Luận văn Biện pháp quản lý công tác sinh viên tại trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, GD&ĐT của mỗi quốc gia đóng vai trò then chốt, trọng yếu trong việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nghị Quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “ Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền Giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta sớm thấy được vai trò to lớn của nguồn nhân lực đối với phát triển KT – XH và việc phát triển nguồn nhân lực thông qua GD&ĐT; Do đó đã có các định hướng và chỉ đạo đúng đắn phát triển GD&ĐT để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đồng thời Đảng ta coi GD&ĐT cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của CNH, HĐH. Cương lĩnh chính trị xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã định hướng: "Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược". Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 nhằm quán triệt và cụ thể hoá các chủ trương, định hướng đổi mới giáo dục và đào tạo, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của đất nước, định hướng GD&ĐT có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam.

doc117 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7417 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Biện pháp quản lý công tác sinh viên tại trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Biện pháp quản lý công tác sinh viên tại trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, GD&ĐT của mỗi quốc gia đóng vai trò then chốt, trọng yếu trong việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nghị Quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “ Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền Giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta sớm thấy được vai trò to lớn của nguồn nhân lực đối với phát triển KT – XH và việc phát triển nguồn nhân lực thông qua GD&ĐT; Do đó đã có các định hướng và chỉ đạo đúng đắn phát triển GD&ĐT để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đồng thời Đảng ta coi GD&ĐT cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của CNH, HĐH. Cương lĩnh chính trị xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã định hướng: "Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược". Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 nhằm quán triệt và cụ thể hoá các chủ trương, định hướng đổi mới giáo dục và đào tạo, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của đất nước, định hướng GD&ĐT có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Giáo dục Đại học có một sứ mệnh rất to lớn là đào tạo nguồn nhân lực để phát triển đất nước theo yêu cầu của Đảng. Để đào tạo được nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi mới, Giáo dục Đại học không chỉ nghiêng về đào tạo kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp mà phải hết sức chú ý đến giáo dục đạo đức, lý tưởng làm người. Muốn vậy nhà trường Đại học phải coi trọng quản lý công tác sinh viên, đây là một nhiệm vụ quan trọng, phức tạp, nặng nề có tác dụng mạnh mẽ đối với chất lượng đào tạo của các trường đại học. Trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng là một trường Đại học được thành lập theo quyết định số 270/QĐ – TTg, ngày 27/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ, là một trường tư thục, tọa lạc tại Thành phố Đà Nẵng, một thành phố đang ra sức hội nhập, phát triển, một thành phố năng động nhưng cũng bị tác động thường xuyên của mặt trái cơ chế thị trường. Một nhà trường chưa có khu KTX để sinh viên nội trú, vấn đề quản lý sinh viên ngoại trú của nhà trường là mối quan tâm lớn của lãnh đạo nhà trường. Trong những năm qua quản lý công tác sinh viên của nhà trường đã có những tiến triển nhất định, tuy nhiên, với quy mô đào tạo ngày một tăng, việc giáo dục SV trong học tập, tu dưỡng rèn luyện, nâng cao ý thức đạo đức nắm vững kiến thức chuyên môn đòi hỏi hệ thống tổ chức, đội ngũ, biện pháp quản lý, sự phối hợp của các phòng ban chức năng trong việc quản lý SV là những