Luận văn Giáo dục - Đào tạo long an hai mươi năm đổi mới (1986 - 2006)

Giáo dục và đào tạo (GD – ĐT) đã được Đảng và Nhà Nước ta xem và đặt vào vị trí hàng đầu nhằm đưa đất nước phát triển ngay khi mới giành được chính quyền. Như Bác Hồ đã từng nhắn nhũ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập của các em”, rõ ràng giáo dục – đào tạo có vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc. Long An là một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cữu Long (ĐBSCL), giữ một vị trí chiến lược, là cửa ngõ vào thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) từ miền Tây Nam Bộ. Có thể nói sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất, mặc dù còn vấp nhiều khó khăn trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhưng Long An vẫn từng bước khắc phục những khó khăn, hạn chế đó dần đưa tỉnh nhà tiến lên góp phần cùng các tỉnh bạn đưa đất nước phát triển.

pdf91 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1243 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giáo dục - Đào tạo long an hai mươi năm đổi mới (1986 - 2006), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH -------------------- GIẢN THỊ KIM PHƯƠNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO LONG AN HAI MƯƠI NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2006) Chuyên ngành : LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số : 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS. TS NGÔ MINH OANH Thành phố Hồ Chí Minh - 2007 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là từ nhiều nguồn và tự điều tra. Đề tài nghiên cứu, các kết luận của luận văn chưa được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác. Tác giả luận văn GIẢN THỊ KIM PHƯƠNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BDTX : BTVH : CB : CĐSP : CSVC : CP : ĐBSCL : ĐTM : GV : HS : MN : MG : NQ : NQTW : KTTH – HN – DN : PCGDTH : PTTH : TPHCM : TH : TXTA : THCS : THKT – KT : THYT : THSP : SV : XHCN : XMC : Bồi dưỡng thường xuyên Bổ túc văn hóa Cán bộ Cao đẳng sư phạm Cơ sở vật chất Chính phủ Đồng bằng sông Cữu Long Đồng Tháp Mười Giáo viên Học sinh Mầm non Mẫu giáo Nghị quyết Nghị quyết Trung ương Kỹ thuật tổng hợp - Hướng nghiệp - Dạy nghề Phổ cập giáo dục tiểu học Phổ thông trung học Thành phố Hồ Chí Minh Tiểu học Thị xã Tân An Trung học cơ sở Trung học kinh tế - Kỹ thuật Trung học Y tế Trung học sư phạm Sinh viên Xã hội chủ nghĩa Xóa mù chữ MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Giáo dục và đào tạo (GD – ĐT) đã được Đảng và Nhà Nước ta xem và đặt vào vị trí hàng đầu nhằm đưa đất nước phát triển ngay khi mới giành được chính quyền. Như Bác Hồ đã từng nhắn nhũ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập của các em”, rõ ràng giáo dục – đào tạo có vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc. Long An là một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cữu Long (ĐBSCL), giữ một vị trí chiến lược, là cửa ngõ vào thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) từ miền Tây Nam Bộ. Có thể nói sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất, mặc dù còn vấp nhiều khó khăn trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhưng Long An vẫn từng bước khắc phục những khó khăn, hạn chế đó dần đưa tỉnh nhà tiến lên góp phần cùng các tỉnh bạn đưa đất nước phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực đáng ghi nhận thì các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cũng bộc lộ một số hạn chế cần được khắc phục, giải