Tài sản cố định (TSCĐ) là cơ sở vật chất kỹ thuật không thể thiếu được trong bất kỳ 
một nền kinh tế quốc dân nào cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các 
doanh nghiệp. TSCĐ không những phản ánh năng lực sản xuất trình độ trang thiết bị cơ sở 
vật chất kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, mà còn phản ánh 
được bộ phận vốn kinh doanh của doanh nghiệp. TSCĐ xét về mặt tồn tại thì nó là điều 
kiện cần có để doanh nghiệp được thành lập, xét về mặt phát triển thì nó là điều kiện cần 
thiết để tiết kiệm sức lao động và nâng cao năng suất lao động. Trong giai đoạn hiện nay, 
khi khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì TSCĐ là yếu tố quan trọng 
để tạo sức cạnh tranh đối với các doanh nghiệp. 
Để tăng năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp 
không chỉ đơn giản là quan tâm đến vấn đề có và sử dụng TSCĐ mà điều quan trọng là 
phải tìm ra các biện pháp hữu hiệu để bảo toàn, phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu quả sử 
dụng TSCĐ. Muốn vậy các doanh nghiệp phải xây dựng được chế độ quản lý khoa học 
toàn diện để có thể sử dụng hợp lý, đầy đủ phát huy hết công suất của TSCĐ, tạo điều kiện 
hạ giá thành sản phẩm, thu hồi nhanh vốn đầu tư để tái sản xuất trang thiết bị và đổi mới 
công nghệ. Kế toán với chức năng và nhiệm vụ của nó là một công cụ đắc lực của quản lý, 
cung cấp các thông tin chính xác kịp thời cho quản lý. Góp chương nâng cao hiệu quả sử 
dụng vốn và bảo toàn vốn cho doanh nghiệp. Kế toán TSCĐ giúp cho việc theo dõi tình 
hình TSCĐ một cách chặt chẽ và đầy đủ, chính xác.
Công ty Vật tư vận tải xi măng (tên giao dịch COMATCE) là một doanh nghiệp nhà 
nước cùng hoạt động kinh doanh tự chủ với hành ngàn doanh nghiệp khác trong nền kinh 
tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, TSCĐ 
của công ty đã và đang từng bước được đổi mới nhằm đáp ứng được nhu cầu phục vụ sản 
xuất. Tuy nhiên nhìn chung việc đổi mới công nghệ vẫn còn đang ở mức độ thấp, TSCĐ 
hầu hết là cũ và lạc hậu so với thời đại, mặc dù vậy nó vẫn có vai trò hết sức quan trọng 
trong quá trình sản xuất của công ty.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 106 trang
106 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2760 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kế toán tài sản cố định tại công ty vật tư vận tải xi măng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Kế toán Tài Sản Cố Định tại 
Công ty Vật tư vận tải xi măng 
Lời nói đầu 
Tài sản cố định (TSCĐ) là cơ sở vật chất kỹ thuật không thể thiếu được trong bất kỳ 
một nền kinh tế quốc dân nào cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các 
doanh nghiệp. TSCĐ không những phản ánh năng lực sản xuất trình độ trang thiết bị cơ sở 
vật chất kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, mà còn phản ánh 
được bộ phận vốn kinh doanh của doanh nghiệp. TSCĐ xét về mặt tồn tại thì nó là điều 
kiện cần có để doanh nghiệp được thành lập, xét về mặt phát triển thì nó là điều kiện cần 
thiết để tiết kiệm sức lao động và nâng cao năng suất lao động. Trong giai đoạn hiện nay, 
khi khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì TSCĐ là yếu tố quan trọng 
để tạo sức cạnh tranh đối với các doanh nghiệp. 
