Luận văn Đối chiếu cấu trúc – Ngữ nghĩa tục ngữ tiếng Hán hiện đại và Tiếng Việt

Ngày nay việc nghiên cứu tục ngữ trong giới ngôn ngữ học của hai nước Việt Nam và Trung Quốc rất được coi trọng. Số lượng học giả cũng như những thành quả trong việc nghiên cứu tục ngữ ngày càng nhiều. Hệ quả của điều này là sự xuất hiện rất đa dạng các chuyên khảo cũng như các từ điển về tục ngữ. Về các từ điển tục ngữ Hán có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như “Hán ngữ tục ngữ đại từ điển” do Ôn Ðoan Chính chủ biên [132], “Tục ngữ từ điển” của Từ Tông Tài, Ứng Tuấn Linh [142], v.v. Ở Việt Nam có “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam” của Vũ Ngọc Phan [89], “Tục ngữ Việt Nam” của nhóm Chu Xuân Diên, Lưu Văn Đang, Phương Tri [27], “Từ điển thành ngữ – tục ngữ Việt Nam” của Nguyễn Lân [69], “Từ điển thành ngữ - tục ngữ - ca dao Việt Nam” của Việt Chương [16], v.v.

pdf237 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 3502 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đối chiếu cấu trúc – Ngữ nghĩa tục ngữ tiếng Hán hiện đại và Tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH PHẠM THANH HẰNG ĐỐI CHIẾU CẤU TRÚC – NGỮ NGHĨA TỤC NGỮ TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI VÀ TIẾNG VIỆT CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGƠN NGỮ Mã số: 62.22.01.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Nguyễn Đức Dân 2. PGS. Chu Xuân Diên NĂM 2010 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và dẫn chứng đưa ra trong luận án là hoàn toàn trung thực và không sao chép từ bất kì một công trình nào. Tác giả luận án iii QUY ƯỚC TRÌNH BÀY 1. Trong luận án, các ví dụ về tục ngữ từ tiếng Hán hiện đại được trình bày gồm: nguyên văn chữ Hán (hình thức giản thể), phần phiên âm Hán Việt, và phần dịch nghĩa. Trong đĩ, phần nguyên văn khơng cho trong ngoặc, phần phiên âm Hán Việt cho trong ngoặc nháy (‘’), phần dịch nghĩa viết hình thức chữ thường. Trong trường hợp trích dẫn dài (khơng phải tục ngữ), luận án khơng phiên âm Hán Việt mà trực tiếp dịch nghĩa sang tiếng Việt (đơi chỗ dùng: Tạm dịch). 2. Số lượng ví dụ quá nhiều, vì thế luận án khơng đánh số thứ tự. 3. Các bảng được đánh số theo thứ tự trong chương, chẳng hạn: bảng thứ 2 trong chương 1 được viết là bảng 1.2. DẪN NHẬP 1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Ngày nay việc nghiên cứu tục ngữ trong giới ngôn ngữ học của hai nước Việt Nam và Trung Quốc rất được coi trọng. Số lượng học giả cũng như những thành quả trong việc nghiên cứu tục ngữ ngày càng nhiều. Hệ quả của điều này là sự xuất hiện rất đa dạng các chuyên khảo cũng như các từ điển về tục ngữ. Về các từ điển tục ngữ Hán có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như “Hán ngữ tục ngữ đại từ điển” do Ôn Đoan Chính chủ biên [132], “Tục ngữ từ điển” của Từ Tông Tài, Ứng Tuấn Linh [142], v.v. Ở Việt Nam có “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam” của Vũ Ngọc Phan [89], “Tục ngữ Việt Nam” của nhóm Chu Xuân Diên, Lưu Văn Đang, Phương Tri [27], “Từ điển