Luận văn Biện pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy học của hiệu trưởng trường tiểu học huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước

Trong thập niên đầu và thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, nhân loại đang bước vào kỷ nguyên mới với sự bùng nổ và phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ. Trình độ dân trí và khả năng chiếm lĩnh khối lượng tri thức KHCN là thước đo đánh giá vị thế của quốc gia đó đối với toàn cầu. Con đường ngắn nhất để chinh phục khoa học công nghệ là cải cách giáo dục và đổi mới PPDH. Trong bối cảnh đó toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X chỉ đạo: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam”. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta tiếp tục chỉ đạo: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế. Trong đó, đổi mới chương trình, nội dung, PP dạy và học, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển ĐNGV và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành. Luật Giáo giáo dục năm 2009 đã đặt cơ sở pháp lý để phát triển nền giáo dục Việt Nam một cách bền vững. Luật Giáo giáo dục năm 2009 đã quy định mục tiêu giáo dục tiểu học như sau: Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở (Điều 27). Bên cạnh đó còn yêu cầu về phương pháp giáo dục: Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên (Điều 5). Chỉ thị 3398/2011/CT-BGDĐT ngày 12 tháng 8 năm 2011 về nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành trong năm học 2011 - 2012 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo: “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy - học và công tác quản lý giáo dục. Điều chỉnh nội dung dạy học theo hướng giảm tải, tiếp tục đổi mới phương pháp giáo dục, phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của Chương trình giáo dục phổ thông;. Tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý giáo dục; giáo viên các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên và trung cấp chuyên nghiệp; viên chức làm công tác thiết bị và thư viện. Đặc biệt chú trọng nội dung bồi dưỡng về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá.” Như vậy trong những yêu cầu đổi mới về giáo dục đào tạo thì đổi mới về phương pháp dạy học có vị trí đặc biệt quan trọng, vì phương pháp dạy học phù hợp sẽ đem lại bộ mặt mới, sức sống mới cho giáo dục trong xã hội hiện đại. Như những triết lý về phương pháp dạy học: “Phương pháp là linh hồn của một nội dung đang vận động”; “Học phương pháp chứ không phải học dữ liệu”; “Thầy giáo tồi truyền đạt chân lí, thầy giáo giỏi dạy cách tìm ra chân lí”; “Thầy giáo giỏi dạy cho mọi người hiểu, đồng thời phát huy khả năng tối ưu của mỗi người”.

doc127 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 9745 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Biện pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy học của hiệu trưởng trường tiểu học huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong thập niên đầu và thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, nhân loại đang bước vào kỷ nguyên mới với sự bùng nổ và phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ. Trình độ dân trí và khả năng chiếm lĩnh khối lượng tri thức KHCN là thước đo đánh giá vị thế của quốc gia đó đối với toàn cầu. Con đường ngắn nhất để chinh phục khoa học công nghệ là cải cách giáo dục và đổi mới PPDH. Trong bối cảnh đó toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X chỉ đạo: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam”. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta tiếp tục chỉ đạo: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế. Trong đó, đổi mới chương trình, nội dung, PP dạy và học, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển ĐNGV và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành. Luật Giáo giáo dục năm 2009 đã đặt cơ sở pháp lý để phát triển nền giáo dục Việt Nam một cách bền vững. Luật Giáo giáo dục năm 2009 đã quy định mục tiêu giáo dục tiểu học như sau: Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở (Điều 27). Bên cạnh đó còn yêu cầu về phương pháp giáo dục: Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên (Điều 5). Chỉ thị 3398/2011/CT-BGDĐT ngày 12 tháng 8 năm 2011 về nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành trong năm học 2011 - 2012 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo: “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy - học và công tác quản lý giáo dục. Điều chỉnh nội dung dạy học theo hướng giảm tải, tiếp tục đổi mới phương pháp giáo dục, phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của Chương trình giáo dục phổ thông;... Tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý giáo dục; giáo viên các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên và trung cấp chuyên nghiệp; viên chức làm công tác thiết bị và thư viện. Đặc biệt chú trọng nội dung bồi dưỡng về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá.” Như vậy trong những yêu cầu đổi mới về giáo dục đào tạo thì đổi mới về phương pháp dạy học có vị trí đặc biệt quan trọng, vì phương pháp dạy học phù hợp sẽ đem lại bộ mặt mới, sức sống mới cho giáo dục trong xã hội hiện đại. Như những triết lý về phương pháp dạy học: “Phương pháp là linh hồn của một nội dung đang vận động”; “Học phương pháp chứ không phải học dữ liệu”; “Thầy giáo tồi truyền đạt chân lí, thầy giáo giỏi dạy cách tìm ra chân lí”; “Thầy giáo giỏi dạy cho mọi người hiểu, đồng thời phát huy khả năng tối ưu của mỗi người”. Những năm gần đây, nền giáo dục nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức. Các thành tựu đó đã khẳng định tính đúng đắn những quyết sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giáo dục. Đánh giá về tình hình giáo dục hiện nay, Đảng và Nhà nước cũng đã nhận định rằng bên cạnh những thành tựu nói trên vẫn còn không ít những tồn tại, khuyết điểm; chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhiều vấn đề còn hạn chế; khả năng chủ động, sáng tạo của HS, sinh viên ít được bồi dưỡng; năng lực thực hành của HS, sinh viên còn yếu; chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học còn lạc hậu, nặng nề, đổi mới chậm. Trước yêu cầu đổi mới để xây dựng và bảo vệ đất nước, trước sự phát triển của kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ nói chung và giáo dục nói riêng, vấn đề đổi mới “mạnh mẽ phương pháp dạy học” trở nên vô cùng cấp thiết. Trong những năm qua, Sở Giáo dục và Đào tạo Bình Phước nói chung, các trường tiểu học ở huyện Bù Đăng nói riêng đã tổ chức nhiều hội thảo chuyên đề về đổi mới PPDH, việc đổi mới PPDH đã đem lại một số kết quả đáng trân trọng, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Tuy nhiên, công tác quản lý về đổi mới PPDH ở một số trường còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. Phần lớn chỉ dừng lại ở mức chủ trương, chưa đề ra những biện pháp cụ thể, hiệu quả; chưa chọn lọc được những nội dung thiết thực, trọng tâm; chưa tìm ra cách thức tổ chức quá trình đổi mới một cách khoa học, hữu hiệu nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục tiểu học phù hợp với đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước. Thậm chí, có không ít trường đã hướng sự chỉ đạo quản lý của mình chạy theo bệnh thành tích, chạy theo nhu cầu thi đua, xa rời mục đích đào tạo con người phát triển toàn diện, năng động và sáng tạo. Xuất phát từ thực tiễn công tác quản lý giáo dục nói chung, quản lý trường tiểu học nói riêng, chúng tôi thấy rằng quản lý đổi mới phương pháp dạy học là điều hết sức quan trọng và cần thiết nhằm góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đề ra. Từ những lý do trên, vấn đề: “Biện pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy học của hiệu trưởng trường tiểu học huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước” được tác giả lựa chọn để nghiên cứu. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Đề xuất một số biện pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy học của hiệu trưởng trường tiểu học huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục tiểu học theo xu hướng hội nhập. 3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 3.1. Khách thể: Đổi mới phương pháp dạy học ở trường tiểu học. 3.2. Đối tượng: Các biện pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy học của hiệu trưởng trường tiểu học. 4. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy học ở trường tiểu học. 4.2. Giới hạn về khách thể điều tra: Khảo sát biện pháp quản lý về đổi mới phương pháp dạy học ở trường tiểu học. 4.3 Giới hạn về địa bàn khảo sát: Khảo sát 29 trường tiểu học trên địa bàn huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. 