Luận văn Giải pháp phát triển hoạt động thị trường kinh doanh thương mại tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội

Trong những năm qua nền kinh tếnước ta không ngừng tăng trưởng với tốc độtăng trưởng bình quân 7% một năm. Hoà cùng không khí hội nhập kinh tếquốc tế, nước ta không ngừng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế định hướng xã hội chủnghĩa. Trong quá trình đổi m ới Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng đổi mới hoạt động ngân hàng là khâu đột phá, góp phần phát triển kinh tế, phù hợp với nền kinh tếthịtrường. Những năm qua Ngân hàng đã hoạt động thật sựnăng động, tựchủ, sáng tạo và hiệu quả. Song song với quá trình đổi mới toàn diện vềcơchếvà bộmáy ngân hàng là hoạt động TTKDTM tại Ngân hàng cũng có nhiều đổi mới tích cực và phát triển. Hoạt động TTKDTM thực sựlà một lĩnh vực quan trọng không thể thiếu được trong nền kinh tếnói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Với vai trò là trung gian thanh toán thì ngân hàng thật sựlà cầu nối giữa các thành phần kinh tế. Nó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tếvà cá nhân trong thanh toán, đồng thời tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội.

pdf75 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1453 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển hoạt động thị trường kinh doanh thương mại tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: “Giải pháp phát triển hoạt động TTKDTM tại chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội.” 2 LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm qua nền kinh tế nước ta không ngừng tăng trưởng với tốc độ tăng trưởng bình quân 7% một năm. Hoà cùng không khí hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta không ngừng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đổi mới Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng đổi mới hoạt động ngân hàng là khâu đột phá, góp phần phát triển kinh tế, phù hợp với nền kinh tế thị trường. Những năm qua Ngân hàng đã hoạt động thật sự năng động, tự chủ, sáng tạo và hiệu quả. Song song với quá trình đổi mới toàn diện về cơ chế và bộ máy ngân hàng là hoạt động TTKDTM tại Ngân hàng cũng có nhiều đổi mới tích cực và phát triển. Hoạt động TTKDTM thực sự là một lĩnh vực quan trọng không thể thiếu được trong nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Với vai trò là trung gian thanh toán thì ngân hàng thật sự là cầu nối giữa các thành phần kinh tế. Nó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế và cá nhân trong thanh toán, đồng thời tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội. Hiện nay hoạt động TTKDTM tại các Ngân hàng thương mại là loại hình dịch vụ có nguồn thu, không chứa đựng rủi ro như các hình thức đầu tư và cho vay khác, tuy nhiên đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam nguồn thu này rất thấp. Cần phải cải thiện hoạt động TTKDTM từ đó làm tăng nguồn thu cho mình là việc làm cần thiết đối với hệ thống NHTM nói chung và đối với chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội nói riêng. Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động TTKDTM, trong mấy năm qua ngành Ngân hàng đã thật sự quan tâm đến nghiệp vụ thanh toán nên cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Các hình thức TTKDTM hiện nay rất 3 phong phú và phức tạp và việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào thanh toán ở nước ta còn yếu kém. Bởi vậy mà hoạt động TTKDTM ở các NHNTM hiện nay còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ. Từ thực tế trên và trước yêu cầu đổi mới của hệ thống ngân hàng trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế thì việc hoàn thiện và phát triển hơn nữa các hình thức TTKDTM là một yêu cầu cấp thiết đối với các NHTM Việt Nam hiện nay. Từ luận điểm này tôi đã nghiên cứu đề tài: “ Giải pháp phát triển hoạt động TTKDTM tại chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội”. Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương chính: Chương I: Hoạt động TTKDTM tại các NHTM. Chương II: Thực trạng hoạt động TTKDTM tại chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội. Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động TTKDTM tại chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội. Mặc dù đã hết sức nghiên cứu, sưu tầm tài liệu nhưng do thời gian có hạn, kiến thức còn hạn chế nên khó tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo, cán bộ ngân hàng để bài viết được hoàn thiện hơn. 4 Chương I: HOẠT ĐỘNG TTKDTM TẠI CÁC NHTM. 1.1. NHTM và hoạt động TTKDTM tại các NHTM. 1.1.1. Sự tồn tại khách quan của hoạt động TTKDTM. Sản xuất hàng hóa ra đời kéo theo sự xuất hiện của tìên tệ. Tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt, nó có thể biểu hiện được giá trị của tất cả các loại hàng hoá khác và có thể thoả mãn được hầu hết các nhu cầu. Quá trình sản xuất càng phát triển thì hàng hoá tạo ra ngày càng nhiều hơn, sự trao đổi ngày càng được mở rộng và phức tạp. Tiền tệ ra đời với chức năng là phương tiện thanh toán, phương tiện lưu thông đã góp phần tích cực cho sản xuất hàng hoá và lưu thông phát triển. Hình thái tiền thân của tiền tệ là hàng hoá được chọn làm vật ngang giá chung. Sau một thời gian thì tiền tệ được cố định là tiền vàng do có nhiều tính ưu việt hơn các loại hàng hoá khác. Trình độ sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, khối lượng hàng hoá tăng theo cấp số nhân, còn trữ lượng vàng thì khai thác không kịp làm cho giá trị danh nghĩa của tiền tê tách rời giá trị thực tế. Tiền giấy ra đời khắc phục hạn chế của tiền vàng do việc in ấn không hạn chế và có nhiều mệnh giá khác nhau, nó đảm bảo cho quá trình lưu thông hàng hoá phát triển nhịp nhàng hơn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Trong quá trình lưu thông luôn xuất hiện hai dòng luân chuyển: dòng luân chuyển hàng hoá và dòng luân chuyển tiền tệ được thực hiện bởi các chủ thể kinh tế. Bất kỳ một chủ thể nào muốn tiến hành sãn xuất kinh doanh đều phải có hai quá trình trao đổi: quá trình mua hàng hoá dịch vụ đầu vào để tiến hành sản xuất kinh doanh và quá trình bán sản phẩm đầu ra nhằm thu lợi nhuận. Và trong quá trình sản xuất kinh doanh đó thì thanh toán là khâu đầu tiên và cũng là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh đó. Thanh toán là điều 5 kiện quan trọng đảm bảo sự tuần hoàn bình thường của lưu thông hàng hóa của quá trình chu chuyển vốn được liên tục trong từng đơn vị sản xuất nói riêng cũng như trong nền kinh tế nói chung. Khâu thanh toán bị ách tắc thì quá trình sản xuất sẽ bị gián đoạn, các mối quan hệ kinh tế bị phá vỡ ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Thanh toán bằng tiền mặt có nghĩa là việc chi trả được thực hiện trực tiếp bằng tiền mặt trong các quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán, hay sự vận động của hàng hoá gắn liền với một khối lượng tiền tệ nhất định. Khi sản xuất hàng hoá chỉ ở trong một phạm vi hẹp, nền kinh tế ở trình độ thấp, khối lượng thanh toán nhỏ thì thanh toán bằng tiền mặt tỏ ra linh hoạt diễn ra ở mọi lúc mọi nơi tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của người mua và người bán. Khi sản xuất hàng hóa phát triển ở