Luận văn Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Đạo đức đã được con người nghiên cứu từ rất lâu. Nó gắn liền với cuộc sống, nó có mặt trong tất cả các hoạt động của con người. các vấn đề về đạo đức không được qui đinh rõ trong một bộ luật nào nhưng con người xem nó như những chuẩn mực chung, những qui tắc xử sự chung của toàn xã hội. Bắt đầu từ khi xuất hiện sự trao đổi hàng hóa, thì mối quan hệ giữa con người trở nên phức tạp hơn. Đạo đức xã hội nói chung không đủ để giải thích những hiện tượng phức tạp nảy sinh trong những mối quan hệ mới này, và cần có thêm những qui tắc ứng xử mới phù hợp để hướng dẫn hành vi con người trong mối quan hệ mới, khi đó một ngành khoa học mới xuất hiên đó là đạo đức kinh doanh. Vậy đạo đức kinh doanh cũng đã xuất hiên từ rất lâu nhưng nó chỉ bắt đầu được nghiên cứu nghiêm túc, và phát triển thành một ngành khoa học vào nửa sau thế kỷ XX. Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá và kiểm soát hành vi của chủ thể kinh doanh. Các chuẩn mực về đạo đức kinh doanh đặt ra để điều chỉnh các hành vi kinh doanh theo khuôn khổ pháp luật và theo những chuẩn mực đạo đức xã hội vốn có từ rất lâu của con người. Ngày nay đạo đức kinh doanh rất được nhiều người quan tâm, khi trên thị trường số hành vi vi phạm đạo đức kinh doanh ngày một tăng. Rất nhiều các doanh nghiệp vì lợi nhuận mà đã có những hành vi phi đạo đức trong kinh doanh tiêu biểu cho vi phạm đạo đức trong kinh doanh đó là công ty Vedan, với mục đích đạt đượclợi nhuận tối cao nên công ty này đã xả chất thải lên tới 1.560 m 3 /ngày gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đối với sông Thị Vải và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế của người dân trong khu vực nơi đây. Chính vì vậy em đã chon đề tài: “ Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam” để nhằm phác họa lên bức tranh đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay, qua đó đề ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao cũng như hạn chế những hành động thiếu đạo đức của các doanh nghiệp đang và sắp diễn ra.

pdf36 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 10476 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 1- SVTH: Trần Văn Thiết Luận văn Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 2- SVTH: Trần Văn Thiết PHẦN GIỚI THIỆU I. LÝ DO CHON ĐỀ TÀI Đạo đức đã được con người nghiên cứu từ rất lâu. Nó gắn liền với cuộc sống, nó có mặt trong tất cả các hoạt động của con người. các vấn đề về đạo đức không được qui đinh rõ trong một bộ luật nào nhưng con người xem nó như những chuẩn mực chung, những qui tắc xử sự chung của toàn xã hội. Bắt đầu từ khi xuất hiện sự trao đổi hàng hóa, thì mối quan hệ giữa con người trở nên phức tạp hơn. Đạo đức xã hội nói chung không đủ để giải thích những hiện tượng phức tạp nảy sinh trong những mối quan hệ mới này, và cần có thêm những qui tắc ứng xử mới phù hợp để hướng dẫn hành vi con người trong mối quan hệ mới, khi đó một ngành khoa học mới xuất hiên đó là đạo đức kinh doanh. Vậy đạo đức kinh doanh cũng đã xuất hiên từ rất lâu nhưng nó chỉ bắt đầu được nghiên cứu nghiêm túc, và phát triển thành một ngành khoa học vào nửa sau thế kỷ XX. Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá và kiểm soát hành vi của chủ thể kinh doanh. Các chuẩn mực về đạo đức kinh doanh đặt ra để điều chỉnh các hành vi kinh doanh theo khuôn khổ pháp luật và theo những chuẩn mực đạo đức xã hội vốn có từ rất lâu của con người. Ngày nay đạo đức kinh doanh rất được nhiều người quan tâm, khi trên thị trường số hành vi vi phạm đạo đức kinh doanh ngày một tăng. Rất nhiều các doanh nghiệp vì lợi nhuận mà đã có những hành vi phi đạo đức trong kinh doanh tiêu biểu cho vi phạm đạo đức trong kinh doanh đó là công ty Vedan, với mục đích đạt đượclợi nhuận tối cao nên công ty này đã xả chất thải lên tới 1.560 m3/ngày gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đối với sông Thị Vải và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế của người dân trong khu vực nơi đây. Chính vì vậy em đã chon đề tài: “ Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam” để nhằm phác họa lên bức tranh đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay, qua đó đề ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao cũng như hạn chế những hành động thiếu đạo đức của các doanh nghiệp đang và sắp diễn ra. Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 3- SVTH: Trần Văn Thiết Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 4- SVTH: Trần Văn Thiết II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1.1 Mục tiêu chung: Nêu lên vấn đề đạo đức trong kinh doanh của các doanh nghiệp, qua đó đánh giá tình hình và đề ra giải pháp để góp phần nâng cao cũng như hạn chế những khuyết điểm mà các doanh nghiệp đang đối mặt. 1.2 Mục tiêu cụ thể  Phác họa thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay.  Phân tích và đánh giá sự ảnh hưởng của đạo đức kinh doanh đến xã hội và doanh nghiệp.  Đề ra những giải để nâng cao đạo đức trong kinh doanh tại Việt Nam trong tương lai. 1.3 Phạm vi nghiên cứu: 1.3.1. Không gian: Phạm vi nghiên cứu trên toàn Việt Nam. 1.3.2 Đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ các doanh nghiệp đang kinh doanh tại Việt Nam. 1.4. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 5/2011 đến 7/2011 1.5 Phương pháp nghiên cứu: 1.5.1 Phương pháp thu thập số liệu  Thu thập số liệu thứ cấp trên sách, Internet, báo trí.  Các bài nghiên cứu thứ cấp  Các website: thesaigontimes.vn, vneconomy.com.vn, vnexpress.net… 1.5.2 Phương pháp phân tích số liệu: - Tổng hợp các số liệu thứ cấp từ năm 2007 - 2010 - Thống kê và phân tích số liệu từ dữ liệu thứ cấp. Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 5- SVTH: Trần Văn Thiết 1.5.3 Phương pháp thống kê mô tả - Khái niệm: Thống kê mô tả là các phương pháp có liên quan đến việc thu thập số liệu, tóm tắt, trình bày, tính toán các đặc trưng khác nhau để phản ánh một cách tổng quát đối tượng nghiên cứu. Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 6- SVTH: Trần Văn Thiết PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 PHÁC HỌA THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1 KHÁI QUÁT VÀ NHẬN THỨC CỦA DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM VỀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH 1.1.1 Khái niệm và các nguyên tắc hình thành đạo đức kinh doanh 1.1.1.1 Khái niệm đạo đức kinh doanh Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh. Đạo đức kinh doanh chính là phạm trù đạo đức được vận dụng vào trong hoạt động kinh doanh. Đạo đức kinh doanh là một dạng đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức kinh doanh có tính đặc thù của hoạt động kinh doanh - do kinh doanh là hoạt động gắn liền với các lợi ích kinh tế, do vậy khía cạnh thể hiện trong ứng xử về đạo đức không hoàn toàn giống các hoạt động khác: tính thực dụng, sự coi trọng hiệu quả kinh tế là những đức tính tốt của giới kinh doanh nhưng nếu áp dụng sang các lĩnh vực khác như giáo dục, y tế … hoặc sang các quan hệ xã hội khác như vợ chồng, cha mẹ, con cái thì đó là những thói xấu bị xã hội phê phán. Song cần lưu ý rằng đạo đức kinh doanh vẫn luôn phải chịu sự chi phối bởi một hệ thống giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội chung. 