Luận văn Giải pháp quản lý quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất trong giai đoạn hiện nay

Đất nước ta đang trong giai đoạn những năm đầu của thế kỷ XXI, thế kỷ của nền văn minh trí tuệ, nền kinh tế tri thức, thể kỷ của hội nhập khu vực và quốc tế. Đảng và Nhà nước ta đã xác định phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, chủ trương này được xuyên suốt trong các Nghị quyết của Đảng, từ Nghị quyết TW 4 (khoá VII) đến Nghị quyết TW 2 (khoá VIII) (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Đảng ta khẳng định, phát triển giáo dục và đào tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Vì lợi ích 10 năm thì phải trồng cây Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội giáo dục là sự nghiệp “Trồng người” cũng trên tinh thần như vậy, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng xác định: “Xuất phát từ nhận thức chăm lo cho con người, cho cộng đồng xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi đơn vị, của từng gia đình, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân, chúng ta chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội theo tinh thần xã hội hoá, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt. sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước và nhân dân cùng làm, mọi việc đều phải dựa vào nhân dân”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta khẳng định: “.Đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển giáo dục ở tất cả các bậc học.” (27 tr204). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ “Chăm lo phát triển giáo dục Mầm non”, thực hiện “Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non là một quy luật và là khâu then chốt để thực hiện “Chuẩn hoá”. “Hiện đại hoá”. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đến năm 2020 là “Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc học Mầm non cho hầu hết trẻ em trong độ tuổi. Phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho các gia đình”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam” (29, tr95). - Luật Giáo dục năm 2005 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định rõ ở điều 12 về “Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục”. Theo tinh thần của Luật Giáo dục, công tác quản lý chỉ đạo, phát triển giáo dục Mầm non cần gắn với công tác vận động xã hội mới đem lại hiệu quả cao. Giáo dục có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc cũng như toàn thể nhân dân. Chiến lược giáo dục, chiến lược con người là bộ phận quan trọng của chiến lược kinh tế - xã hội. Bởi chức năng chủ yếu của giáo dục là hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ. Phát triển giáo dục không phải chỉ quan tâm đến quy mô, tốc độ, số lượng mà đặc trưng chủ yếu là tổ chức các quá trình giáo dục, thông qua việc tổ chức dạy và học dưới nhiều hình thức. Nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ đi vào cuộc sống xã hội. Nhất là đối với giáo dục Mầm non mà đặc trưng của nó là tính giáo dục gia đình và tính tự nguyện cao. Trẻ em hôm nay sẽ là chủ nhân đất nước những thập niên đầu thế kỷ XXI, vì thế cần phải bắt đầu từ việc chăm sóc, giáo dục trẻ em từ tuổi mầm non và trách nhiệm này không chỉ thuộc về nhà trường Mầm non mà còn là trách nhiệm của gia đình và của toàn xã hội. Tầm quan trọng của xã hội hoá giáo dục đối với sự phát triển đi lên của đất nước, lợi ích, quyền lợi và trách nhiệm của các thành viên trong xã hội. đối với sự nghiệp phát triển giáo dục, xã hội hoá giáo dục và đào tạo đã được Đảng và Nhà nước ta xác định. Nhưng mục tiêu, nội dung xã hội hoá giáo dục cũng như công tác quản lý xã hội hoá giáo dục phải được hiểu như thế nào ? Các biện pháp tổ chức xã hội hoá giáo dục cũng như công tác quản lý xã hội hoá giáo dục ở các bậc học, ngành học trong hệ thống giáo dục quốc dân phải được tiến hành ra sao ? Nội dung và tính chất của các biện pháp tổ chức và quản lý trong thực tiễn.? Các vấn đề trên nếu được lý giải một cách khách quan, khoa học thì không những làm sáng tỏ quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá giáo dục mà còn góp phần giúp các tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội các đoàn thể quần chúng, các cơ sở giáo dục. có định hướng phát triển xã hội hoá giáo dục và quản lý xã hội hoá giáo dục có hiệu quả. Nghiên cứu xã hội hoá giáo dục và việc tăng cường quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội hoá giáo dục mầm non ở huyện Thạch Thất - thành phố Hà Nội không chỉ tìm kiếm những lời