vấn đề mà nhà trường đang quan tâm, tìm những biện pháp để giải quyết. Là một người trực tiếp làm công tác quản lý sinh viên, với mong muốn ứng dụng những kiến thức quản lý đã học cũng như với kinh nghiệm của bản thân, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả quản lý của nhà trường, vì thế, chúng tôi chọn đề tài: "Biện pháp quản lý công tác sinh viên tại trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng" làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu đề xuất các biện pháp Quản lý công tác sinh viên của phòng công tác sinh viên trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho sinh viên tại trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài 3.2. Khảo sát, phân tích thực trạng quản lý công tác sinh viên tại trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng 3.3. Đề xuất các biện pháp Quản lý Công tác sinh viên tại trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4.1. Khách thể nghiên cứu: Biện pháp quản lý công tác sinh viên tại trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng 4.2 Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý công tác sinh viên tại trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng 5. Giả thiết khoa học Nếu tìm ra được những biện pháp quản lý SV tại trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng khả thi và phù hợp với yêu cầu đổi mới công tác quản lý của nhà trường thì công tác quản lý SV của trường sẽ có hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho SV. 6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu biện pháp quản lý công tác sinh viên của phòng công tác sinh viên tại trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng. 7. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu sau: 7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, khái quát các tài liệu nghiên cứu lý luận, các văn bản Nghị quyết của Đảng, Nhà nước và các quy chế, quy định của ngành giáo dục và đào tạo có liên quan đến đề tài nhằm xác lập cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu. 7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn gồm: Phương pháp điều tra qua các phiếu khảo sát; phương pháp xin ý kiến chuyên gia; phương pháp đàm thoại; phương pháp tổng kết kinh nghiệm nhằm khảo sát đánh giá thực trạng quản lý công tác sinh viên tại trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng và góp phần đề xuất biện pháp cho vấn đề nghiên cứu. Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp thông kê toán học để xử lý kết quả nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu những báo cáo tổng kết về công tác quản lý sinh viên để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý sinh viên tại trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng nhằm đạt hiệu quả cao nhất. 8. Đóng góp của luận văn - Về lý luận: Hệ thống hoá các cơ sở lý luận Quản lý công tác sinh viên của trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng. - Về thực tiễn: Đề xuất các biện quản lý công tác sinh viên của trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng nhằm nâng cao chất lượng toàn diện cho SV. 9. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài. Chương 2: Thực trạng Quản lý công tác sinh viên tại trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng. Chương 3: Biện pháp quản lý công tác sinh viên tại trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan của vấn đề nghiên cứu Giáo dục là một chức năng của xã hội loài người, được thực hiện một cách tự giác, vượt qua ngưỡng “tập tính” của các giống loài động vật bậc thấp khác. Cũng như mọi hoạt động khác của xã hội loài người, sự ra đời của hoạt động giáo dục gắn liền với sự ra đời của hoạt động quản lý giáo dục và từ đó cũng xuất hiện khoa học về QLGD. Là người học, người học vừa là đối tượng đào tạo, vừa là mục tiêu đào tạo. Để nâng cao chất lượng đào tạo ngoài việc xem xét các yếu tố người dạy, nội dung, chương trình, cơ sở vật chất...thì không thể không nghiên cứu trực tiếp là đối tượng người học. Xung quanh vấn đề người