1.1.1.2 Các nguyên tắc của đạo đức kinh doanh  Tính trung thực Không dùng các thủ đoạn gian dối, xảo trá để kiếm lời. Giữ lời hứa, giữ chữ tín trong kinh doanh. Nhất quán trong nói và làm. Trung thực trong chấp hành luật pháp của nhà nước, không làm ăn phi pháp như trốn thuế, lậu thuế, không sản xuất và buôn bán những mặt hàng quốc cấm, thực hiện những dịch vụ có hại cho thuần phong mỹ tục. Trung thực trong giao tiếp với bạn hàng (giao dịch, đàm phán, ký kết) và người tiêu dùng: không làm hàng giả, khuyến mại giả, quảng cáo sai sự thật, sử dụng trái phép những nhãn hiệu nổi tiếng, vi phạm bản Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 7- SVTH: Trần Văn Thiết quyền, phá giá theo lối ăn cướp. Trung thực ngay với bản thân, không hối lộ, tham ô, thụt két, "chiếm công vi tư".  Tôn trọng con người Đối với những người cộng sự và dưới quyền, tôn trọng phẩm giá, quyền lợi chính đáng, tôn trọng hạnh phúc, tôn trọng tiềm năng phát triển của nhân viên, quan tâm đúng mức, tôn trọng quyền tự do và các quyền hạn hợp pháp khác. Đối với khách hàng: tôn trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý khách hàng. Đối với đối thủ cạnh tranh: tôn trọng lợi ích của đối thủ. Gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của khách hàng và xã hội, coi trọng hiệu quả gắn với trách nhiệm xã hội. Bí mật và trung thành với các trách nhiệm đặc biệt. Đối tượng điều chỉnh của đạo đức kinh doanh là chủ thể hoạt động kinh doanh. Theo nghĩa rộng, chủ thể hoạt động kinh doanh gồm tất cả những ai là chủ thể của các quan hệ và hành vi kinh doanh: Tầng lớp doanh nhân làm nghề kinh doanh. Khách hàng của doanh nhân: khi là người mua hàng thì hành động cuả họ đều xuất phát từ lợi ích kinh tế của bản thân, đều có tâm lý muốn mua rẻ và được phục vụ chu đáo. Tâm lý này không khác tâm lý thích "mua rẻ, bán đắt" của giới doanh nhân, do vậy cũng cần phải có sự định hướng của đạo đức kinh doanh. Tránh tình trạng khách hàng lợi dụng vị thế "Thượng đế" để xâm phạm danh dự, nhân phẩm của doanh nhân, làm xói mòn các chuẩn mực đạo đức. Khẩu hiệu "Bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái mình có" chưa hẳn đúng.  Phạm vi áp dụng của đạo đức kinh doanh Đó là tất cả những thể chế xã hội, những tổ chức, những người liên quan, tác động đến hoạt động kinh doanh: thể chế chính trị, chính phủ, công đoàn, nhà cung ứng, khách hàng, cổ đông, chủ doanh nghiệp, người làm công. Chức năng cơ bản của đạo đức là: đạo đức điều chỉnh hành vi của con người theo các chuẩn mực và quy tắc đạo đức đã được xã hội thừa nhận bằng sức mạnh của sự thôi thúc lương tâm cá nhân, của dư luận xã hội, của tập quán truyền thống và của giáo dục. Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 8- SVTH: Trần Văn Thiết  Lắng nghe khách hàng Để biết rõ họ sẽ phản ứng như thế nào luôn là một công cụ hữu hiệu khi doanhnghiệp muốn sản phẩm hay kế hoạch xúc tiến kinh doanh trở nên hiệu quả hơn. Việc lắng nghe khách hàng còn mang lại cho công ty lợi ích khác là giải quyết những phàn nàn của khách hàng một cách sáng tạo cũng chính là một trong những cách pháthiện các ý tưởng mới về sản phẩm hay dịch vụ, cơ hội cải tiến. Bên cạnh đó, lắng nghe ý kiến của nhân viên là điều rất quan trọng nếu muốn lắngnghe khách hàng.  