thành ngữ – tục ngữ Việt Nam” của Nguyễn Lân [69], “Từ điển thành ngữ - tục ngữ - ca dao Việt Nam” của Việt Chương [16], v.v. So với sự xuất hiện rất đa dạng, phong phú các từ điển tục ngữ, những công trình chuyên về nghiên cứu tục ngữ nói chung cũng như các công trình đối chiếu tục ngữ Hán - Việt, Việt - Hán còn rất ít. Ngoài một số bài viết và luận án tiến sĩ có đề cập đến việc so sánh tục ngữ, chẳng hạn, luận án tiến sĩ “Cấu trúc cú pháp – ngữ nghĩa của tục ngữ Việt trong sự so sánh với tục ngữ của một số dân tộc khác” (2001) của Nguyễn Quí Thành, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và so sánh ngữ nghĩa cũng như cấu trúc giữa tục ngữ Hán và tục ngữ Việt. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng tiến hành nghiên cứu, đối chiếu tục ngữ Hán và tục ngữ Việt là việc làm có ý nghĩa và có giá trị nhất định. Ngôn ngữ và văn hoá có quan hệ mật thiết với nhau. Hệ thống ngôn ngữ của 2 một dân tộc, trong đó tục ngữ là một bộ phận cấu thành, không những truyền tải văn hoá của dân tộc đó, xét về góc độ lịch sử, còn là tinh hoa về văn hoá của dân tộc. Tục ngữ Hán cũng như tục ngữ Việt đều mang đậm tính nhân văn. Nó phản ánh một cách sâu sắc và toàn diện cuộc sống văn hoá xã hội của dân tộc Hán và dân tộc Việt. Tục ngữ là kết tinh trí tuệ của quần chúng nhân dân qua nhiều thế hệ, là sự tổng kết kinh nghiệm sản xuất và cuộc sống xã hội của quảng đại quần chúng, và còn là sự thể hiện sâu sắc, sinh động văn hoá dân tộc Việt và Hán. Vị trí địa lí và lịch sử giao lưu văn hoá lâu đời của nhân dân hai nước Việt –Trung khiến cho tục ngữ Hán và tục ngữ Việt trong sự phát triển và hình thành của mình đã có sự ảnh hưởng, thúc đẩy lẫn nhau. Do đó nghiên cứu tục ngữ Hán và tục ngữ Việt là việc làm có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu văn hoá dân tộc hai nước, việc đối chiếu tục ngữ Hán và Việt có giá trị tham khảo quan trọng. Việc nghiên cứu tục ngữ Hán cũng như tục ngữ Việt đã được giới nghiên cứu tiến hành từ lâu và càng ngày càng nhận được nhiều quan tâm. Với nội dung phong phú, bao quát nhiều lĩnh vực, với cấu trúc đặc thù, nhiều loại hình, tục ngữ không chỉ là đối tượng nghiên cứu của ngành văn học dân gian, như quan niệm của một số tác giả trước đây, mà trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác như triết học, dân tộc học, tâm lý học, xã hội học, đặc biệt là ngôn ngữ học. Tục ngữ không chỉ được tìm hiểu ở phương diện giá trị phản ánh đời sống, nhận thức; ở những đúc kết kinh nghiệm về tự nhiên, về xã hội mà còn được khai thác ở nhiều góc độ khác. Đứng từ phương diện ngôn ngữ học, luận án này xác định đối tượng nghiên cứu là phương diện ngôn ngữ của tục ngữ và những vấn đề liên quan mật thiết 3 với phương diện này. Những vấn đề cơ bản về tục ngữ như cấu trúc cú pháp, các mô hình ngữ nghĩa, nghĩa biểu trưng trong tục ngữ được đặc biệt chú ý. Vì nhiều lí do, luận án chỉ tập trung tìm hiểu những phương diện trên thể hiện trong tục ngữ Hán và tục ngữ Việt. Thông qua luận án này, chúng tôi mong muốn được góp một phần sức lực