trình độ cao, trao đổi hàng hóa không còn bó hẹp trong phạm vi một vùng nữa mà nó đã mở rộng ra phạm vi toàn quốc và trên thế giới. Khối lượng sản phẩm sản xuất ra và tiêu thụ với quy mô lớn, phạm vi rộng, việc thanh toán bằng tiền mặt sẽ không an toàn làm tăng chi phí lưu thông (chi phí vận chuyển, in ấn, bảo quản, kiểm đếm,…). Việc thanh toán bằng tiền mặt sẽ gây cản trở cho tốc độ chu chuyển vốn, đồng thời tạo ra những khe hở không thể kiểm soát như tham ô, trốn thuế trong kinh doanh. Với những hạn chế nói trên thanh toán bằng tiền mặt trở nên không còn phù hợp, không đáp ứng được nhu cầu của một nền kinh tế hiện đại đòi hỏi phải có một hình thức thanh toán mới là hình thức TTKDTM qua ngân hàng. Thanh toán không dùng tiền mặt là sự vận động của tiền tệ qua chức năng phương tiện thanh toán giữa các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội bằng cách trích chuyển vốn từ tài khoản của người phải trả sang tài khoản của người thụ hưởng. Để có được hình thức thanh toán này thì khách hàng 6 phải mở tài khoản tại ngân hàng. TTKDTM là nghiệp vụ trung gian của ngân hàng, là một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, của các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội. Nó là cần thiết khách quan không chỉ đối với sự phát triển của hệ thống ngân hàng mà còn cần thiết cho một nền kinh tế hiện đại. Để thực hiện TTKDTM thì không thể thiếu sự tham gia của hệ thống các NHTM. Sự xuất hiện của NHTM gắn liền với sự phát triển của sản xuất lưu thông hàng hóa, tiền tệ. NHTM là đơn vị kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với ba nghiệp vụ chính là: nhận gửi, cho vay và cung ứng dịch vụ thanh toán, ngoài ba nghiệp vụ này còn có các dịch vụ khác tuỳ theo sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Hoạt động của NHTM là khâu quan trọng trong toàn bộ quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn. NHTM không chỉ cung cấp vốn cho sản xuất mà còn thúc đẩy sự vận động của nền kinh tế thông qua dịch vụ TTKDTM qua ngân hàng. Trong thực tiễn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì mọi đơn vị kinh tế đều phải có một khối lượng tiền tệ nhất định để mua nguyên vật liệu, chi trả các khoản phí phát sinh trong quá trình sản xuất của mình. Các đơn vị kinh doanh thương mại có quá trình mua hàng hoá vào và bán hàng ra, tất yếu phải có hoạt động thanh toán tiền hàng. Nếu như mỗi đơn vị này phải vận chuyển tiền lượng tiền mang đi hay thu về bằng phương tiện giao thông vận tải thì chi phí lớn, không an toàn và mất thời gian. Chính vì vậy mỗi đơn vị cần một trung gian đáng tin cậy để đóng vai trò lưu trữ, bảo quản và thực hiện chi trả hộ. Trung gian đó chính là Ngân hàng. Việc thanh toán sẽ được diễn ra trong nội bộ hệ thống ngân hàng với sự trợ giúp của các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại khiến cho hoạt động thanh toán được nhanh chóng, tiết kiệm và an toàn. 7 NHTM là đơn vị thực hiện hoạt động TTKDTM. Với vai trò là trung gian thanh toán trong nền kinh tế, Ngân hàng đưa ra các công cụ thanh toán hữu ích đa dạng nhằm đáp ứng được nhu cầu thanh toán ngày càng lớn của các chủ thể trong nền kinh tế. Ngân hàng thực hiện tốt hoạt động TTKDTM là thúc đẩy nhanh quá trình chu chuyển vốn trong nền kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Với sự trợ giúp của hệ thống ngân hàng, quan hệ thanh toán trở nên đơn giản hơn rất nhiều đối với các đơn vị kinh doanh, họ sẽ không tốn nhiều thời gian và chi phí cho sản xuất, không gian sản xuất được mở rộng. Các đơn vị kinh doanh ở xa vẫn có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh một cách dễ dàng mà không phải tốn nhiều thời gian và chi phí cho hoạt động thanh toán của mình. Bằng việc áp dụng công nghệ hiện đại với các mối quan hệ đa dạng của mình ngân hàng thực hiện thanh toán cho một doanh nghiệp một cách nhanh chóng và an toàn. Các hoạt động thanh toán như vận chuyển tiền, kiểm tra tiền để thanh toán nay không còn nữa mà thay vào đó các đơn vị kinh doanh chỉ cần mở một tài khoản tại ngân hàng và ký lệnh thanh toán khi cần thiết là mọi hoạt động thanh toán coi như đã hoàn tất. Hơn nữa khoản tiền gửi của các đơn vị kinh tế, cá nhân tại ngân hàng được an toàn và được hưởng lãi từ khoản tiền gửi đối với lãi suất tiền gửi thanh toán. Ngân hàng làm trung gian thanh toán đã làm giảm lượng tiền mặt lưu thông , tiền mặt không bị vận chuyển qua lại nhiều lần từ đó làm tăng tuổi thọ của tiền. làm giảm các chi phí in tiền vận chuyển và bảo quản tiền, các khoản tiền nhàn rỗi được sử dụng để phát triển kinh tế xã hội. 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động TTKDTM Hoạt động TTKDTM đã xuất hiện từ rất lâu. Lịch sử xuất hiện thanh toán chuyển khoản đầu tiên ở nước Anh. Trước năm 1854 nước Anh phát hành tờ giấy bạc 1000 bảng Anh trị giá bằng 7,3224 kg vàng để tiện cho các 8 nhà tư bản rút tiền mặt thanh toán với nhau, đến chiều thì lại nộp vào ngân hàng. Năm 1854, nước Anh phát minh ra phòng thanh toán bù trừ và mang kết quả thanh toán bù trừ về làm chuyển khoản giữa các nhà tư bản thì việc rút tiền mặt buổi sáng nộp lại buổi chiều chấm dứt. Kể từ đó các ngân hàng nước Anh chuyển từ các ngân hàng tiền mặt thành các ngân hàng chuyển khoản. Hoạt động TTKDTM được dựa trên cơ sở tiền gửi ở ngân hàng, việc thanh toán được tiến hành bằng phương pháp ghi chuyển từ tài khoản người này sang tài khoản người khác. TTKDTM có những đặc điểm sau:  Sự vận động của hàng hoá và tiền tệ luôn có sự tách rời về thời gian, sự vận động của tiền tệ có thể trước hoặc sau sự vận động của hàng hoá. Để sự vận động này được diễn ra một cách hợp lý thì cơ chế thanh toán phải quy định thời gian lập và chuyển chứng từ giữa các ngân hàng, giữa ngân hàng với các tổ chức kinh tế cho tương xứng với thời gian vận chuyển hàng hoá, cung cấp dịch vụ đến tay người mua. Hiện nay với sự phát triển của công nghệ máy tính, thời gian thanh toán rất nhanh chỉ sau vài phút có khi chỉ vài giây là việc thanh toán được hoàn tất, trong khi đó thời gian vận động của hàng hoá lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Chính vì vậy mà cần phải có nhiều hình thức thanh toán khác nhau để đáp ứng tốt các quan hệ mua bán hàng hóa và thanh toán theo yêu cầu của khách hàng.  Khi thực hiện hoạt động thanh toán thì các chứng từ là do khách hàng lập đòi hỏi cơ chế thanh toán phải quy định những nguyên tắc thống nhất, nghiêm ngặt có tính chuẩn mực cao, hình thức thanh toán nào được áp dụng thì sẽ sử dụng bộ chứng từ đó, trong các chứng từ số liên cũng phải đủ, đúng chữ ký, lập theo mẫu quy định của Ngân hàng Nhà nước giúp cho việc thanh toán thuận lợi, chính xác, đồng thời hạn chế việc lập các chứng từ giả. 9  Hệ thống ngân hàng hoạt động với mạng lưới rộng khắp, số lượng nghiệp vụ lớn, để kiểm soát theo dõi ngân hàng và khách hàng dễ dàng trong quá trình thanh toán phải có sự thống nhất về quy trình thanh toán, loại hình chứng từ, mẫu chứng từ,…giữa các ngân hàng. Khi khách hàng gửi chứng từ thanh toán đến, kế toán giao dịch sẽ nhận biết đó là loại chứng từ nào, của ngân hàng nào, việc thanh toán trở nên nhanh chóng hơn.  