học có rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu trong đó có vấn đề người học trong quá trình đào tạo tại các cơ sở giáo dục. Trước đây, phần lớn SV đến học tại các trường Đại học, Cao đẳng hầu hết đều được ở trong KTX nhưng hiện nay nhu cầu về chỗ ở, đặc biệt là đối với các trường Đại học, cao đẳng ngoài công lập không có ký túc xá sinh viên, hầu hết là ở ngoại trú, trong khi đó các cơ sở GD đại học, cao đẳng quy mô đào tạo của các nhà trường Cao đẳng, Đại học trong những năm gần đây phát triển không ngừng. Vấn đề nghiên cứu về quản lý sinh SV ngoại trú ít được đề cập. Đối với trường Đại học, quy chế trường đại học tư thục đã được sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục ban hành kèm theo Quyết định số 61/2009/QĐ-TTg ngày 17 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ. Năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quyết định số 42/2007/BGD&ĐT ngày 13 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế học, sinh viên các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy và Thông tư 27/2009/TT – BGDĐT ngày 19 tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các trường trong việc tổ chức quản lý sinh viên ngoại trú hệ chính quy, quyền và nghĩa vụ của học sinh, sinh viên trong các khâu liên quan đến việc tạm trú sinh hoạt, học tập tại địa phương nới trường đóng trên địa bàn. Trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng cũng gặp phải vấn đề khó khăn trong công tác quản lý sinh viên như các trường đại học, cao đẳng khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Trước đặc thù một trường Đại học không có khu nội trú, 100% sinh viên của trường đều ở ngoại trú, đội ngũ cán bộ làm công tác sinh viên còn thiếu, chưa có kinh nghiệm trong quản lý sinh viên. Đây là vấn đề đặc biệt quan tâm trong công tác quản lý sinh viên. Do vậy tôi chọn đề tài “Biện pháp quản lý công tác sinh viên tại trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng” làm đề tại nghiên cứu luận văn thạc sĩ. 1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài 1.2.1. Quản lý 1.2.1.1 Khái niệm quản lý Lịch sử đã chứng minh rằng, để tồn tại và phát triển, ngay từ khi loài người xuất hiện trên trái đất, con người đã liên kết với nhau thành nhóm để thực hiện những mục tiêu mà họ không thể đạt được với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, nhằm chống lại sự tiêu diệt của thú dữ và thiên nhiên, đồng thời cũng xuất hiện một loạt các mối quan hệ: Quan hệ con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với xã hội và cả con người với chính bản thân con người. Trong quá trình đó đã xuất hiện một số người có năng lực chi phối được người khác, cũng như điều khiển mọi hoạt động của nhóm sao cho phù hợp với mục tiêu chung. Những người đó đóng vai trò thủ lĩnh để quản lý nhóm, điều đó đã làm nảy sinh nhu cầu về quản lý. Như vậy, hoạt động quản lý xuất hiện từ rất sớm như một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân hướng tới những mục tiêu chung và nó tồn tại, phát triển cho đến ngày nay. Nói đến hoạt động quản lý, người ta thường nhắc đến ý tưởng sâu sắc của Các Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa sự hoạt động của cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng ” [11,tr.480]. Còn theo H.Koontz “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được mục đích của tổ chức. Mục đích của mọi nhà quản lý là hình thành môi trường mà trong đó con người có thể đạt được mục đích của tổ chức. Mục đích của mọi nhà quản lý là hình thành môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của mình với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất” [21,tr. 33]. Nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam, xuất phát từ các góc độ khác nhau cũng đã đưa ra những khái niệm quản lý: Xuất phát từ các loại hình hoạt động quản lý, các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra” [10,tr. 1]. Một xu hướng nghiên cứu phương pháp luận quản lý ở Việt Nam trong cuốn “Khoa học quản lý” của nhiều tác