Để tăng năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp 
không chỉ đơn giản là quan tâm đến vấn đề có và sử dụng TSCĐ mà điều quan trọng là 
phải tìm ra các biện pháp hữu hiệu để bảo toàn, phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu quả sử 
dụng TSCĐ. Muốn vậy các doanh nghiệp phải xây dựng được chế độ quản lý khoa học 
toàn diện để có thể sử dụng hợp lý, đầy đủ phát huy hết công suất của TSCĐ, tạo điều kiện 
hạ giá thành sản phẩm, thu hồi nhanh vốn đầu tư để tái sản xuất trang thiết bị và đổi mới 
công nghệ. Kế toán với chức năng và nhiệm vụ của nó là một công cụ đắc lực của quản lý, 
cung cấp các thông tin chính xác kịp thời cho quản lý. Góp chương nâng cao hiệu quả sử 
dụng vốn và bảo toàn vốn cho doanh nghiệp. Kế toán TSCĐ giúp cho việc theo dõi tình 
hình TSCĐ một cách chặt chẽ và đầy đủ, chính xác. 
Công ty Vật tư vận tải xi măng (tên giao dịch COMATCE) là một doanh nghiệp nhà 
nước cùng hoạt động kinh doanh tự chủ với hành ngàn doanh nghiệp khác trong nền kinh 
tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, TSCĐ 
của công ty đã và đang từng bước được đổi mới nhằm đáp ứng được nhu cầu phục vụ sản 
xuất. Tuy nhiên nhìn chung việc đổi mới công nghệ vẫn còn đang ở mức độ thấp, TSCĐ 
hầu hết là cũ và lạc hậu so với thời đại, mặc dù vậy nó vẫn có vai trò hết sức quan trọng 
trong quá trình sản xuất của công ty. Chính vì vậy việc quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu 
quả vốn cố định thông qua việc kế toán chính xác TSCĐ vừa đúng chế độ chung vừa phù 
hợp với điều kiện của doanh nghiệp là vấn đề mà công ty rất quan tâm. Thời gian qua, 
nhiều ý kiến đóng góp cho vấn đề này đã được đưa ra bàn luận, nhiều giải pháp đã được 
nghiên cứu vận dụng và tỏ ra có hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, không phải đã hết những 
tồn tại vướng mắc, đòi hỏi phải tiếp tục tìm ra phương hướng hoàn thiện. Từ thực tế đó, 
trên cơ sở những kiến thức đã tích luỹ đựợc, em đã mong muốn được lựa chọn nghiên cứu 
đề tài “Kế toán TSCĐ tại Công ty Vật tư vận tải xi măng”. 
Kết cấu của đề tài ngoài Lời mở đầu và Kết luận, gồm 3 phần chính: 
Phần I: Lý luận chung về kế toán TSCĐ trong doanh nghiệp. 
Phần II: Thực trạng tổ chức kế toán và quản lý TSCĐ tại công ty vật tư vận tải 
xi măng 
Phần III: Phương hướng hoàn thiện công tác kế toán và quản lý TSCĐ nhằm 
nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ tại công ty vật tư vận tải xi măng. 
phần i 
lý luận chung về kế toán 
tscđ trong các doanh nghiệp 
1.1. Những vấn đề chung về TSCĐ: 
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của TSCĐ: 
 Khái niệm TSCĐ: 
TSCĐ trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu và các tài sản khác có 
giá trị lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và giá trị của nó được chuyển 
dịch dần dần, từng phần vào giá trị sản phẩm, dịch vụ được sản xuất ra trong các chu kỳ 
sản xuất. 
Theo hình thái biểu hiện: toàn bộ TSCĐ được chia thành hai loại: TSCĐ hữu hình và 
TSCĐ vô hình. 
Theo quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính 
chuẩn mực kế toán số 03: tài sản cố định hữu hình và chuẩn mực kế toán số 04: tài sản cố 
định vô hình: 
Tài sản cố định hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất do doanh nghiệp nắm 
giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận 
TSCĐHH. 
Các tài sản được ghi nhận là TSCĐ hữu hình phải thoả mãn đồng thời cả 4 tiêu chẩn 
ghi nhận sau: 
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó; 
- Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy; 
- Thời gian sử dụng ước tính trên 1 năm; 
- Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo quy định hiện hành. 
Tài sản cố định vô hình là tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá 
trị và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc 
cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình. 
Tiêu chuẩn nhận biết TSCĐ vô hình phải thoả mãn định nghĩa về TSCĐ vô hìnhvà 4 
tiêu chuẩn như TSCĐ hữu hình đã trình bày ở phần trên. 