giải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội khách quan, đáp ứng nhu cầu nhận thức mà còn có một ý nghĩa thực tiễn quan trọng: Cung cấp cơ sở cho việc dự đoán và định hướng cho sự phát triển xã hội hoá giáo dục và tăng cường quản lý xã hội hoá giáo dục trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Hơn nữa để phát triển giáo dục Mầm non, không còn con đường nào khác là phải thực hiện tốt công tác xã hội hoá giáo dục. Một sự nghiệp lớn được kế tục một cách nhất quán qua nhiều thế hệ, mỗi giai đoạn nhất định đều có chính sách mục tiêu, biện pháp và cách thức tiến hành khác nhau, nhằm đạt được những mục tiêu định hướng của xã hội, gia đình và chính nguyện vọng của trẻ em. * Thực tế về sự nghiệp giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất: Quán triệt tư tưởng xã hội hoá giáo dục được định hướng từ các Nghị quyết Đại hội Đảng những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Thạch Thất, công tác xã hội hoá giáo dục được tiến hành tích cực với nhiều hình thức phong phú, cùng với việc vận động xã hội đóng góp nhân lực, vật lực, huy động các nguồn đầu tư cho giáo dục. Đặc biệt là bậc học mầm non thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường lớp, gắn kết giáo dục nhà trường với cộng đồng xã hội để huy động học sinh đến trường lớp. Do vậy, sự nghiệp giáo dục Mầm non của huyện Thạch Thất đã thu được những thành tựu đáng tự hào về sự phát triển quy mô, số lượng và chất lượng giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, những thành tích đã đạt được, việc thực hiện xã hội hoá giáo dục mầm non ở huệyn Thạch Thất vẫn còn gặp không ít khó khăn, trở ngại như ở một số xã cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể phụ huynh chưa nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của giáo dục Mầm non họ coi việc giáo dục Mầm non chỉ là trông giữ không học hành gì. nên không đưa học sinh đến trường lớp. Do vậy tỷ lệ học sinh đến trường thấp nếu có đưa đến trường lớp trưa đón về không cho ăn ở trường. Không ít quan niệm khác nhau cho rằng nội dung chính của xã hội hoá giáo dục là huy động kinh phí trong nhân dân hoặc có nơi quan niệm xã hội hoá giáo dục là để dân lo là chính dẫn đến việc đầu tư nguồn lực cho phát triển giáo dục chưa được quan tâm đúng mức. Mặt khác việc quản lý mầm non về công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non còn thiếu một số biện pháp phù hợp, hiệu quả. Chính từ thực trạng trên tác giả chọn đề tài “Giải pháp quản lý quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất trong giai đoạn hiện nay”.

doc113 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2306 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp quản lý quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Đất nước ta đang trong giai đoạn những năm đầu của thế kỷ XXI, thế kỷ của nền văn minh trí tuệ, nền kinh tế tri thức, thể kỷ của hội nhập khu vực và quốc tế. Đảng và Nhà nước ta đã xác định phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, chủ trương này được xuyên suốt trong các Nghị quyết của Đảng, từ Nghị quyết TW 4 (khoá VII) đến Nghị quyết TW 2 (khoá VIII) (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Đảng ta khẳng định, phát triển giáo dục và đào tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Vì lợi ích 10 năm thì phải trồng cây Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội giáo dục là sự nghiệp “Trồng người” cũng trên tinh thần như vậy, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng xác định: “Xuất phát từ nhận thức chăm lo cho con người, cho cộng đồng xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi đơn vị, của từng gia đình, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân, chúng ta chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội theo tinh thần xã hội hoá, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt... sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước và nhân dân cùng làm, mọi việc đều phải dựa vào nhân dân”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta khẳng định: “..Đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển giáo dục ở tất cả các bậc học...” (27 tr204). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ “Chăm lo phát triển giáo dục Mầm non”, thực hiện “Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non là một quy luật và là khâu then chốt để thực hiện “Chuẩn hoá”. “Hiện đại hoá”. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đến năm 2020 là “Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc học Mầm non cho hầu hết trẻ em trong độ tuổi. Phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho các gia đình”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam” (29, tr95). - Luật Giáo dục năm 2005 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định rõ ở điều 12 về “Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục”. Theo tinh thần của Luật Giáo dục, công tác quản lý chỉ đạo, phát triển giáo dục Mầm non cần gắn với công tác vận động xã hội mới đem lại hiệu quả cao. Giáo dục có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc cũng như toàn thể nhân dân. Chiến lược giáo dục, chiến lược con người là bộ phận quan trọng của chiến lược kinh tế - xã hội... Bởi chức năng chủ yếu của giáo dục là hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ. Phát triển giáo dục không phải chỉ quan tâm đến quy mô, tốc độ, số lượng mà đặc trưng chủ yếu là tổ chức các quá trình giáo dục, thông qua việc tổ chức dạy và học dưới nhiều hình thức. Nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ đi vào cuộc sống xã hội. Nhất là đối với giáo dục Mầm non mà đặc trưng của nó là tính giáo dục gia đình và tính tự nguyện cao. Trẻ em hôm nay sẽ là chủ nhân đất nước những thập niên đầu thế kỷ XXI, vì thế cần phải bắt đầu từ việc chăm sóc, giáo dục trẻ em từ tuổi mầm non và trách nhiệm này không chỉ thuộc về nhà trường Mầm non mà còn là trách nhiệm của gia đình và của toàn xã hội. Tầm quan trọng của xã hội hoá giáo dục đối với sự phát triển đi lên của đất nước, lợi ích, quyền lợi và trách nhiệm của các thành viên trong xã hội... đối với sự nghiệp phát triển giáo dục, xã hội hoá giáo dục và đào tạo đã được Đảng và Nhà nước ta xác định. Nhưng mục tiêu, nội dung xã hội hoá giáo dục cũng như công tác quản lý xã hội hoá giáo dục phải được hiểu như thế nào ? Các biện pháp tổ chức xã hội hoá giáo dục cũng như công tác quản lý xã hội hoá giáo dục ở các bậc học, ngành học trong hệ thống giáo dục quốc dân phải được tiến hành ra sao ? Nội dung và tính chất của các biện pháp tổ chức và quản lý trong thực tiễn...? Các vấn đề trên nếu được lý giải một cách khách quan, khoa học thì không những làm sáng tỏ quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá giáo dục mà còn góp phần giúp các tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội các đoàn thể quần chúng, các cơ sở giáo dục... có định hướng phát triển xã hội hoá giáo dục và quản lý xã hội hoá giáo dục có hiệu quả. Nghiên cứu xã hội hoá giáo dục và việc tăng cường quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội hoá giáo dục mầm non ở huyện Thạch Thất - thành phố Hà Nội không chỉ tìm kiếm những lời giải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội khách quan, đáp ứng nhu cầu nhận thức mà còn có một ý nghĩa thực tiễn quan trọng: Cung cấp cơ sở cho việc dự đoán và định hướng cho sự phát triển xã hội hoá giáo dục và tăng cường quản lý xã hội hoá giáo dục trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Hơn nữa để phát triển giáo dục Mầm non, không còn con đường nào khác là phải thực hiện tốt công tác xã hội hoá giáo dục. Một sự nghiệp lớn được kế tục một cách nhất quán qua nhiều thế hệ, mỗi giai đoạn nhất định đều có chính sách mục tiêu, biện pháp và cách thức tiến hành khác nhau, nhằm đạt được những mục tiêu định hướng của xã hội, gia đình và chính nguyện vọng của trẻ em. * Thực tế về sự nghiệp giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất: Quán triệt tư tưởng xã hội hoá giáo dục được định hướng từ các Nghị quyết Đại hội Đảng những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Thạch Thất, công tác xã hội hoá giáo dục được tiến hành tích cực với nhiều hình thức phong phú, cùng với việc vận động xã hội đóng góp nhân lực, vật lực, huy động các nguồn đầu tư cho giáo dục. Đặc biệt là bậc học mầm non thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường lớp, gắn kết giáo dục nhà trường với cộng đồng xã hội để huy động học sinh đến trường lớp. Do vậy, sự nghiệp giáo dục Mầm non của huyện Thạch Thất đã thu được những thành tựu đáng tự hào về sự phát triển quy mô, số lượng và chất lượng giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, những thành tích đã đạt được, việc thực hiện xã hội hoá giáo dục mầm non ở huệyn Thạch Thất vẫn còn gặp không ít khó khăn, trở ngại như ở một số xã cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể phụ huynh chưa nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của giáo dục Mầm non họ coi việc giáo dục Mầm non chỉ là trông giữ không học hành gì... nên