Chăm sóc khách hàng Là tất cả những gì cần thiết mà doanh nghiệp phải làm để thoả mãn nhu cầu và mong đợi của khách hàng, tức là phục vụ khách hàng theo cách mà họ mong muốn được phục vụ và làm những việc cần thiết thiết để giữ các khách hàng đang có. Khách hàng mong muốn dịch vụ cốt lõi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thực sự đáp ứng nhu cầu của họ. Khách hàng luôn mong đợi dịch vụ hậu mãi sau bán hàngcủa doanh nghiệp thực sự tiện lợi. Để doanh nghiệp tồn tại và phát triển, hãy xây dựng một môi trường kinh doanh thực sự chú trọng cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho khách hàng. Đây là cách tốt nhất để tăng cường lợi thế cạnh tranh của mình. Cạnh tranh hiện nay không chỉ là cạnh tranh về sản phẩm mà còn phải làm tốt công tác chăm sóc khách hàng. Chăm sóc khách hàng không chỉ là nhiệm vụ của nhân viên bán hàng mà bất kỳ cá nhân nào trong doanh nghiệp cũng phải thực hiện nhiệm vụ nào đó cho một số người khác trong doanh nghiệp của mình, tức là ai cũng có khách hàng và đó là khách hàng nội bộ của doanh nghiệp. Việc chăm sóc khách hàng phải bắt nguồn từ sự cam kết của lãnh đạo cấp cao nhất và nhất quán trong mọi phòng ban.  Tạo sự an tâm của khách hàng đối với nhãn hiệu Vì người mua thường cảm thấy an tâm khi mua những nhãn hiệu mà mình đã từng biết, từng nghe nói đến nhiều. Một nhãn hiệu nghe lạ tai ít có cơ may được khách hàng quan tâm đến. Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 9- SVTH: Trần Văn Thiết  Sự trung thành của khách hàng đối với nhãn hiệu của doanh nghiệp Thông qua việc giữ chân khách hàng dễ dàng hơn, nhất là khi khách hàng đã thỏa mãn với nhãn hiệu của doanh nghiệp. Khách hàng thường vẫn có tâm lý ngại thay đổi nhãn hiệu, thậm chí còn quảng cáo không công cho nhãn hiệu đã quen dùng. Mức độ trung thành của khách hàng cao sẽ làm tăng ảnh hưởng đến kênh phân phối, vì người bán hàng thích bày bán những nhãn hiệu mà khách hàng muốn mua nhiều.  Tin tưởng của khách hàng về chất lượng Thể hiện thông qua sự cảm nhận của người mua về chất lượng của một nhãn hiệu, vì chất lượng của nhãn hiệu không nhất thiết dựa vào sự hiểu biết rõ những qui cách, phẩm chất của nhãn hiệu mà chất lượng thấy được là những gì khách hàng cho rằng nó nói lên chất lượng. Tin tưởng của khách hàng về chất lượng sẽ tác động trực tiếp lên quyết định mua hàng cũng như sự trung thành với nhãn hiệu. Nó cũng thuận lợi và biện minh được cho một giá bán cao hơn mà người mua cũng dễ dàng chấp nhận. Ngoài ra, nó còn là cơ sở cho doanh nghiệp mở rộng nhãn hiệu trong các lãnh vực khác có liên quan.  Tạo cho khách hàng có sự liên kết giữa sản phẩm và nhãn hiệu Thông qua việc nối trí nhớ của khách hàng đến với nhãn hiệu một cách trực tiếp hay gián tiếp. Điển hình như nói đến nước ngọt người ta nghĩ đến CocaCola, trông thấy cá cơm người ta liên tưởng đến nước mắm Phú Quốc. Sự liên kết mạnh của nhãn hiệu có thể là cơ sở cho việc mở rộng nhãn hiệu như trà chanh Lipton có được lợi thế cạnh tranh do sự liên kết của nhãn hiệu Lipton. Nếu một nhãn hiệu được định vị một cách vững chắc dựa vào một thuộc tính then chốt của sản phẩm sẽ là một rào cản đối với các nhãn hiệu khác muốn cạnh tranh. 