quyết. Đặc biệt là khi Long An nói riêng và cả nước nói chung bước vào công cuộc đổi mới và hiện đại hóa. Do đó, nghiên cứu về Giáo dục - đào tạo Long An, hai mươi năm đổi mới (1986 – 2006) là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết vì không chỉ tái hiện lại lịch sử của lĩnh vực giáo dục – đào tạo mà còn giúp rút ra một số bài học cần thiết, góp phần định hướng cho công tác giáo dục – đào tạo Long An trong những năm tới, khắc phục những thiếu sót và hạn chế của giáo dục – đào tạo trong thời gian vừa qua, nhằm đưa giáo dục – đào tạo Long An phát triển, kề vai sát cánh cùng các tỉnh bạn đưa giáo dục Việt Nam hòa nhập vào nền giáo dục Quốc tế, đồng thời đưa Việt Nam từ một nước đang phát triển trở thành một nước phát triển mạnh về mọi mặt. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất, công cuộc khôi phục và phát triển đất nước được tiến hành thì giáo dục – đào tạo cũng được quan tâm nghiên cứu trong cả nước. Tiêu biểu như các công trình, các sách: - Bộ giáo dục và đào tạo (1996), Các chủ trương đổi mới giáo dục – đào tạo trong mười năm (1986 – 1996). - Bộ giáo dục và đào tạo (1996), Tổng kết đánh giá mười năm đổi mới giáo dục – đào tạo (1986 – 1996). - Bộ giáo dục và đào tạo (1995), Các định hướng chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo từ nay đến năm 2020. - Bộ giáo dục và đào tạo, Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI kinh nghiệm của các quốc gia, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Phạm văn Giạng (2003), Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Phạm Minh Hạc (1998), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Đắc Hưng, Phan Xuân Dũng (2003), Nhân tài trong chiến lược phát triển quốc gia, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Cảnh Toàn (2002), Bàn về giáo dục Việt Nam, Nxb Lao Động. - Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Những tài liệu trên, tuy không viết riêng về Long An nhưng qua đó đã cung cấp cho người đọc những nhận định chung về tình hình giáo dục – đào tạo của Việt Nam, trong đó có giáo dục – đào tạo Long An. Các tác phẩm có liên quan đến tình hình giáo dục – đào tạo Long An như: - Hội khoa học kinh tế Việt Nam, Trung tâm Thông tin và tư vấn phát triển (2005), Giáo dục Việt Nam 1945 – 2005, T2 , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Thạch Phương, Lưu Quang Tuyến (chủ biên) (1989), Địa chí Long An, Nxb Long An và Khoa học xã hội. - Ủy ban Nhân dân tỉnh Long An (2004), Niên Giám Long An, Nxb Thông Tấn, Hà Nội. Tác phẩm Giáo dục Việt Nam 1945 – 2005, tập 2 đã khái quát lịch sử hình thành và phát triển của giáo dục – đào tạo Long An, nêu ra những thành tựu đã đạt được trong những năm gần đây, đồng thời đưa ra những chiến lược phát triển đến năm 2010 và các giải pháp phát triển giáo dục – đào tạo Long An trong thời gian tới. Với tác phẩm Địa chí Long An các tác giả đã nêu lên khái quát tình hình giáo dục – đào tạo Long An từ thế kỷ XVII – 1985. Qua các giai đoạn: từ thế kỷ XVII – 1862; 1862 – 1945; 1945 – 1954; 1954 – 1975 và 1975 – 1985. Ở mỗi giai đoạn đều có những đặc trưng riêng, nhưng bắt đầu từ khi có Đảng lãnh đạo, tuy Long An nằm trong phần kiểm soát của địch, bị chi phối bỡi nền giáo dục của địch nhưng cũng phát triển khá mạnh. Đã đào tạo ra một đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, có lý tưởng và giàu nhiệt tình yêu nước. Họ không những bám trường lớp trong mọi hoàn cảnh mà còn sẳn sàng đáp ứng những yêu cầu khác mà cách mạng đòi hỏi. Đặc