không đưa học sinh đến trường lớp. Do vậy tỷ lệ học sinh đến trường thấp nếu có đưa đến trường lớp trưa đón về không cho ăn ở trường... Không ít quan niệm khác nhau cho rằng nội dung chính của xã hội hoá giáo dục là huy động kinh phí trong nhân dân hoặc có nơi quan niệm xã hội hoá giáo dục là để dân lo là chính dẫn đến việc đầu tư nguồn lực cho phát triển giáo dục chưa được quan tâm đúng mức. Mặt khác việc quản lý mầm non về công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non còn thiếu một số biện pháp phù hợp, hiệu quả. Chính từ thực trạng trên tác giả chọn đề tài “Giải pháp quản lý quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất trong giai đoạn hiện nay”. * Về mặt khoa học: Xã hội hoá giáo dục Mầm non là một đề tài không hoàn toàn mới và đã được một số tác giả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn. Song, đối với địa bàn huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội còn là vấn đề mới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, kiểm chứng những giải pháp đã được tổng kết và bổ sung một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao xã hội hoá giáo dục giáo dục Mầm non phù hợp với thực tiễn địa bàn huyện Thạch Thất - thành phố Hà Nội với đề tài này mong muốn được góp tiếng nói nhỏ bé của mình nhằm đẩy mạnh sự phát triển toàn diện giáo dục Mầm non của huyện Thạch Thất trong giai đoạn hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu thực trạng công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất trong những năm qua. Những thành công, tồn tại và bài học kinh nghiệm để đưa ra những biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non trên địa bàn huyện một cách đồng bộ, hợp lý, có hiệu quả. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu: 3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non. 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất - Thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: 4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận, xã hội hoá giáo dục và quản lý công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non. 4.2. Khảo sát thực trạng công tác xã hội hoá giáo dục và quản lý công tác xã hội hoáệư nghiệp GDMN. 4.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý công tác xã hội hoá sự nghiệp GDMN ở huyện Thạch Thất - thành phố Hà Nội; kiểm định tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp đưa ra. 5. Giả thuyết khoa học: Công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục là vấn đề tất yếu khách quan trong sự nghiệp phát triển giáo dục ở nước ta. Việc quản lý công tác XHHSNGDMN ở huyện Thạch Thất - thành phố Hà Nội nói chung , XHHSNGMN nói riêng trong thời gian qua tuy đã đạt được những kết quả nhất định, song vẫn còn có những hạn chế, bất cập do nhiều yếu tố chủ quan, khách quan. Nếu đề xuất và triển khai những biện pháp quản lý bao quát cả hai chiều nhà trường và cộng đồng đối với sự nghiệp giáo dục Mầm non ở trên địa bàn địa bàn huyện thì công tác XHH sự nghiệp GDMN ở huyện Thạch Thất - thành phố Hà Nội sẽ đạt các kết quả khả quan. 6. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu giới hạn nghiên cứu vấn đề XHHSN GDMN trên địa bàn huyện Thạch Thất – Thành phố Hà Nội trong bối cảnh phát triển hiện nay. Đề tài tập trung nghiên cứu công tác XHH sự nghiệp GDMN trên các mặt cơ bản sau: - Sự lãnh đạo của Cấp uỷ, chính quyền đối với công tác XHHSNGDMN - Vai trò của Phòng GD&ĐT trong công tác XHHSNGDMN. - Sự phối hợp của các cơ quan, đoàn thể, cá xã thị trấn, các tổ chức xã hội để phát triển GDMN. 7. Phương pháp nghiên cứu: 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp, khái quát hoá những vấn đề lý luận cơ bản của đề tài làm cơ sở cho nghiên cứu thực tiễn các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Vận dụng phương pháp xã hội học để nghiên cứu. - Phương pháp quan sát các hoạt động xã hội hoá giáo dục ở các trường Mầm non trong huyện để thu thập số liệu, phát hiện những vấn đề mới. - Phương pháp điều tra, khảo sát thâm nhập thực tiễn: Các đối tượng cán bộ quản lý, giáo viên, cha mẹ học sinh để đánh giá thực trạng. + Trò chuyện phỏng vấn sâu một số chuyên gia GDMN Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hà Nội; tham khảo các văn bản tổng kết, đánh giá và rút kinh nghiệm hàng năm về tình hình quản lý XHHSNGDMN trên địa bàn huyện, từ đó phân tích , tổng hợp, rút ra đánh giá và những bài học kinh nghiệm để tạo tiền đề cho việc đề xuất các biện pháp quản lý để tăng cường công tác XHHSNGDMN trong giai đoạn hiện