1.1.2 Nhận thức về đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam 1.1.2.1 Vấn đề nhận thức về đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam Trong thời kỳ bao cấp, mọi hoạt động kinh doanh đều do Nhà nước chỉ đạo, vì thế những hành vi có đạo đức được coi là những hành vi tuân thủ lệnh cấp Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 10- SVTH: Trần Văn Thiết trên. Do khan hiếm hầu hết hàng hóa tiêu dùng, để mua được đã là rất khó, nên không ai có thể phàn nàn về chất lượng hàng hóa. Vì cầu vượt quá cung, chất lượng phục vụ trong mạng lưới cung cấp vô cùng thấp nhưng ít người dám than phiền. Vào thời gian đó, các ngành công nghiệp của Việt Nam chưa phát triển, có rất ít nhà sản xuất và hầu hết đều thuộc sở hữu nhà nước, nên không cần quan tâm đến vấn đề thương hiệu hay sở hữu trí tuệ. Hầu hết lao động đều làm việc cho nhà nước, nơi mà kỷ luật và chế độ lương thưởng đều thống nhất và đơn giản. Mọi hoạt động trong xã hội đều phải tuân thủ quy định của Nhà nước nên những phạm trù trên là không cần thiết. Thời gian gần đây, do áp lực của tiến trình toàn cầu hóa, đã có khá nhiều bài báo trên các báo và tạp chí như: Chúng ta (Tạp chí lưu hành nội bộ của công ty FPT, website: www.chungta.com) hay báo Diễn đàn doanh nghiệp (tờ thời báo cho giới doanh nhân Việt Nam do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI phát hành, website: www.dddn.com.vn) và một số báo và tạp chí khác như: Saigon Times, Thời báo kinh tế Sài Gòn, báo Lao động. Nhưng các bài báo này thường chỉ dừng ở việc nhận định về những sự kiện gần đây ở Việt Nam có liên quan đến đạo đức kinh doanh hoặc cung cấp về một số vụ việc trên các sách báo nước ngoài, chứ không tiến hành khảo sát hay đưa ra một khái niệm cụ thể nào về đạo đức kinh doanh. Hầu hết các trường Đại học, Cao đẳng dạy về kinh doanh ở Việt Nam đều chưa có môn học này, hoặc nếu có cũng chỉ dừng ở hình thức môn tự chọn. Trong nội dung của các môn học có liên quan như kinh doanh quốc tế hay quản trị kinh doanh cũng chưa đề cập đến khái niệm này, hoặc nếu có thì nội dung cũng quá sơ sài. Ví dụ, trong giáo trình môn Văn hóa kinh doanh tại một trường Đại học Kinh tế ở Việt Nam có giành một chương cho Đạo đức kinh doanh nhưng lại coi đạo đức kinh doanh là việc tuân thủ pháp luập trong kinh doanh. Quan niệm như vậy là quá hạn hẹp, chưa đánh giá hết tầm quan trọng của khái niệm này. Do áp lực của tiến trình toàn cầu hóa, các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam đề cập khá nhiều đến vấn đề này nhưng lại không đưa ra được một khái niệm chuẩn mực nào. Chính vì vậy, mặc dù thường được nghe về đạo đức kinh doanh nhưng cách hiểu của người dân, của các doanh nghiệp về vấn đề này còn khá mơ hồ. Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 11- SVTH: Trần Văn Thiết 1.1.2.2 Lĩnh vực tiêu biểu trong vấn đề vi phạm đạo đức kinh doanh tại Việt Nam  Thực phẩm Thực phẩm không chỉ là nguồn dinh dưỡng mà còn có thể đóng vai trò quan trọng cho việc bảo vệ sức khỏe người dân. Chính vì thế mà thực phẩm thường được đặt dưới sự quản lý của các cơ quan có nhiệm vụ quản lý thuốc Việc sữa sản xuất từ Trung Quốc có chứa chất melamine dẫn đến tử vong cho một số trẻ em đã được thảo luận khá nhiều trên báo chí Trung Quốc và thế giới. Người ta bàn đến việc đề ra những tiêu chuẩn an toàn và vệ sinh gắt gao hơn, những quy chế luật pháp để ngăn ngừa một thảm trạng như thế trong tương lai. Tại Việt Nam thì vấn đề vệ sinh anh toàn thực phẩm cũng đang được đưa lên đến mức báo động. Từ những quán nhỏ lẻ bên đường với sản phẩm phở, hủ tiếu, cháo… người ta không ngại lừa đối khách hàng bằng những chiêu thức khá tinh vi như sử dụng những hóa chất nhằm tái sinh nguyên liệu để tăng thêm đồng lời, hay những lò rượu thay vì bán cho khách hàng những sản phẩm chất lượng thì lại bán những giọt rượu mà theo phân tích có đến 70% là cồn. Và cho đến những doanh nghiệp lớn như các công ty thủy hải sản của Việt Nam bị các công ty Mỹ trả lại hàng do phát hiện trong sản phẩm có chứa tạp chất. Vì thực phẩm có liên hệ trực tiếp đến sức khỏe của một cộng đồng, thậm chí dân tộc, công nghệ thực phẩm rất cần một quy ước đạo đức. Quy ước đạo đức không phải là luật pháp, mà là những điều lệ về hành nghề được các thành viên trong ngành nghề chấp nhận như là kim chỉ nam cho việc hành nghề. Các điều lệ này cho phép, nghiêm cấm, hay đề ra thủ tục về các hành xử cho các tình huống khác nhau.  