biệt khi đất nước được giải phóng, phải đối đầu với nhiều khó khăn nhưng chính quyền cách mạng đã bắt tay ngay vào việc xây dựng sự nghiệp giáo dục mới xã hội chủ nghĩa. Và mười năm sau giải phóng, giáo dục – đào tạo đã góp phần quan trọng trong việc truyền thụ kiến thức cho nhân dân, đào tạo thế hệ trẻ có phẩm chất đạo đức, có văn hóa, có trình độ chuyên môn từng bước làm đổi mới bộ mặt của tỉnh nhà. Tác phẩm Niên Giám Long An 2002 – 2003 đã khái quát một cách sơ lược tình hình giáo dục – đào tạo Long An sau khi giải phóng, đặc biệt đã nêu ra các mục tiêu phát triển giáo dục – đào tạo đến năm 2010. Ngoài ra, còn có một số công trình khác lưu hành nội bộ của Sở giáo dục – đào tạo Long An như: Chương trình hành động thực hiện NQTW 02 và NQTU về giáo dục và đào tạo (1997 – 2000), năm 1997; Quy hoạch phát triển giáo dục và đào tạo tỉnh Long An đến 2010, năm 2002 Các tài liệu vừa nêu trên tuy có góp phần tái hiện lại một phần giáo dục – đào tạo Long An, song chưa có tác phẩm nào, công trình nào đi sâu và trình bày đầy đủ về giáo dục – đào tạo Long An, hai mươi năm đổi mới (1986 – 2006). Trên cơ sở tiếp thu những thành quả đó, tác giả muốn góp phần vào việc thu thập, phân tích và khái quát những thành tựu cũng như những hạn chế của giáo dục – đào tạo Long An trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Đề tài “Giáo dục – đào tạo Long An, hai mươi năm đổi mới (1986 – 2006)” nhằm khôi phục lại sự nghiệp giáo dục – đào tạo Long An trong những năm đổi mới về các lĩnh vực, những đóng góp cũng như những hạn chế của giáo dục – đào tạo Long An trong hai mươi năm qua, đồng thời trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhỏ nhằm khắc phục những hạn chế và yếu kém mà ngành giáo dục – đào tạo Long An nói riêng và của đất nước nói chung còn đang mắc phải. Đồng thời thông qua việc tìm hiểu về lịch sử giáo dục – đào tạo để góp phần làm sáng tỏ hơn lịch sử phát triển của Long An trong thời gian từ 1986 – 2006. 4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là giáo dục – đào tạo Long An hai mươi năm đổi mới và phát triển (1986 – 2006), thể hiện trên các mặt thành quả và hạn chế của sự nghiệp giáo dục – đào tạo của tỉnh về các ngành, các bậc học, đồng thời vạch ra một số biện pháp để khắc phục những mặt còn yếu kém, nhằm góp phần đưa giáo dục – đào tạo Long An phát triển mạnh mẽ hơn. Bên cạnh đó đề tài cũng dành một phần nhỏ để trình bày khái quát giáo dục – đào tạo Long An thời gian trước đổi mới nhằm làm sáng tỏ hơn những đóng góp của nền giáo dục tỉnh nhà trong thời kỳ đổi mới vào sự nghiệp đổi mới chung của đất nước 5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Phạm vi không gian nghiên cứu là tỉnh Long An với địa giới hành chính ở thời điểm hiện nay (2006). Phạm vi thời gian nghiên cứu là từ 1986 – 2006. Là mốc từ lúc bắt đầu đổi mới đến hai mươi năm sau. 6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU - Đề tài tập hợp, hệ thống những tài liệu cơ bản, đáng tin cậy để dựng lại bức tranh toàn cảnh của GD - ĐT Long An hai mươi năm đổi mới (1986 – 2006). - Đánh giá những thành tựu cũng như những hạn chế của GD - ĐT Long An trong thời gian từ 1986 – 2006. - Tổng kết hoạt động thực tiễn của GD - ĐT Long An, qua đó nêu lên một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hơn mục tiêu phát triển GD - ĐT của tỉnh nhà. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Với đề tài này trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc phương pháp luận sử học Mác – Lênin, phương pháp lịch sử và phương pháp logic, đồng thời tác giả cũng kết hợp các phương pháp nghiên cứu của các khoa học liên ngành như phương pháp nghiên cứu giáo dục, phương pháp phân tích, hệ thống hóa các tư liệu để trình bày và giải quyết các vấn đề khoa học mà đề tài đặc ra. Bên cạnh đó, đây là một đề tài cụ thể của một địa phương nên tác giả còn sử dụng phương pháp điền dã, khảo sát thực tiễn, phỏng vấn các cá nhân, cơ quan ban ngành có liên quan để việc sưu tập tài liệu được đầy đủ và chuẩn xác hơn, từ đó giải quyết vấn đề một cách khoa học và có độ tin cậy cao. 8. DỰ KIẾN CẤU TRÚC LUẬN VĂN Luận văn gồm có phần dẫn luận, ba chương và kết luận. Chương 1. Khái quát giáo dục – đào tạo Long An thời kỳ trước đổi mới (1975 – 1985). Chương 2. Giáo dục – đào tạo Long An mười năm đầu đổi mới (1986 – 1996) Chương 3. Giáo dục – đào tạo Long An trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa (1996 – 2006) CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO LONG AN THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI (1975 – 1985) 1.1. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, XÃ HỘI TỈNH LONG AN 1.1.1. Điều kiện tự nhiên Tỉnh Long An hiện nay bao gồm phần lớn đất đai của tỉnh Chợ Lớn và Tân An cũ hợp thành. Có diện tích tự nhiên khoảng 4.491,87 km2, có tọa độ địa lý : 105o30’30” đến 106o47’02” kinh độ Đông , 10o23’40” đến 11o02’00” vĩ độ Bắc. Long An bao gồm 1 thị xã và 13 huyện : Thị Xã Tân An, Cần Giuộc, Cần Đước, Bến Lức, Thủ Thừa, Tân Trụ, Châu Thành, Đức Hòa, Đức Huệ, Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Mộc Hóa, Vĩnh Hưng, Tân Hưng. Trong đó vùng Đồng Tháp Mười gồm 6 huyện là : một phần Đức Huệ, Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Mộc Hóa, Vĩnh Hưng, Tân Hưng với diện tích tự nhiên là 298.243ha, chiếm 66,4% diện tích toàn tỉnh, là vùng thường xuyên bị ngập lụt, người dân phải sống chung với lũ, đời sống khá bấp bênh vất vã. Những huyện còn lại là khu vực phát triển khá ổn định, đa dạng. Long An có Đông giáp thành phố Hồ Chí Minh và sông Soài Rạp, Tây giáp tỉnh Đồng Tháp, Nam giáp tỉnh Tiền Giang và Bắc giáp tỉnh Tây Ninh và tỉnh Svâyriêng của nước Cộng hòa nhân dân Campuchia. Việt Nam và Campuchia có đường biên giới chung dài 142km. Long An được xem là cửa ngõ đi vào TPHCM của miền Tây Nam Bộ, là một địa bàn chiến lược quan trọng nối liền các tỉnh miền Đông với các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Là tỉnh thuộc ĐBSCL, Long An rất thuận lợi trong việc phát triển buôn bán, trao đổi với Campuchia và các nước thuộc khu vực Đông Nam Á. Với hệ thống sông ngòi chằng chịt, Long An có điều kiện rất thuận lợi để phát triển giao thông thủy bộ. Đặc biệt với 03 con sông lớn: Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây và sông Cần Giuộc (Rạch Cát) đã tạo thành một mạng lưới giao thông thuận tiện đóng vai trò quan trọng về mặt thủy lợi của tỉnh, là đầu mối giao thông quan trọng trong vùng ĐBSCL và vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam. Ngoài ra, tỉnh còn có cửa sông Soài Rạp hướng ra biển Đông nên rất thuận tiện cho việc phát triển công nghiệp và dịch vụ vận tải xuất khẩu. Ngoài những con sông lớn nêu trên, còn có hệ thống kênh rạch, sông ngòi chằng chịt nối liền sông Tiền với sông Vàm Cỏ, đây chính là những con đường dẫn tải và tiêu thụ nước quan trọng trong sản xuất cũng như cung cấp cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của cư dân. Nhìn chung nước mặt của Long An không dồi dào, chất lượng nước còn hạn chế nên chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất và đời sống. Trữ lượng nước ngầm cũng vậy, chất lượng không đồng đều và tương đối kém. Tuy nhiên, tỉnh có nguồn nước ngầm có nhiều khoáng chất hữu ít đang được khai thác và phục vụ sinh hoạt dân cư trên cả nước (nước khoáng Lavie). Ở Long An mùa mưa hàng năm bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, với lượng mưa mỗi năm khác nhau. Lượng mưa trung bình hàng năm của Long An thuộc loại ít ở Nam Bộ, do đó Long An thường rơi vào tình trạng thiếu nước ngọt vào những mùa nắng. Cường độ mưa lớn làm xói mòn ở những vùng cao, mưa kết hợp với triều cường làm ngập úng những vùng trũng hay còn gọi chung là vùng Đồng Tháp Mười (ĐTM) gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của người dân, còn các huyện ở ven biển có lượng mưa ít hơn hẳn những nơi khác. Trong khi đó lượng nắng ở Long An cũng tương đối cao, một năm có khoảng 8 - 9 tháng nắng. Hàng năm lũ đổ về Long An, đặc biệt là vùng ĐTM, bắt đầu từ tháng 8 và kéo dài đến tháng 11, lũ đến chậm, không sâu nhưng thời gian ngâm lũ lâu gây ngập úng và khó khăn trong sản xuất cũng như trong đời sống của nhân dân. Những năm trở lại đây, thay vì đi tránh lũ thì Long An có chủ trương “sống chung với lũ” để tận dụng và khai thác những lợi ít kinh tế mà lũ mang tới : lượng phù sa, tôm cá, rắn, lươn Long An có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng tháng khá cao, khoảng 27,0 – 27,9oC, tương đối ổn định. Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động trong khoảng 27,8 – 25,9oC. Đất đai Long An được tạo thành phần lớn ở dạng phù sa bồi lắng lẫn nhiều tạp chất hữu cơ nên đất có cấu tạo không chắc chắn, nhiều vùng đất bị mặn và chua phèn. Do sự chi phối của những điều kiện hình thành khác nhau, đất đai Long An có thể chia thành 06 nhóm chính: đất phù sa cổ, đất phù sa thông thường, đất phù sa nhiễm mặn, đất phèn, đất phèn nhiễm mặn và đất than bùn [41, tr.14-15], trong đó đất mặn và đất phèn chiếm tới 80% đã tạo nên một khó khăn lớn khó giải quyết cho người nông dân. Long An có địa hình đơn giản, bằng phẳng, thấp dần từ Bắc xuống Đông Bắc, Nam xuống Tây Nam, bị chia cắt bỡi hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây cùng với hệ thống kênh rạch chằng chịt, do đó phần lớn đất Long An bị ngập nước, đặc biệt là vùng trũng ĐTM. Về rừng, ở Long An chủ yếu là rừng tràm, bạch đàn. Rừng Tràm rất thích hợp với nước mặn, là nơi cư trú và sinh trưởng của các loài động vật như rắn, ếch, trăn, rùa Nhiều khu rừng tràm trở thành những “vườn chim” thiên nhiên, với đủ loại chim và rất nhiều ong mật đã sinh sống nơi đây. Năm 1976 diện tích rừng của Long An là 93.902 ha, đến năm 1999 chỉ còn lại là 35.925,8 ha. Ngày nay nguồn tài nguyên động thực vật của hệ sinh thái rừng tràm trên đất trũng phèn ở Long An bị lạm dụng khai thác và tàn phá nặng nề, các khu rừng tràm nguyên sinh bị đốn sạch để lấy gỗ xây dựng và làm chất đốt đã làm thay đổi nghiêm trọng môi trường sống, gây ra những biến đổi về điều kiện sinh thái, ô nhiễm môi trườngdo đó để khôi phục và bảo vệ hệ sinh thái, tỉnh đã và đang có chủ trương khôi phục dần hệ sinh thái rừng tràm. Nguồn tài nguyên động vật ở Long An rất phong phú, nguồn lợi về rắn, rùa, tôm, cá, chim khá lớn. Là nguồn thức ăn chủ yếu của người dân vùng nông nghiệp. Long An có trử lượng khoảng 2,5 triệu tấn than bùn, là nguyên liệu khá tốt để chế biến ra nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Than bùn ở Long An được đánh giá có độ tro thấp, lượng