vào việc so sánh đối chiếu, tìm ra những nét tương đồng, dị biệt giữa tục ngữ hai nước Việt – Trung. Chúng tôi hy vọng đây sẽ là một tài liệu tham khảo tin cậây, có giá trị cho những người muốn nghiên cứu, tìm hiểu tục ngữ Hán. Những nội dung của luận án cũng sẽ góp phần nhất định vào việc gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 2.1. Tình hình nghiên cứu tục ngữ ở Trung Quốc Theo chuyên khảo nghiên cứu tục ngữ tiếng Hán ở thế kỉ XX [135], từ “tục ngữ” xuất hiện sớm nhất trong “Sử kí” của Tư Mã Thiên. Nếu từ “tục ngữ” trong “Sử kí” là từ thông thường, chỉ cách nói lưu truyền trong dân gian, thì từ “tục ngữ” trong “Thuyết uyển” của Lưu Hướng đã mang tính thuật ngữ, chỉ những ngữ cố định lưu truyền trong dân gian. Vào thời Tiên Tần và thời nhà Hán, tục ngữ và ngạn ngữ thuộc về cùng một khái niệm, cho nên sau này còn có tên gọi là “tục ngạn”. Nếu tính từ thế kỉ XVIII, có thể nói là việc sưu tầm và chú thích tục ngữ ở Trung Quốc cũng khá rầm rộ và đạt được những kết quả nhất định. Những đầu sách tiêu biểu là “Thông tục biên”, “Hằng ngôn lục”, “Cổâ dao ngạn”, “Thường ngữ lục nguyên”, v.v. Tuy nhiên, những sách về tục ngữ của thời kì này chủ yếu thiên về sưu tầm, thu thập các câu tục ngữ, không mang tính chất lí luận, nghiên cứu. Ngay cả nhận thức về vấn đề cơ bản nhất “tục ngữ là 4 gì” cũng rất mơ hồ. Nhận định về việc nghiên cứu tục ngữ trong giai đoạn này, tác giả cho rằng: “我国古代的俗语研究虽然取得了不少成就,但总的来说,还 是处在不自觉的朦胧状态 (nghiên cứu tục ngữ thời cổ của nước ta tuy đạt được một số thành tựu, nhưng tóm lại vẫn ở trong tình trạng mông lung, không rõ ràng)” [135, tr.32]. Sau khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời (1949), công việc nghiên cứu và thu thập, chỉnh lí tục ngữ đạt được rất nhiều thành quả và có những bước phát triển mới. Những chuyên khảo nghiên cứu lí luận về tục ngữ được triển khai toàn diện. Có thể kể đến “Ngạn ngữ” của Ôn Đoan Chính [134]; “Tục ngữ” của Mã Quốc Phàm, Mã Thúc Tuấn [127]; “Trung Hoa ngạn dao nghiên cứu” của Vũ Chiêm Khôn [138]; “Tục ngữ” của Từ Tông Tài [141] và nhiều bài nghiên cứu khác đăng trên tạp chí khoa học. Nhìn chung, phạm vi nghiên cứu tục ngữ ngày nay tương đối sâu, rộng. Các tác giả không những chỉ chú ý đến tính chất, nội dung và hình thức của tục ngữ mà còn chú ý nghiên cứu phương diện ngữ dụng nữa. 2.1.1. Nghiên cứu tục ngữ từ góc độ cấu trúc cú pháp Như trên đã nói, các sách nghiên cứu tục ngữ Hán hiện nay đa số đều đề cập đến nhiều khía cạnh của tục ngữ. Nhưng cũng có thể nhận thấy khuynh hướng đi sâu nghiên cứu tục ngữ ở một số lĩnh vực của một số tác giả. Chú ý phân tích cấu trúc cú pháp tục ngữ có Mã Quốc Phàm, Mã Thúc Tuấn [127], Vũ Chiêm Khôn [138]. Đồng tình với quan điểm chung của các nhà Hán học, cho rằng tục ngữ tương đương với đơn vị câu, tác giả Mã và Vũ đều phân tích tục ngữ theo quan điểm ngữ pháp truyền thống của tiếng Hán [x. chương 2]. Theo họ, cấu trúc 5 cú pháp tục ngữ cũng có các kiểu câu đơn, câu ghép và một số cấu trúc đặc thù. Trong các tài liệu chúng tôi khảo sát không thấy có ý kiến khác biệt, không thấy khuynh hướng nghiên cứu khác về cấu trúc cú pháp tục ngữ, các nhà nghiên cứu hoặc không phân tích sâu, hoặc đều phân tích chúng theo cấu trúc cú pháp truyền thống. 