Hoạt động thanh toán được kết thúc trên các tài khoản tại ngân hàng. Nhưng nhiều lý do khác nhau mà việc kết thúc này không được trọn vẹn, tức là sau khi ghi chép trên tài khoản còn có nhiều khách hàng từ chối thanh toán. Sự từ chối gây ra nhiều rắc rối, gây ảnh hưởng đến khả năng tài chính, kế hoạch sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế cá nhân trong xã hội. 1.1.3. Vai trò của hoạt động TTKDTM trong nền kinh tế. Hiện nay TTKDTM có vai trò rất quan trọng đối với các thành phần kinh tế. Với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, mối quan hệ thương mại giữa các nước ngày càng mở rộng, phát triển cả về khối lượng và chủng loại hàng hoá. Chính vì vậy mà hoạt động TTKDTM là một hoạt động không thể tách rời với hoạt động kinh tế, đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia. Vai trò của hoạt động TTKDTM thể hiện như sau: 1.1.3.1. Đối với Ngân hàng Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động TTKDTM có sự tách rời giữa sự vận động của hàng hoá và tiền tệ, trong thời gian đó ngân hàng vẫn có thể tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi từ hoạt động thanh toán, nhất là hình thức thanh toán bằng séc bảo chi, thư tín dụng, ngân phiếu thanh toán khách hàng phải ký quỹ tương ứng với giá trị của nó. Thanh toán qua ngân hàng tạo ra một lượng vốn rất lớn cho hoạt động sản xuất. Ngân hàng phải trả lãi cho tiền 10 gửi thanh toán nhưng đây lại là nguồn vốn kém ổn định, có thể giảm bất cứ khi nào nên hiệu suất sử dụng nguồn vốn này thấp, chỉ có thể cho vay ngắn hạn khó có thể cho vay trung và dài hạn được. Vì thế mà lãi suất trả cho nguồn này thấp khoảng 0.15%/năm, trong khi ngân hàng có thể dùng nguồn này để cho vay, thanh toán để thu lãi và phí dịch vụ. Đối với các ngân hàng nước ngoài thu phí từ các dịch vụ chiếm khoảng 70% tổng thu nhập của ngân hàng. Với hình thức TTKDTM, khách hàng gửi tiền vào tài khoản tại ngân hàng, ngân hàng có thể kiểm soát được một lượng tiền trong nền kinh tế, cũng như khả năng tài chính, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó ngân hàng cung ứng một lượng tiền thích hợp cho nền kinh tế, giúp ngân hàng hoạt động an toàn hơn, nâng cao hiệu quả tín dụng, đầu tư, tạo điều kiện cơ cấu lại thành phần kinh tế cho hợp lý. Hoạt động TTKDTM không chỉ tác động trực tiếp đến nghiệp vụ thanh toán mà còn tác động đến các nghiệp vụ khác như hoạt động cho vay, huy động vốn của ngân hàng. Các hoạt động kinh doanh của ngân hàng có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại và hỗ trợ nhau cùng phát triển. 1.1.3.2. Đối với khách hàng Các khách hàng tham gia thanh toán tại ngân hàng bao gồm các tổ chức, các thành phần kinh tế, và các cá nhân dân cư trong xã hội. Để tiến hàng thanh toán các khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng phục vụ mình và trên tài khoản này luôn có số dư để đảm bảo khả năng thanh toán khi cần thiết. Hoạt động TTKDTM giúp khách hàng bảo toàn khối lượng tiền của mình trong ngân hàng, nên tránh được rủi ro, tránh được sơ hở có thể bị lợi dụng. Khi có hoạt động thanh toán thì ngân hàng trích từ tài khoản này sang tài khoản khác nên tiết kiệm được chi phí bảo quản, vận chuyển. TTKDTM tạo điều kiện quay nhanh vòng vốn, thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh nhanh chóng và hiệu quả. TTKDTM đảm bảo chính xác, rút ngắn thời 11 gian thanh toán với chi phí thấp, giúp các khách hàng an tâm, tập trung vào hoạt động sản xuất kinh doanh làm tăng hiệu quả sản xuất của xã hội. 1.1.3.3. Trên phương diện quản lý vĩ mô của Nhà nước Đố với nền kinh tế, việc tăng tỷ trọng TTKDTM sẽ làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm được chi phí lưu thông, chi phí in ấn, phát hành, kiểm đếm, bảo