5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC Nếu nắm vững chủ trương đổi mới phương pháp dạy học, phân tích được thực trạng và nguyên nhân ảnh hưởng đến việc đổi mới phương pháp dạy học, từ đó đề xuất được hệ thống các biện pháp đồng bộ và khả thi phù hợp thực tiễn tại huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước thì hiệu trưởng có thể quản lý tốt hơn việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường tiểu học. 6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến công tác quản lý đổi mới phương pháp dạy học ở trường tiểu học. - Đánh giá thực trạng đổi mới PPDH, quản lý đổi mới phương pháp dạy học của hiệu trưởng trường tiểu học huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. - Đề xuất các biện pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy học của Hiệu trưởng trường tiểu học huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục của tỉnh Bình Phước. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Hệ thống hoá các quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước. Phân tích, tổng hợp tài liệu các công trình nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề quản lý đổi mới phương pháp dạy học. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Bao gồm các phương pháp điều tra, phỏng vấn, quan sát, tổng kết kinh nghiệm, lấy ý kiến chuyên gia... nhằm khảo sát đánh giá thực trạng đổi mới phương pháp dạy học, quản lý đổi mới phương pháp dạy học và thu thập các thông tin có liên quan đến đề tài nghiên cứu. 7.3. Phương pháp thống kê toán học: Xử lý kết quả điều tra và số liệu thu được bằng các phương pháp thống kê toán học thông qua các phần mềm máy tính. 8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Mở đầu Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý đổi mới phương pháp dạy học ở trường tiểu học. Chương 2: Thực trạng quản lý đổi mới phương pháp dạy học của hiệu trưởng trường tiểu học huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. Chương 3: Biện pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy học của hiệu trưởng trường tiểu học huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. Kết luận và khuyến nghị Danh mục tài liệu tham khảo Phụ lục CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC 1.1. SƠ LƯỢC MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Trên thế giới không có quốc gia nào, không một dân tộc nào lại không quan tâm đến phát triển giáo dục. Khổng Tử - triết gia nổi tiếng, nhà giáo dục lỗi lạc của Trung Quốc cho rằng: “đất nước muốn phồn vinh, yên bình người QL cần chú trọng đến 3 yếu tố: Thứ (dân đông); Phú (dân giàu); Giáo (dân được giáo dục) và ông cho rằng GD rất cần cho mọi người (hữu giáo vô loại)” Ngay từ thời cổ đại, tư tưởng về PPDH và quản lý PPDH đã được thể hiện trong những quan điểm của nhiều nhà triết học đồng thời là nhà giáo dục. Đức Khổng Tử (551- 479 TCN) đã giúp học trò phát triển bằng cách khuyến khích sở trường và phê bình sở đoản, phương châm chính của dạy học là khải phát (gợi mở). Socrates (469 - 399 TCN) đã đề xuất thực hiện phương pháp đàm thoại trong dạy học và được sử dụng cho đến ngày nay. J.A.Komenxki (1592 - 1670) đã phân tích các hiện tượng trong tự nhiên và hiện thực để đưa ra các biện pháp dạy học buộc học sinh phải tìm tòi, suy nghĩ để nắm được bản chất của sự vật hiện tượng. J.J.Rousseau (1717 - 1778) chủ trương giáo dục trẻ em một cách tự nhiên và người học sẽ tự khám phá tích luỹ kiến thức thông qua chính hoạt động của mình. Nhiều nhà giáo dục tiêu biểu xuất hiện khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX như John Dewey (1859 - 1952), A.Macarenco (1888 - 1938), Jean Piaget (1896 - 1980),… cũng có quan điểm hướng đến sự tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học. Khi nói về PPDH có thể nói là vấn đề được các nhà khoa học giáo dục trên thế giới quan tâm, các nhà khoa học có tên tuổi của Liên Xô trước đây như: Đannhilốp, Êxipôp, Lecne, Babansky... Các nhà tâm lý học nổi tiếng cũng đã có những công trình nghiên cứu sâu sắc liên quan đến PPDH như: Piagiê, Lêônchiep...là các nhà khoa học đặt cơ sở lý luận có tính nền tảng cho PPDH. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khoa học giáo dục đã thực sự có những biến đổi mới về lượng và chất. Những vấn đề chủ yếu trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lê Nin đã thực sự định hướng cho hoạt động giáo dục, đó là các quy luật về "sự hình thành cá nhân con người", "tính quy luật về kinh tế - xã hội đối với giáo dục"…Các quy luật đó đã đặt ra những yêu cầu đối với quản lý giáo dục và tính ưu việt của xã hội đối với việc tạo ra các phương tiện và điều kiện cần thiết cho giáo dục. Ở nước ta, ngay những ngày đầu của nền giáo dục cách mạng Việt Nam, trong thư gửi cho HS nhân ngày khai trường, Bác Hồ đã viết: “Từ giờ phút này trở đi, các cháu được hưởng một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam... làm phát triển hoàn toàn năng lực sẵn có của các cháu.” [27, tr.11]. Nội dung bức thư như là một định hướng cho sự phát triển của PPDH. Đã có nhiều đề tài tiến hành nghiên cứu, nhiều kiến nghị trong các hội thảo khoa học về cải tiến đổi mới PPDH của các tác giả: Hồ Ngọc Đại, Đỗ Đình Hoan, Đặng Thành Hưng, Nguyễn Kỳ, Trần Kiều, Phan Trọng Luận, Vũ Văn Tảo, Nguyễn Cảnh Toàn, Vũ Trọng Rỹ,...Đáng lưu ý là tác phẩm:“Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới” [35] của Thái Duy Tuyên, người có công nghiên cứu tương đối toàn diện về lãnh vực đổi mới PPDH trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó các nhà khoa học nước ta đã tiếp cận quản lý giáo dục và quản lý trường học để đề cập đến việc phát triển công tác QL trường học; các tác phẩm tiêu biểu như: Phương pháp luận khoa học giáo dục của Phạm Minh Hạc; Khoa học Quản lý giáo dục - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Trần Kiểm ... Nghiên cứu về đổi mới PPDH còn có một số công trình ở trình độ thạc sĩ như: - “Những biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm đổi mới phương pháp dạy học ở các trường THPT tại Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Lê Thành Hiếu, năm 2006; - “Những biện pháp cải tiến quản lý hoạt động dạy học của Hiệu trưởng trường tiểu học quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn phát triển hiện nay” của tác giả Trần Thị Nga, năm 2006; - “Những biện pháp quản lý đổi mới hoạt động dạy học của Hiệu trưởng các trường THCS huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ” của tác giả Ngô Hoàng Gia, năm 2007; Các công trình nghiên cứu khoa học trên đều tập trung vào một số nội dung đổi mới PPDH và có ý nghĩa lí luận cũng như thực tiễn ở loại hình nhà trường THPT, THCS và đặc thù của từng địa phương. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ thống và phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh Bình Phước về quản lý đổi mới phương pháp dạy học của hiệu trưởng trường tiểu học theo xu hướng hội nhập. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Biện pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy học của hiệu trưởng trường tiểu học huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước” để nghiên cứu nhằm góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đề ra. 1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI 1.2.1. Khái niệm quản lý Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, hoạt động quản lý đã xuất hiện rất sớm. Từ khi con người biết tập hợp lại với nhau, tập trung sức lực để tự vệ hoặc kiếm sống, thì bên cạnh lao động chung của mọi người đã xuất hiện những hoạt động tổ chức, phối hợp điều khiển đối với họ. Những hoạt động đó xuất hiện, tồn tại và phát triển như một yếu tố khách quan, là cơ sở cho các hoạt động chung của con người đạt được kết quả mong muốn. K.Marx đã viết: “Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [23]. Như vậy, đã xuất hiện một dạng lao động mang tính đặc thù là tổ chức, điều khiển các hoạt động của con người theo những yêu cầu nhất định được gọi là hoạt động quản lý. Từ đó có thể hiểu là lao động và quản lý không tách rời nhau, quản lý là hoạt động điều khiển lao động chung. Xã hội phát triển qua các phương thức sản xuất thì trình độ tổ chức, điều hành tất yếu được nâng lên, phát triển theo những đòi hỏi ngày càng cao hơn. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, quản lý đã trở thành một ngành khoa học và ngày càng phát triển toàn diện. Quản lý là một hiện tượng xã hội được hình thành và phát triển cùng với sự xuất hiện, phát triển của xã hội loài người. Nó bắt nguồn và gắn chặt với sự phân công, hợp tác lao động. Quản lý là một phạm trù tồn tại khách quan được ra đời một cách tất yếu do nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi tổ chức, mọi quốc gia, mọi thời đại. Quản lý là một dạng hoạt động xã hội đặc thù, trở thành một nhân tố của sự phát triển xã hội, một hoạt động phổ biến, diễn ra ở mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ và liên quan đến mọi người. Có