2.1.2. Nghiên cứu tục ngữ từ góc độ ngữ nghĩa Các nhà Hán học nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nắm vững ngữ nghĩa tục ngữ vì nó liên quan trực tiếp đến việc lí giải và vận dụng tục ngữ một cách chính xác. Ngoài ra họ còn đề cập cụ thể đến những vấn đề như: nghĩa mặt chữ và nghĩa thực tế của tục ngữ; tính đơn nghĩa và tính đa nghĩa của tục ngữ; tục ngữ đồng nghĩa và tục ngữ phản nghĩa. Theo Ôn Đoan Chính [134], nghĩa mặt chữ (字面意义 tự diện ý nghĩa) của tục ngữ là nghĩa được suy ra trực tiếp từ những từ và quan hệ ngữ pháp bao hàm trong tục ngữ. Nghĩa thực tế (实际意义 thực tế ý nghĩa)của tục ngữ chỉ nghĩa được sử dụng trong thực tế của tục ngữ. Sau khi phân tích mối quan hệ giữa nghĩa mặt chữ và nghĩa thực tế, tác giả phân chúng thành ba nhóm sau: (1) Nghĩa mặt chữ và nghĩa thực tế giống nhau, nghĩa mặt chữ là nghĩa đen. (2) Nghĩa mặt chữ và nghĩa thực tế không giống nhau. Nghĩa mặt chữ không có tác dụng biểu ý, nghĩa thực tế trong câu mới là nghĩa được sử dụng. (3) Có hai nghĩa thực tế, một nghĩa giống nghĩa mặt chữ, còn một nghĩa là nghĩa phái sinh. Về tính đơn nghĩa và đa nghĩa của tục ngữ, tác giả Ôn cho rằng tục ngữ đơn nghĩa là một câu tục ngữ chỉ truyền thụ tri thức ở một lĩnh vực nào đó, những tri 6 thức đó được xác nhận và chỉ có một cách giải thích. Tục ngữ đa nghĩa là tục ngữ có từ hai ý nghĩa trở lên. Trong tục ngữ không hiếm hiện tượng “nhất ngữ đa ngôn”, có tục ngữ có hai nghĩa thực tế – nghĩa đen và nghĩa phái sinh, từ đó hình thành hiện tượng cùng tồn tại tầng nghĩa bề mặt (浅层义 thiển tầng nghĩa) và tầng nghĩa bên trong (深层义 thâm tầng nghĩa). Tuy có thể đa nghĩa, nhưng khi sử dụng trong ngữ cảnh cụ thể, mỗi câu tục ngữ thường cũng chỉ mang một nghĩa nhất định. Cùng quan điểm trên còn có Từ Tông Tài [141], ngoài việc đề cập tới tính đơn nghĩa và đa nghĩa của tục ngữ, ông còn đưa ra một loại nữa là tính thiên nghĩa (偏义性). Tục ngữ thiên nghĩa là dạng thức tục ngữ do hai bộ phận tạo thành, trong đó một bộ phận là chính, một bộ phận là phụ. Bộ phận chính biểu thị nghĩa chính của tục ngữ, bộ phận phụ biểu thị nghĩa phụ, nó có tác dụng so sánh và làm rõ nghĩa mà tục ngữ muốn biểu đạt. Câu tục ngữ “饭多伤胃,话多 伤人 phạn đa thương vị, thoại đa thương nhân” (cơm nhiều hại dạ dày, lời nhiều hại người), trong đó cơm nhiều hại dạ dày là nghĩa phụ để nhấn mạnh, làm nổi rõ nghĩa chính lời nhiều hại người. Thực ra, nghĩa mặt chữ hay nghĩa thực tế (dùng theo thuật ngữ các nhà Hán học) cũng tương đương với nghĩa đen hay nghĩa bóng hoặc nghĩa biểu trưng trong tục ngữ Việt (x. 2.2). Thiết nghĩ, đó cũng là những đặc điểm chung về mặt ngữ nghĩa của tục ngữ nhiều dân tộc. 2.2. Tình hình nghiên cứu tục ngữ ở Việt Nam Việc sưu tầm biên soạn tục ngữ ở Việt Nam cũng xuất hiện từ rất sớm. Chỉ 7 tính trong khoảng 40 năm nửa đầu thế kỉ XX, khá nhiều sách về tục ngữ được biên