nay. 7.3. Phương pháp thống kê: Sử dụng các công thức thống kê để xử lý kết quả khảo sát. 8. Cấu trúc luận văn: Ngoài phần mở đầu (7 trang). Nội dung luận văn được cấu trúc 3 chương. - Chương 1: Cơ sở lý luận về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục và quản lý công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non (23 trang). - Chương 2: Thực trạng công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất - thành phố Hà Nội (…1trang). - Chương 3: Xu hướng và giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất (…. trang). Kết luận và khuyến nghị: ……..trang Cuối luận văn là danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI HOÁ SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC M ÂM NON 1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề : Chức năng đầu tiên, chức năng nguyên thuỷ của giáo dục là xã hội hoá, ứng với mỗi giai đoạn phát triển, mối quan hệ hai chiều giáo dục - xã hội thúc đẩy nhau cùng phát triển. Tiến trình phát triển của xã hội loài người từ khi có giai cấp và hình thành Nhà nước cho đến nay, chúng ta thấy giáo dục là một bộ phận của xã hội và nó phục vụ cho sự phát triển của xã hội, giáo dục là sản phẩm của xã hội vừa là cái nôi của giáo dục vừa là môi trường cho sự phát triển giáo dục, giáo dục tách khỏi xã hội thì giáo dục không có lý do để tồn tại; giáo dục là một trong những nhân tố đánh dấu những nấc thang trình độ văn minh của các thời đại trong lịch sử. Sự tồn tại phát triển của giáo dục chịu sự chi phối của sự phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại giáo dục có vai trò hết sức to lớn trong việc tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo ra môi trường cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì điều mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục và cộng đồng xã hội thường xuyên được diễn ra cùng với quá trình phát triển của xã hội loài người. Với tầm quan trọng như vậy, ngày nay giáo dục luôn được coi là quốc sách hàng đầu của nhiều Quốc gia trên thế giới. Việc quan tâm, đầu tư, huy động mọi nguồn lực và mọi điều kiện cho phát triển giáo dục là sách lược lâu dài của nhiều giải quyết. Mặc dù bản chất của giáo dục ở các nước có khác nhau nhưng đều cho thấy xã hội hoá sự nghiệp giáo dục là cách làm phổ biến, kể cả những nước có nền công nghiệp hiện đại - kinh tế phát triển cao. Qua các tài liệu nghiên cứu cho thấy xã hội hoá sự nghiệp giáo dục không phải là vấn đề hoàn toàn mới, nó có nguồn gốc lâu đời là bước phát triển của một chủ trương phát triển giáo dục được thực hiện từ nhiều năm qua. Trải qua nhiều thời kỳ đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Với tư tưởng “Lấy dân làm gốc”, “Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo và thực hiện các quan điểm “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng” là sức mạnh tiềm tàng cho sự phát triển nền giáo dục nước nhà. Ngay từ những ngày đầu của nước Việt Nam độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi chống nạn thất học”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch cả nước đã trở thành một xã hội học tập, tiêu biểu, sôi động nhất đó là phong trào bình dân học vụ... Tư tưởng giáo dục “Ai cũng được học hành” của Hồ Chủ tịch đã thực sự đi vào cuộc sống. Đất nước hoàn toàn thống nhất, cả hai miền Nam - Bắc cùng thực hiện một hệ thống giáo dục đã đạt được những thành quả nhất định. Song do cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, nền giáo dục của chúng ta không khai thác triệt để bài học phát huy sức mạnh của toàn dân tộc để phát triển giáo dục. Thay vì thực hiện “Quản lý giáo dục của Mầm non” chúng ta đã “Mầm non hoá giáo dục” làm cho giáo dục rơi vào thế bị động, không thu hút được các nguồn lực của toàn xã hội tham gia vào các hoạt động giáo dục. Từ thách thức đó đòi hỏi sự nghiệp giáo dục và đào tạo phải đổi mới cách nhìn nhận về vị trí vai trò của mình trong công cuộc đổi mới đất nước. Việc “Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân cùng góp sức xây dựng nền giáo dục quốc phòng toàn dân dưới sự quản lý của Nhà nước” đã trở nên vô cùng bức thiết. * Đảng và Nhà nước ta xác định giáo dục có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Đảng ta xác định, muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thắng lợi phải phát triển giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để phát triển Giáo dục và Đào tạo. Quan điểm, chủ trương đó được xuyên suốt từ Đại hội VII đến Đại hội X của Đảng. Đảng ta đã khẳng định “Xã hội hoá” là một trong những quan điểm để hoạch định hệ thống các chính sách xã hội. Từ Nghị quyết TW 4 khoá IX Đảng ta khẳng định: “Đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, xây dựng xã hội học tập, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân là một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo dục” (20, tr89). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4 - 2006) đã chỉ rõ: “Thựchiện xã hội hoá sự nghiệp giáo dục. Huy động nguồn lực vật chất và trí tuệ của xã hội tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục. Phối hợp chặt chẽ giữa ngành giáo dục với các ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp... để mở mang giáo dục, tạo điều kiện học tập cho mọi thành viên trong xã hội” (21, tr 97). Chủ trương xã hội hoá sự nghiệp giáo dục của Đảng được thể chế hoá vào Hiến pháp 1992, tại điều 35: “...Phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập các hình thức giáo dục khác (56,tr89) Điều 12 của Luật Giáo dục 2005 khẳng định “Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục để thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục” (57,tr35). Ngày 18/4/2005 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục thể thao. Tiếp đó, ngày 24/6/2005 Bộ GD & ĐT đã ban hành Quyết định số 20/2005/QĐ-BGD và ĐT phê duyệt đề án “Quy hoạch phát triển xã hội hoá sự nghiệp giáo dục giai đoạn 2005 - 2010”. Chương II, hệ thống giáo dục quốc dân Điều 21, 22 Luật giáo dục năm 2005 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ “Giáo dục Mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng; chăm sóc, giáo dục trẻ từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi”. Hội nghị của Thủ tướng Chính phủ (25/6/2002) bàn về phát triển giáo dục Mầm non theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã một lần nữa khẳng định: Giáo dục Mầm non là bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục Mầm non là ngành học thể hiện tính xã hội hoá cao hơn hết. Giáo dục Mầm non thể hiện sinh động nguyên tắc Nhà nước, xã hội và nhân dân cùng làm. Để đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp phát triển giáo dục Mầm non, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức hội nghị bàn về công tác giáo dục Mầm non. Hội nghị đã đề ra các giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh: Tiếp tục đẩy mạnh biện pháp xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non; đa dạng hoá các loại hình giáo dục Mầm non, kiến nghị cần có chính sách để đầu tư cho giáo dục Mầm non; ban hành Quyết định số 164/2002/QĐ-TTg về một số chính sách phát triển giáo dục Mầm non. 1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài: 1.2.1. Khái niệm về quản lý giáo dục. Giáo dục là một hoạt động xã hội rộng lớn và hết sức quan trọng, có liên quan trực tiếp đến lợi ích, quyền lợi và nghĩa vụ của mọi thành viên trong xã hội, mọi tổ chức kinh tế - xã hội của mỗi Quốc gia. Đồng thời, GD là một trong nhân tố có tác động mạnh mẽ đến tiến trình hưng thịnh hay suy vong của một thể chế chính trị, một triều đại và của cả một thời đại. Vì thế ngay từ thời kỳ cổ đại các nhà triết học, giáo dục học, sử gia đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của nó. Khổng Tử (551- 479tr.CN), nhà giáo dục lớn thời cổ đại của Trung Quốc, ông coi GD là nằm trong hệ thống “ Thứ - Phú – Giáo” đòi hỏi những nhà chính trị, những người cầm quyền không được sao nhãng. Như vậy, qua các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu về xã hội học, về GD từ thời kỳ cổ đại cho đến nay cho thấy: GD là một hiện tượng xã hội có lịch sử lâu đời và tồn tại song hành cùng với sự phát triển của xã hội loài người. GD là sản phẩm của xã hội, đồng thời là một trong những nhân tố đánh dấu nấc thang trình độ văn minh của các thời đại trong lịch sử. Trong sách “ Giáo dục học” của A.Ilinna, nhà giáo dục học Xô viết cho rằng: “ …giáo dục là một quá trình truyền thụ kinh nghiệm lịch sử xã hội – cho các thế hệ mới, nhằm chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống xã hội và bước vào lao động sản xuất” [40, tr.6]. Giáo dục được hiểu là hoạt động có tổ chức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống của GD, nhằm tạo ra sức mạnh có tính chất đa dạng về thể chất, tinh thần của con người, đáp ứng được nhu cầu phát triển KT-XH. Giáo dục còn là quá trình hình thành cho con người tri thức khoa học về thế giới khách quan, về lý tưởng, đạo đức, thái độ thẩm mỹ. Trên cơ sở đó hình thành nhân sinh quan, phát triển đạo đức, trí, th
Luận văn liên quan