giữa hai vỏ. Ấu trùng vận động nhanh nhờ sự vận động của vành tiêm mao miệng. Kích thước vỏ ấu trùng có chiều dải khoảng 80µm. Ấu trùng Umbo: đặc trưng của giai đoạn này là sự hình thành các cơ quan bao gồm : giai đoạn sơ kì (tiền Umbo) xuất hiện mầm cơ khép vỏ, giai đoạn trung kì xuất hiện đỉnh vỏ, giai đoạn hậu kì xuất hiện điểm mắt ở dưới trung tâm của cơ quan. Cuối giai đoạn này ấu trùng hình thành chân bò. Đây là dấu hiệu kết thúc giai đoạn sống trôi nổi chuyển sang giai đoạn sống bám cố định. Lúc này kích thước ấu trùng dài nhất đạt 300µm, giai đoạn này thường từ 18 – 22 ngày sau khi trứng thụ tinh. Ấu trùng bám: tính từ ngày thứ 22 – 25 sau khi trứng thụ tinh, hoạt động bơi của ấu trùng giảm dần, ấu trùng chuyển xuống bò dưới đáy, vành tiêm mao và điểm mắt thoái hóa dần. Đặc trưng của giai đoạn này là sự hình thành các tơ chân, màng áo, cơ khép vỏ và một số cơ quan khác. Ấu trùng chuyển hoàn toàn sang giai đoạn sống bám, giai đoạn này kích thước của ấu trùng tăng nhanh. - Hầu giống: khi ấu trùng hoàn toàn biến thái và bám chắc vào vật bám, ấu trùng trở thành hầu con có hình dáng ngoài giống với hầu trưởng thành. Tuy nhiên tùy thuộc vào loại vật bám mà hầu có hình dạng khác nhau. Kích thước đạt từ 1mm. Tình hình sản xuất giống: Mặc dù nuôi hầu đã có lịch sử xuất phát từ lâu đời nhưng sản xuất giống hầu chỉ bắt đầu 40 năm trở lại đây ở một số nước như Nhật (Pacific oyster, Crassostrea gigas), Úc (Sydney Rock oyster, Saccostrea glomerata), Mỹ (Crassostrea virginica) và Pháp. Từ đó tới nay, qui trình sản xuất giống đã dần được hoàn thiện và phát triển ở trình độ cao. Cụ thể là trong những năm đầu của thập niên 90 của thế kỉ XX, sản lượng con giống từ sinh sản nhân tạo chiếm gần 90% của tổng sản lượng hầu giống ở Anh, Ca-na-đa và Mỹ (Wong, 1993). Việc sản xuất giống ở mọi nơi đều theo một trình tự chung là chọn lọc, thu thập hầu bố mẹ và nuôi vỗ, cấy tảo làm thức ăn, kích thích cho đẻ hay cho thụ tinh nhân tạo, ương nuôi ấu trùng và con giống. Hiện nay, xung quanh vịnh Dabob và vịnh Willipa (thuộc bang Washington, Mỹ) có khoảng 11 trại sản xuất giống, họ chia làm 3 phần: một phần sản xuất con giống bán sang các nước châu Âu, một phần để nuôi thành con giống, một phần nữa bán trong giai đoạn ấu trùng điểm mắt. Lượng con giống sản xuất đã tăng lên đáng kể, có khoảng 50.000 thùng giống (1 thùng = 13.000 – 20.000 con) mỗi năm từ vùng ven biển Thái Bình Dương. Một trong những kĩ thuật mới trong công nghệ sản xuất giống là kĩ thuật cho bám đơn đã mang lại một viễn cảnh mới cho nghề nuôi hầu ở Colombia – Anh. Họ có thể sản xuất hàng triệu con giống đơn phục vụ cho nghề nuôi hầu bằng khay và bằng túi của vùng (Cross and Kingzett, 1992, trích theo Hà Đức Thắng, 2005). Ngoài ra, tại một số cơ sở nghiên cứu sản xuất hầu giống tam bội hay tứ bội ở Mỹ và Ca-na-đa, người ta đã dùng hóa chất Epinephrine để tiêu hủy tuyến tiết chất bám vào vật bám cứng của hầu tạo thành những con hầu giống đơn giúp ích nhiều cho nuôi thương phẩm (Gregory, 2008) Tình hình nuôi thương phẩm: Vì hầu là đối tượng rất có giá trị về mặt dinh dưỡng, nên nuôi hầu đã có lịch sử rất lâu đời tại nhiều quốc gia. Trung Quốc là nước đầu tiên đã nuôi hầu vì hầu có giá trị thực phẩm và về y học, nguồn giống ngoài tự nhiên phong phú mà chi phí nuôi thấp. Tại Pháp nuôi hầu đã bắt đầu vào những năm giữa của thế kỉ XVII với loài hầu bản địa Ostrea edulis, nguồn giống cho nuôi được thu từ tự nhiên sử dụng sạp bằng gỗ hay nhựa PVC đặt dưới đáy và được nuôi trong những ao vùng duyên hải. Mãi đến năm 1960, nguồn giống hầu này bị cạn kiệt do khai thác quá mức nên người ta mới nhập khẩu loài hầu Crassostrea angulata từ Bồ Đào Nha để nuôi. Trong những năm 1973, 1974, triệu chứng bệnh mang đã gây chết hầu hàng loạt nên hầu Thái Bình Dương đã được thay thế. Đến năm 2002, sản lượng hầu này chiếm khoảng 98% trong