soạn, xuất bản. Cuốn sách biên soạn tục ngữ in bằng chữ quốc ngữ đầu tiên là “Tục ngữ cổ ngữ gia ngôn”, tác giả là Huỳnh Tịnh Của, xuất bản năm 1896 [dẫn theo 68, tr.28]. Ngoài ra có thể kể đến một số sách khác như “Nam ngạn chích cẩm” của Phạm Quang Sán (1918), “Việt Nam ngạn ngữ phương ngôn thư” của Nguyễn Văn Lễ (1931), v.v. Những sách này chủ yếu dừng lại ở mức thu thập, biên soạn, cùng lắm là có thêm phần chú giải tục ngữ. Tuy nhiên, những tư liệu thu thập tục ngữ đó rất có giá trị về phương diện bảo tồn phong tục tập quán, nói rộng hơn là bảo tồn và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt. Chúng ta có thể nhận thấy điều này trong lời tựa của “Nam âm sự loại”: “Nước Nam ta phương ngôn tục ngữ cùng là lời ca, câu dở, câu hay cũng đều truyền cả. Câu hay để cho người bắt chước, câu dở để cho người răn chừa, không mất tiền mua, đáng trăm quan quý” [dẫn theo 74, tr. 509]. Năm 1975, miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất. Trang sử mới của nước nhà tạo cơ hội tốt cho sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên cũng như xã hội. Nhiều nhà Việt ngữ học quan tâm nghiên cứu tục ngữ và một số công trình chuyên khảo về tục ngữ được ra đời. Những chuyên khảo này không đơn thuần chỉ là sưu tầm và chú giải tục ngữ, mà còn tìm hiểu tục ngữ từ nhiều khía cạnh, trong đó cấu trúc và ngữ nghĩa của tục ngữ được các tác giả đi sâu khai thác, nghiên cứu. Chúng ta có thể kể đến những công trình nghiên cứu về tục ngữ như: “Tục ngữ Việt Nam” của nhóm Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri [27]; “Tục ngữ Việt Nam, cấu trúc & thi pháp” của Nguyễn Thái Hòa [59], “Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam” của tác giả Phan Thị Đào [35] và hàng loạt các bài 8 nghiên cứu tục ngữ đăng trong các tạp chí: Ngôn ngữ, Văn hoá dân gian, Văn học cùng một số luận án tiến sĩ nghiên cứu về tục ngữ trong mấy năm gần đây. Ở Việt Nam, có thể thấy cách tiếp cận nghiên cứu tục ngữ theo các khuynh hướng sau: 2.2.1. Tiếp cận cấu trúc cú pháp tục ngữ theo quan điểm ngữ pháp chức năng Theo quan điểm ngữ pháp chức năng, cấu trúc câu là mô hình Đề –Thuyết. Quan điểm phân tích cú pháp tục ngữ theo mô hình đề thuyết đầu tiên có thể kể đến tác giả Cao Xuân Hạo trong Ngữ pháp chức năng tiếng Việt [54]. Theo ông, mô hình đề thuyết có thể phân nhỏ thành câu một bậc (kiểu câu mà cả Đề lẫn Thuyết đều không thể chia tiếp thành hai phần đề và thuyết ở bậc thấp hơn) và câu nhiều bậc (kiểu câu mà Đề hoặc/ và Thuyết bậc trên được cấu tạo bằng một cấu trúc đề thuyết bậc dưới). Ông dùng biểu đồ hình cây biểu diễn cấu trúc cú pháp tiếng Việt trong đó bao gồm cấu trúc cú pháp tục ngữ Việt [54, tr.72,73]. Ngoài ra để có thể dễ dàng phân định ranh giới giữa Đề và Thuyết, các tác giả còn đưa ra một số từ giữ vai trò là phương tiện phân giới Đề – Thuyết. Đó chủ yếu là các từ “thì”, “là”, “mà”. Nguyễn Đức Dương trong “Tìm về linh hồn tiếng Việt” [32] cùng một quan điểm về mô hình đề-thuyết. Ông đã sử dụng cách biểu diễn cấu trúc cú pháp bằng biểu đồ hình cây của Cao