thể nói QL là một trong những loại hình lao động có hiệu quả nhất, quan trọng nhất. Khái niệm quản lý (managemeent) là khái niệm rất chung, tổng quát. Trong quá trình nghiên cứu của lý luận khoa học quản lý, tùy theo góc độ tiếp cận mà khái niệm này được quan niệm theo nhiều cách khác nhau. Harold Koontz, Cyril O’Donnell, Heinz Weihrich đưa ra khái niệm: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nhằm bảo đảm sự phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất, và sự bất mãn cá nhân ít nhất...” [23, tr.33] Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Bản chất hoạt động quản lý gồm hai quá trình tích hợp vào nhau: quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới hệ đưa hệ vào thế “phát triển”…Trong “quản” phải có “lý”, trong “lý” phải có “quản” để động thái của hệ ở thế cân bằng động: hệ vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong mối tương tác giữa các nhân tố bên trong (nội lực) với các nhân tố bên ngoài (ngoại lực)”. [2, tr.14] Các tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Nguyễn Quốc Chí nhấn mạnh: “Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”. [10, tr.1] Tác giả Hà Thế Ngữ cho rằng: “Quản lý là quá trình dựa vào các quy luật khách quan vốn có của hệ thống để tác động đến hệ thống nhằm chuyển hệ thống đó sang một trạng thái mới” [28, tr.363]. Tác giả Trần Kiểm quan niệm: “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất”. [24, tr.8] Các khái niệm trên tuy có khác nhau về cách diễn đạt, nhưng chúng đều có chung những dấu hiệu chủ yếu sau: Hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội; hoạt động quản lý là những tác động có tính hướng đích; hoạt động quản lý là những tác động phối hợp nỗ lực của các cá nhân, là sự lựa chọn các khả năng tối ưu nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức đã đề ra. Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu khái niệm quản lý như sau: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, các thời cơ của tổ chức để đạt mục tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường luôn biến động. 1.2.2. Khái niệm phương pháp dạy học Theo Từ điển Tiếng Việt: PP là cách thức tiến hành để có hiệu quả. Theo quan điểm Triết học: Phương pháp là hình thái chiếm lĩnh hiện thực, sự chiếm lĩnh hiện thực trong các hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn.(Bách khoa toàn thư triết học(Liên Xô), tập III, tr 409). Phương pháp chính là cách thức làm việc của chủ thể, cách thức này tuỳ thuộc vào nội dung vì “Phương pháp là sự vận động bên trong của nội dung” (Hêghen). Thuật ngữ “phương pháp” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp (methodos) có nghĩa là con đường để đạt mục đích. Theo đó, PPDH là con đường để đạt mục đích dạy học.   Phương pháp dạy học là một thành tố quan trọng của quá trình dạy học, là cách thức tương tác giữa người dạy và người học nhằm giải quyết tốt nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong quá trình dạy học. Phương pháp dạy học có quan hệ gắn bó hữu cơ với các thành tố khác của quá trình dạy học. Nó vừa bị chi phối bởi mục đích dạy học vừa góp phần thực hiện mục đích dạy học. PPDH quy định bởi nội dung dạy học và nội dung dạy học chi phối việc lựa chọn và vận dụng hợp lý các PPDH. Cùng một nội dung dạy học như nhau, nhưng bài học có làm cho học sinh thực sự hứng thú học tập hay không; có phát triển được tính độc lập, tích cực, sáng tạo để giải quyết các vấn đề bức xúc của cuộc sống hay không; có để lại dấu ấn sâu đậm và khơi dậy ở tâm hồn các em những tình cảm lành mạnh, trong sáng hay không; phần lớn tùy thuộc vào việc lựa chọn phương pháp dạy học của người thầy.Cho đến nay, PPDH vẫn là một hiện tượng sư phạm nhiều quan điểm, khái niệm PPDH còn là vấn đề đang được tranh luận, chưa có ý kiến thống nhất. Thái Duy Tuyên đã tóm tắt khái niệm này trong ba dạng cơ bản sau đây: “Theo quan điểm điều khiển học, phương pháp là cách thức tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh và điều khiển hoạt động này. Theo quan điểm lôgic, phương pháp là những thủ thuật logic được sử dụng để giúp học sinh nắm kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách tự giác. Theo bản chất của nội dung, phương pháp là sự vận động của nội dung dạy học.” [35, tr.38]. Tuỳ theo quan niệm về mối quan hệ trong quá trình dạy học, đã có nhiều định nghĩa khác nhau về PPDH. Nếu đứng trên góc độ dạy học
Luận văn liên quan