tổng sản lượng hầu nuôi. Với nguồn giống từ tự nhiên hay nhân tạo, nuôi thương phẩm hầu ở Pháp hay các nước châu Âu dựa vào 3 phương pháp chính đó là nuôi đáy, nuôi trong những khung cố định dưới nước và nuôi treo trên những bè trôi nổi (Grizel và Heral, 1991). Tại Úc, nuôi hầu có lịch sử lâu đời với đối tượng nuôi là hầu đá Saccostrea glomerata với phương pháp nuôi truyền thống là cho hầu giống bám vào viên đá hay vỏ sò trưởng thành rồi đặt xuống đáy vùng triều để nuôi. Đến những năm 1950, từ nhận thức rằng nuôi hầu theo kiểu trên dễ bị bùn lấp hay những địch hại khác nên hình thức nuôi được tập trung vào nuôi bằng rổ, lồng hay trên những cọc cắm đất. Nuôi hầu Thái Bình Dương (nhập từ Nhật Bản) được bắt đầu những năm 1970 chủ yếu từ con giống sinh sản nhân tạo và đang là đối tượng nuôi chính của Úc (Spencer, 2002) Việt Nam: Ở Việt Nam, hầu Thái Bình Dương phân bố ở những vùng bãi triều thấp tới độ sâu 10 mét nước ở những vùng nước thuộc tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng (Hà Quang Hiến, 1983). Nguyễn Văn Chung (2001) khi điều tra đánh giá tình hình phân bố của động vật thân mềm hai vỏ trong đầm phá Nam Trung Bộ Việt Nam đã tìm thấy hầu Thái Bình Dương phân bố ở đầm Cù Mông và đầm Ô Loan nhưng với tần số bắt gặp rất thấp. Việt Nam là một nước có nghề nuôi hầu chậm phát triển, các nghiên cứu về phát triển nghề nuôi hầu chỉ mới thực hiện trong những năm cuối của thế kỉ XX với con giống chủ yếu thu vớt từ tự nhiên. Năm 2001 – 2003, Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản I tiến hành thử nghiệm thành công sản xuất giống nhân tạo hầu Thái Bình Dương Crassostrea gigas bằng công nghệ của Úc. Tuy nhiên việc nuôi hầu giống thành hầu thương phẩm còn gặp nhiều khó khăn do hầu có hiện tượng chết hàng loạt (Đồng Xuân Vĩnh, 2004). Từ năm 2001 – 2004, trong khuôn khổ nguồn kinh phí của Bộ Khoa Học & Công Nghệ, đề tài “Nghiên cứu công nghệ sản xuất hầu giống và nuôi hầu Crassostrea sp. thương phẩm” do kĩ sư Hà Đức Thắng làm chủ nhiệm đã được thực hiện nghiên cứu sản xuất giống trên 3 đối tượng hầu phân bố khắp cả nước: hầu Crassostrea rivularis vùng cửa sông ở miền Bắc, hầu C. lugubris ở miền Trung, hầu C. belcheri ở miền Nam (Lê Trọng Phấn và Cao Văn Nguyện, 2003). Đề tài đã xây dựng thành công quy trình sản xuất giống, hoàn toàn chủ động trong các khâu của quy trình, thu được hàng triệu con giống có chất lượng tốt và số lượng lớn hầu thương phẩm, tạo tiền đề cho công cuộc phát triển nghề nuôi hầu ở nước ta. Từ đó trở đi mỗi vùng phát triển theo những hướng khác nhau: đa số các hộ dân miền Bắc (Quảng Ninh, Hải Phòng) nhập con giống hầu C. gigas từ Trung Quốc và Đài Loan về nuôi còn miền Nam có Công ty Nuôi Trồng Thủy Sản và Thương Mại Viễn Thành tiếp tục sản xuất giống các loài hầu C. belcheri, C. rivularis, C. eridalei để cung cấp cho hoạt động nuôi hầu của công ty và bán cho người dân. Với tốc độ phát triển như hiện nay, trong các năm tiếp theo việc nuôi hầu thương phẩm trên cả nước có thể được thực hiện nhờ vào con giống sản xuất nhân tạo. Ở nước ta tuy chưa có văn kiện nào ghi chép rõ ràng nhưng ở nhiều nơi nhân dân đã biết nuôi hầu từ rất lâu đời như bãi hầu ở sông Gianh – Quảng Bình. Ở Lạch Trường , do đê vỡ phải kè đá hàn khẩu, ít lâu sau có hầu đến bám nên hình thành nghề nuôi hầu ở địa phương (Hà Quang Hiến, 1983). Tuy nhiên trong suốt nhiều thập niên nghề nuôi hầu ở Việt Nam không có sự chú ý và phát triển đáng kể. Vào năm 1972 trong chương trình hỗ trợ phi chính phủ, một tổ chức của Nhật Bản đã cử chuyên gia sang giúp Việt Nam tiến hành dự án nuôi loài hầu cửa sông Crassostrea rivularis theo phương pháp vớt giống ngoài tự nhiên ở vùng nước Quảng Yên (Bắc Việt Nam), song do dự án tiến hành trong hoàn cảnh chiến tranh nên dự án kết thúc không đạt được những kết quả như dự định. Theo Hà Lê Thị Lộc v
Luận văn liên quan