Xuân Hạo để tiến hành phân tích cấu trúc cú pháp tục ngữ. Theo ông, vận dụng mô hình đề-thuyết giúp nhận diện cấu trúc cú pháp của mọi đơn vị tục ngữ dễ dàng, mau lẹ. Có thể tìm thấy cùng chung cách tiếp cận tục ngữ từ góc độ ngữ pháp chức năng trong luận án tiến sĩ “So sánh cấu trúc – chức năng của thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt” của Hoàng Diệu Minh [79]. Theo tác giả trong tiếng Việt, câu có 9 cấu trúc đề-thuyết, tục ngữ cũng vậy. Hoàng Diệu Minh dùng cách phân tích câu và dựa vào các dấu hiệu hình thức và các tác tử phân giới thì, là, mà để phân tích và phân loại tục ngữ theo cấu trúc câu đơn, câu ghép. Vấn đề được nghiên cứu trong luận án về ngữ pháp chức năng đối với cú pháp tục ngữ là sự tiếp thu những thành tựu các công trình đi trước. Bằng cách nhìn của phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại, liên quan chặt chẽ với lí thuyết ngữ pháp chức năng, luận án giúp chúng ta có thể nhận rõ mối quan hệ tất yếu giữa ba bình diện: Kết học, Nghĩa học và Dụng học. Đó là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, mục đích và phương tiện. Cách tiếp cận cấu trúc cú pháp tục ngữ Việt theo quan điểm ngữ pháp chức năng có nhiều thuận lợi và cũng có những cơ sở thuyết phục (như các tác giả đã chứng minh), nhất là đối với những kiểu chuỗi câu rút gọn thường xuất hiện trong tục ngữ như: Chó treo mèo đậy; Nhất vợ, nhì trời; Bố gậy tre, mẹ gậy vông, v.v. 2.2.2. Tiếp cận cú pháp tục ngữ từ góc độ cấu trúc lôgích - ngữ nghĩa Đi theo hướng khảo sát, phân tích tục ngữ từ góc độ lôgích, Nguyễn Đức Dân [25] gợi mở hướng nghiên cứu cấu trúc tục ngữ theo quan điểm lô gích – ngữ nghĩa. Tác giả đưa ra những dẫn chứng cụ thể cho thấy rằng tục ngữ có những cấu trúc đặc thù ít thấy ở câu thông thường. Bằng những cấu trúc lô gích - ngữ nghĩa khái quát, tác giả chứng minh rằng một số câu tục ngữ tuy dùng những phương thức biểu đạt ngôn ngữ khác nhau nhưng lại có cấu trúc lô gích như nhau. Giải mã nghĩa tục ngữ theo kiểu này tương đối chặt chẽ và chuẩn xác. Chúng ta có thể hiểu rằng cấu trúc lô gích là bất biến ngữ nghĩa của hai hay nhiều câu tục ngữ. Đặc trưng của mối quan hệ giữa các quan hệ và thuộc tính của chúng đã tạo ra nghĩa cơ bản của tục ngữ. Thực tế cho thấy một số câu tục 10 ngữ là những biến thể ngôn ngữ của một bất biến ngữ nghĩa, bất biến ngữ nghĩa chính là nghĩa khái quát hay nghĩa biểu trưng của tục ngữ. Gần đây, Nguyễn Quí Thành trong luận án tiến sĩ Cấu trúc cú pháp – ngữ nghĩa của tục ngữ Việt trong sự so sánh với tục ngữ của một số dân tộc khác [95] tập trung nghiên cứu cấu trúc cú pháp tục ngữ xuất phát từ đặc điểm nội dung khái quát nhất của tục ngữ để tìm hiểu các cấu trúc đặc thù một cách có hệ thống. Từ việc phân tích nội dung, hình thức của từng câu tục ngữ Việt, tiếp thu quan điểm của cấu trúc lôgích – ngữ nghĩa, tác giả rút ra ba cặp mệnh đề ngữ nghĩa khái quát nhất phản ánh nhận thức chung của dân gian về thế giới. Đó là: (1) Cái này thì có/ không có đặc điểm này; (2) Cái này thì tương đương/
Luận văn liên quan