giả: Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Quốc Chí... cho rằng: “Hoạt động quản lý nhằm làm cho hệ thống vận động theo mục tiêu đặt ra tính đến trạng thái có chất lượng mới” [3,tr.176]. Quản lý về bản chất bao gồm quá trình “quản” và quá trình “lý”. “Quản” là coi sóc giữ gìn, duy trì sự ổn định của hệ. “Lý” là sửa sang, sắp xếp, đổi mới, tạo ra sự phát triển của hệ. Hệ ổn định mà không phát triển tất yếu sẽ suy thoái. Hệ phát triển mà không ổn định tất yếu sẽ dẫn đến rối ren. Quản lý nhằm ngăn chặn mọi sự suy thoái và rối ren. Nếu người đứng đầu tổ chức chỉ lo việc “quản” tức là chỉ lo việc coi sóc, giữ gìn thì tổ chức dễ trì trệ, tuy nhiên nếu chỉ quan tâm tới việc “lý” tức là chỉ lo việc sắp xếp tổ chức, đổi mới mà không đạt nền tảng của sự ổn định, thì sự phát triển của tổ chức không bền vững. Trong “quản” phải có “lý” trong lý phải có “quản” để động thái của hệ ở thế cân bằng động. Hệ vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả mong muốn tương tác giữa các yếu tố bên trong với các nhân tố bên ngoài. Qua các cách giải thích về quản lý của các tác giả trong và ngoài nước, tuy có nhiều cách hiểu, cách diễn đạt khác nhau, song có thể kết luận: Quản lý là hệ thống những tác động có chủ định, phù hợp với quy luật khách quan của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý (đối tượng quản lý) nhằm khai thác và tận dụng tốt nhất những tiềm năng và cơ hội của khách thể quản lý để đạt đến mục tiêu quản lý trong một môi trường luôn biến động. Quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Là khoa học vì nó là những tri thức được hệ thống hóa và là đối tượng nghiên cứu khách quan đặc biệt. Quản lý là khoa học nghiên cứu, lý giải các mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ giữa chủ và khách thể quản lý. Là nghệ thuật bởi nó là hoạt động đặc biệt đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế và linh hoạt trong việc sử dụng những kinh nghiệm đã quan sát được, những tri thức đã được đúc kết nhằm tác động một cách có hiệu quả nhất tới khách thể quản lý. Như vậy, quản lý là một khái niệm rộng bao gồm nhiều lĩnh vực, mỗi một lĩnh vực có một hệ thống lý luận riêng: các nhà kinh tế thiên về quản lý nền sản xuất xã hội, các nhà luật học thiên về quản lý nhà nước, các nhà điều khiển học thiên về quan điểm cho hệ thống. Cho nên khi đưa các định nghĩa về quản lý, các tác giả thường gắn với các loại hình quản lý cụ thể hoặc phụ thuộc nhiều vào lĩnh vực hoạt động hay nghiên cứu của mình. Nhưng, bất cứ một tổ chức, một lĩnh vực nào, từ sự hoạt động của nền kinh tế quốc dân, của một doanh nghiệp, một đơn vị hành chính sự nghiệp.... đến một tập thể nhỏ như tổ chuyên môn, tổ sản xuất, bao giờ cũng có hai phân hệ: người quản lý và đối tượng được quản lý. Đó là một loại hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng dựa trên sự phân công và hợp tác để làm một công việc nhằm đạt một mục tiêu chung. Vì vậy, những nhà quản lý phải luôn luôn mềm dẻo, linh hoạt để vận dụng những nguyên tắc quản lý khác nhau trong từng lĩnh vực và tình huống cụ thể cho phù hợp nhằm đạt được hiệu quả quản lý cao nhất. * Các chức năng quản lý + Lập kế hoạch (thiết kế mục tiêu, chương trình hành động). + Tổ chức, chỉ đạo: Phân công công việc, sắp xếp con người, điều hành cá nhân và tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch. + Kiểm tra (giám sát hoạt động của bộ máy nhằm kịp thời điều chỉnh sai sót, đưa bộ máy đạt mục tiêu đã xác định). + Thông tin (là công cụ không thể thiếu trong hoạt động quản lý, cần thiết cho tất cả các chức năng quản lý. Đây là quá trình hai chiều, trong đó mỗi người vừa là nguồn phát vừa là nguồn thu nhận) [26,t r.2]. Có bốn chức năng cơ bản của quản lý liên quan mật thiết với nhau, đó là: lập kế hoạch; tổ chức, chỉ đạo thực hiện; kiểm tra đánh giá, trong đó thông tin là trung tâm của quản lý. Bên cạnh bốn chức năng cơ bản của quản lý, còn rất nhiều vấn đề liên quan khác như: Dự đoán; động viên; điều chỉnh, đánh giá, thông tin phản hồi, ra quyết định... Các chức năng cơ bản của quản