Xăng dầu Dù đã nghe rất nhiều thông tin về chuyên gian lận xăng dầu nhưng hầu như người tiêu dùng vẫn không thể có cách nào để bảo vệ mình trước các trò gian lận của những chủ cây xăng thiếu đạo đức kinh doanh. Chưa có một lĩnh vực tiêu dùng nào mà người mua buộc phải nhắm mắt trước các trò gian xảo mà người bán bày ra như xăng dầu. Tỉnh Bình Dương là địa phương đầu tiên cả nước công bố danh tính các cây xăng gian lận lên báo. Một thống kê giật mình là có đến 62% cây xăng được Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 12- SVTH: Trần Văn Thiết kiểm tra là có gian lận. Riêng chuyện đo đếm, theo quy định sai số là 0,5% trong khi các cây xăng sai số này là từ 1 - 8%. Trong quá khứ, Bình Dương cũng từng phát hiện có cây xăng ăn gian đến 12,9% khi bơm xăng cho khách. "Ba năm nay, tình hình dường như không có cải thiện gì. Chủ cây xăng cứ ăn gian còn người tiêu dùng cứ phải chịu thiệt" một cán bộ trong đoàn kiểm tra xăng dầu của Bình Dương nói. Theo danh sách mới được công bố thì trên địa bàn tỉnh Bình Dương có đến 9 doanh nghiệp nằm trong "danh sách đen"..Ngoài ra, thủ đoạn có vẻ thủ công nhưng vẫn còn nhiều cây xăng áp dụng là cưa rãnh đầu vít - bộ điều khiển xung - vừa đủ nhỏ để tháo dây kẹp chì, điều chỉnh sai số rồi lắp lại. Thủ đoạn này tương đối dễ phát hiện đối với lực lượng kiểm tra song vẫn là "bất khả phát hiện" đối với người tiêu dùng. Cho đến thời điểm này người tiêu dùng thực sự bó tay trước các thủ đoạn ngày càng tinh vi của nhà kinh doanh xăng dầu gian dối. Qua vụ việc aceton trong xăng vừa rồi người tiêu dùng lại càng thêm thất vọng.  Người lao động Đảm bảo điều kiện lao động an toàn là hoạt động có đạo đức nhất trong vấn đề bảo vệ người lao động. Người lao động có quyền làm việc trong một môi trường an toàn. Mặt khác xét từ lợi ích, khi người làm công bị tai nạn, rủi ro thì không chỉ ảnh hưởng xấu đến bản thân họ mà còn tác động đến vị thế cạnh tranh của công ty. Tuy nhiên, việc cung cấp những trang thiết bị an toàn cho người lao động (hệ thống cứu hỏa, dây an toàn, găng tay và ủng cách điện cho thợ điện, đèn và đèn pha cho thợ mỏ), chi phí cho tập huấn và phổ biến về an toàn lao động,... đôi khi cũng tốn kém nguồn lực và thời gian nên một số công ty không giải quyết thấu đáo, dẫn đến người lao động gặp rủi ro, điều này đáng lên án về mặt đạo đức. Các vấn đề còn tồn đọng về đạo đức kinh doanh đối với người lao động tại các doanh nghiệp Việt Nam Không trang bị đầy đủ các trang thiết bị an toàn lao động cho người lao động, cố tình duy trì các điều kiện nguy hiểm và không đảm bảo sức khỏe tại nơi làm việc. Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 13- SVTH: Trần Văn Thiết Che dấu thông tin về mối nguy hiểm của công việc, làm ngơ trước một vụ việc có thể dự đoán được và có thể phòng ngừa được. Bắt buộc người lao động thực hiện những công việc nguy hiểm mà không cho phép họ có cơ hội từ chối, bất chấp thể trạng, bất chấp khả năng và năng lực của họ. Không phổ biến kỹ lưỡng các quy trình, quy phạm sản xuất và an toàn lao động cho người lao động. Không thường xuyên kiểm
Luận văn liên quan