khoáng cao, mùn cao có thể dùng làm chất đốt và phân bón. Tuy nhiên việc khai thác than bùn sẽ đẩy nhanh quá trình ôxy hóa và thủy phân tạo ra axit sunfuric gây độc hại đến cây trồng và môi trường sống. Ngoài than bùn ra, Long An còn có mỏ đất sét, tuy nhiên số lượng không nhiều, nhưng vẫn có thể đáp ứng nhu cầu làm vật liệu xây dựng. 1.1.2. Điều kiện xã hội Cùng với làn sóng của các lưu dân vào khai phá vùng đất Nam Bộ, đến cuối thế kỷ XIX lưu dân đến làm ăn sinh sống trên đất Long An ngày nay khá đông, công cuộc khai phá đất đai, xây dựng quê hương đã có những bước tiến triển đáng kể. Cư dân Long An sống chủ yếu bằng nghề nông, sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển đã tạo điều kiện mở rộng phân công lao động, nhiều ngành nghề thủ công ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu địa phương và toàn miền. Trong quá trình sống, sản xuất, đấu tranh với thiên nhiên và sự áp bức bóc lột của giai cấp cầm quyền, nhân dân Nam Bộ nói chung và nhân dân Long An nói riêng đã đoàn kết chung sức với nhau tạo nên một sức mạnh vô bờ bến. Sự đoàn kết gắn bó đó còn được thể hiện rõ nét qua hai cuộc chiến tranh chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ, nhân dân Long An đã cùng nhân dân cả nước viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc bằng biết bao xương máu, mồ hôi và nước mắt, làm sáng ngời truyền thống tự chủ và bất khuất của dân tộc ta. Thực dân Pháp ngay từ khi đặt chân xâm lược nước ta, đã vấp phải sự chống cự quyết liệt của nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Long An nói riêng. Khi chúng đặt chân đến Gia Định, nhân dân Long An đã lập tức có mặt trên chiến trường dưới sự chỉ huy của Lê Huy, Trần Thiện Chính. Khi thành Gia Định thất thủ, để ngăn chặn giặc đánh rộng ra về hướng Tây Nam, nhân dân Long An đã tham gia vào việc gấp rút xây dựng một tuyến phòng thủ gồm 06 đồn để ngăn chặn tàu giặc. Ở mặt đường bộ từ Chợ Lớn qua Tân An xuống Mỹ Tho quân dân ta cũng triệt để phá hoại, ngoài ra ở làng Tân Ân (Cần Đước) một đội nghĩa quân đã được thành lập chống giặc. Nghĩa quân đã gây cho chúng nhiều trở ngại, điển hình là tháng 4/1861 địch bắt đầu mở cuộc hành quân theo hướng Bảo Định, một toán dân dũng đã phục kích hai bên bờ sông chặn đánh gây cho chúng nhiều tổn thất, phải mất 12 ngày chúng mới tiến lại gần đến Mỹ Tho. Sau khi Định Tường thất thủ, một phong trào võ trang chống Pháp nhanh chóng lan ra trên đất Long An dưới sự lãnh đạo của Phạm Tiễn,Trịnh Quang Nghi, Phan Văn Đạt, Trà Quý Bình. Sau thất bại ở Đại đồn Chí Hòa, Long An trở thành địa bàn hoạt động chủ yếu của nghĩa quân Trương Định, đồng thời Nguyễn Thông, Phan Chánh cũng lui về Tân An tiếp tục chống Pháp. Bên cạnh đó Long An cũng nổi danh với căn cứ Tháp Mười của Võ Duy Dương, Bùi Quang Diệu “ Cùng với nghĩa quân của họ Trương hoạt động đánh địch trên địa bàn Long An còn có đội quân của Phạm Tấn Phát ở vùng Gò Đen, đội quân của Bùi Quang Diệu ở Cần Đước, Cần Giuộc, đội quân của Nguyễn Văn Trung ở vùng Tân Thạnh và đội quân của Nguyễn Văn Tiến ở vùng Tân An, Cần Đước” [47, tr.202]. Khi Pháp hoàn thành công cuộc xâm lược và tiến hành khai thác thuộc địa, nhân dân Long An vẫn tiếp tục chống Pháp bằng nhiều hình thức khác nhau dù cuộc chiến đó có khó khăn hơn, gian khổ hơn. Sang đầu thế kỷ XX phong trào đấu tranh của nhân dân Nam Kỳ nói chung và nhân dân Long An nói riêng đã chuyển sang một hình thức mới , đó là hình thức hội kín “Thiên Địa hội”. So với nhiều nơi khác, h
Luận văn liên quan