lý tạo thành một hệ thống thống nhất, không được coi nhẹ một chức năng nào. Để các chức năng của quản lý vận hành có hiệu quả, vấn đề thông tin đóng vai trò là trung tâm; tất cả các chức năng của quản lý thực hiện được đều phải đảm bảo sự thu thập thông tin; phân tích thông tin và ra quyết định quản lý cho đúng đắn. Vì thông tin có vai trò là huyết mạch của hoạt động quản lý đồng thời cũng là tiền đề của một quá trình quản lý tiếp theo. 1.2.1.2. Phương pháp quản lý Phương pháp quản lý là cách thức tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt được mục đích đặt ra. Trong quản lý hiện đại, phương pháp quản lý được đúc kết từ nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học xã hội và khoa học hành vi. Phương pháp quản lý rất phong phú, đa dạng và tùy theo từng tình huống cụ thể mà sử dụng các phương pháp khác nhau hoặc kết hợp các phương pháp với nhau. - Phương pháp thuyết phục là phương pháp dùng lý lẽ để tác động đến nhận thức của con người. - Phương pháp kinh tế: là sự tác động của chủ thể đến đối tượng thông qua các lợi ích kinh tế. - Phương pháp hành chính tổ chức: là cách thức tác động của chủ thể tới đối tượng trên cơ sở quan hệ tổ chức và quyền lực hành chính. - Phương pháp tâm lý, giáo dục: đây là cách thức tác động đến đối tượng thông qua tâm lý, tình cảm, tư tưởng. 1.2.2. Quản lý giáo dục, Quản lý nhà trường 1.2.2.1. Quản lý giáo dục Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người, nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó mà xã hội loài người không ngừng tiến lên [41; tr 9]. Có thể khẳng định, giáo dục và quản lý giáo dục là tồn tại song hành, giáo dục xuất hiện nhằm thực hiện cơ chế di truyền kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người, của thế hệ đi trước cho thế hệ sau và để thế hệ sau có trách nhiệm kế thừa, phát triển nó một cách sáng tạo, làm cho xã hội, giáo dục và bản thân con người phát triển không ngừng. Để đạt được mục đích đó, quản lý được coi là nhân tố tổ chức, chỉ đạo việc thực thi cơ chế nêu trên. [ 22, tr.35]. Đối với cấp vĩ mô đó là quản lý một nền/ hệ thống giáo dục: Quản lý giáo dục là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đã đặt ra cho ngành giáo dục. [22, tr.36]. Đối với cấp vi mô đó là quản lý một nhà trường: Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, sinh viên, cha mẹ học sinh, sinh viên và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường. [22, tr.38]. Nói một cách khái quát: Quản lý giáo dục là một hiện tượng xã hội, đồng thời là một dạng lao động đặc biệt, mà những nét đặc trưng của nó là tính tích cực sáng tạo, năng lực vận dụng những tri thức đã có để đạt mục đích đặt ra có kết quả là sự cải biến hiện thực. Do đó chủ thể quản lý phải biết sử dụng không chỉ những chuẩn mực pháp quyền, mà còn sử dụng cả những chuẩn mực đạo đức, xã hội, tâm lý... nhằm đảm bảo sự thống nhất và những mối quan hệ trong quá trình quản lý [23, tr.18]. Theo Phạm Khắc Chương: “QLGD theo nghĩa rộng nhất là quản lí quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người trong các chế độ chính trị, xã hội khác nhau mà trách nhiệm là của nhà nước và hệ thống đa cấp của ngành giáo dục từ trung ương cho đến địa phương là Bộ Giáo dục, Sở giáo dục, Phòng giáo dục, ở các quận, huyện và các đơn vị cơ sở là nhà trường” [9, tr. 79]. - Bản chất của quản lý giáo dục là vì lợi ích phát triển của giáo dục, nhằm mục tiêu tối ưu là hình thành và phát triển nhân cách người được giáo dục, đối tượng và chủ thể giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. - Đối tượng của quản lý giáo dục là: Hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống quản lý giáo dục, các quan hệ quản lý, các đối tượng của quản lý là cấp dưới, tập thể và cá nhân giáo viên và học sinh [23, tr. 49]. Quản lý giáo dục có những đặc trưng sau đây: - Sản phẩm giáo dục là nhân cách, là sản phẩm có tính đặc thù nên quản lý giáo dục không phải lập khuôn, máy móc trong việc tạo ra sản phẩm, cũng như không được phép tạo ra phế phẩm. - Quản lý giáo dục chú ý đến