quản,… đồng thời giúp Ngân hàng Trung Ương điều tiết lượng tiền cung ứng phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế thông qua chính sách tiền tệ thắt chặt hay mở rộng tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. NHTW làm trung tâm thanh toán của toàn bộ nền kinh tế, nhưng không chỉ thực hiện nghiệp vụ thanh toán một cách đơn thuần mà ngân hàng còn thực hiện kiểm soát quan hệ mua bán, quy trình sử dụng vốn, việc chấp hành chế độ, nguyên tắc quản lý kinh tế của từng ngân hàng. Có thể thấy thông qua hoạt động TTKDTM Chính phủ, NHTW thực hiện tốt hơn chức năng quản lý kinh tế vĩ mô, điều tiết được lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế. Từ đó góp phần hạn chế lạm phát, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, định hướng phát triển nền kinh tế theo sự quản lý của Nhà nước. Tóm lại hoạt động TTKDTM có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường, được thể hiện dưới mấy điểm sau: − Một là TTKDTM tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội. − Hai là TTKDTM đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn kinh doanh, đảm bảo sản xuất lưu thông liên tục. − Ba là TTKDTM tạo điều kiện tập trung nguồn vốn trong nền kinh tế làm tăng nguồn vốn cho ngân hàng. − Bốn là TTKDTM có vai trò cung cấp thông tin cho ngân hàng thực hiện kiểm soát bằng đồng tiền. 12 Như vậy, hoạt động TTKDTM có vai trò trực tiếp cũng như gián tiếp ảnh hướng đến ba thành viên quan trọng của nền kinh tế đó là doanh nghiệp, Ngân hàng, Nhà nước. Thực hiện tốt hoạt động TTKDTM sẽ tạo điều kiện cho từng thành viên đạt hiệu quả cao trong hoạt động của mình, đồng thời thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 1.2. Các hình thức TTKDTM phổ biến. Tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước, ở mỗi thời kỳ và tuỳ theo thói quen của dân cư mà mỗi nước có thể sử dụng các hình thức thanh toán khác nhau cho phù hợp, Từ sau năm 1986 nước ta xoá bỏ nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đã nhiều lần thay đổi các văn bản quy định về các hình thức TTKDTM. Thời kỳ bắt đầu đổi mới hệ thống ngân hàng những năm 1990 – 1991, các hình thức TTKDTM được thực hiện bởi quyết định số 101/QĐ ngày 31/07/1991 bao gồm 4 hình thức thanh toán sau: - Séc - Uỷ nhiệm thu (UNT) - Uỷ nhiệm chi (UNC) - Thư tín dụng (L/C) Sau một quá trình thực hiện quyết định trên, NHNN nhân thấy 4 hình thức TTKDTM này chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu đa dạng của nền kinh tế, Thống đốc NHNN đã ký quyết định số 22/QĐ-NH ngày 21/12/1994 bổ xung thêm 2 công cụ thanh toán, theo quyết định này thì các cá nhân và đơn vị thanh toán qua ngân hàng được áp dụng các hình thức thanh toán dưới đây: - Séc - UNT - UNC 13 - Thư tín dụng - Phiếu thanh toán - Thẻ thanh toán Riêng về séc thanh toán ngày 09/05/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 30/CP về quy định sử dụng séc, NHNN đã ban hành thông tư hướng dẫn quy chế phát hành và sử dụng cho các ngân hàng và tổ chức tín dụng, thông tư hướng dẫn có hiệu lực từ ngày 04/04/1997. Trong các hình thức TTKDTM được quyết định ở số 22/QĐ-NH của Thống đốc NHNN, ngân phiếu được coi là một hình thức TTKDTM. Tuy nhiên theo quyết định số 425 ngày 17/12/1998 của Thống đốc NHNN thì ngân phiếu thanh toán được xếp vào tài khoản loại 1, loại hoạt động ngân quỹ. Mặt khác do đặc điểm của ngân phiếu thanh toán là do NHNN phát hành, có thời hạn thanh toán và mệnh giá in sẵn trên từng tờ, vô danh, được chuyển nhượng. Với đặc điểm này thì ngân phiếu thanh toán được sử dụng như tiền mặt có thời hạn. Hơn nữa đối với bất kỳ hình thức TT