Căn cứ để phân biệt TSCĐ với công cụ lao động nhỏ là giá trị tối thiểu và thời gian sử 
dụng tối thiểu của tài sản. Mức giá trị và thời gian này do các cơ quan có thẩm quyền của 
nhà nước qui định và các mức này không cố định mà có thể thay đổi cho phù hợp với thời 
giá trên thị trường và các yếu tố khác xuất phát từ yêu cầu quản lý. Về thời gian sử dụng 
thường từ một năm trở lên. Về giá trị thì tuỳ từng giai đoạn mà quy định cho phù hợp, theo 
tiêu chuẩn qui định TSCĐ ban hành theo quyết định 166/1999/QĐ-BTC ngày 30 tháng 12 
năm 1999 của Bộ Tài chính, để tư liệu lao động được xếp vào TSCĐ phải có giá trị đầu tư 
ban đầu từ 5 triệu đồng trở lên. 
Theo quyết định 206/2003/QĐ-BTC ngày 12 tháng 12 năm 2003 của Bộ Tài chính, để 
tư liệu lao động được xếp vào TSCĐ cần thoả mãn mức giá trị từ mười triệu đồng trở lên 
(áp dụng từ năm tài chính 2004). 
 Đặc điểm TSCĐ: 
TSCĐ có đặc điểm nổi bật là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Khi tham gia vào chu 
kỳ sản xuất thì: 
Về mặt hiện vật: TSCĐ tham gia hoàn toàn vào nhiều lần trong sản xuất với hình thái 
vật chất ban đầu giữ nguyên cho đến khi bị loại thải khỏi quá trình sản xuất. 
Về mặt giá trị: TSCĐ được biểu hiện dưới 2 hình thái: 
+ Một bộ phận giá trị tồn tại dưới hình thái ban đầu gắn với hiện vật TSCĐ (nguyên 
giá). Bộ phận giá trị này bị hao mòn dần trong quá trình hoạt động. 
+ Một bộ phận giá trị chuyển dịch từng phần vào giá trị của sản phẩm, dịch vụ mới tạo 
ra. Khi sản phẩm tiêu thụ thì bộ phận này được chuyển thành vốn tiền tệ. Bộ phận này 
càng tăng theo thời gian sử dụng. 
Đối với TSCĐ vô hình, khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh thì cũng bị hao 
mòn do tiến bộ khoa học kỹ thuật và do những hạn chế về luật pháp... Giá trị của TSCĐ vô 
hình cũng chuyển dịch dần dần, từng phần vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh 
nghiệp. 
1.1.2. Vai trò của TSCĐ và yêu cầu quản lý TSCĐ: 
 Vai trò của TSCĐ: 
Xu hướng hiện nay tỷ trọng TSCĐ là các thiết bị máy móc, được đầu tư ngày càng 
nhiều, giá trị ngày càng cao, ngược lại tỷ trọng các tài sản khác không trực tiếp phục vụ 
quá trình sản xuất có xu hướng giảm. TSCĐ thường là nguồn tài sản lớn nhất trong mỗi 
doanh nghiệp. Tăng cường đổi mới TSCĐ là một trong những biện pháp có tính then chốt 
để tăng năng suất lao động, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, đủ sức cạnh 
tranh trên thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, thực hiện tốt nghĩa vụ với 
nhà nước, góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. 
Với vai trò quan trọng như vậy, nếu quản lý và sử dụng TSCĐ có hiệu quả thì khả năng 
sinh lời từ nguồn tài sản này rất lớn, ngược lại sẽ gây ra sự lãng phí, thất thoát rất lớn, làm 
suy giảm năng lực sản xuất, làm hoạt động của doanh nghiệp bị bê trễ. Do đó yêu cầu quản 
lý TSCĐ đòi hỏi phải có phương pháp riêng để đảm bảo sử dụng TSCĐ có hiệu quả. 
 Yêu cầu quản lý TSCĐ: 
Xuất phát từ vai trò, vị trí và đặc điểm vận động của TSCĐ mà việc quản lý TSCĐ phải 
bảo đảm được yêu cầu quản lý sau: 
-Về mặt hiện vật: Cần phải kiểm tra chặt chẽ việc bảo quản, tình hình sử dụng TSCĐ ở 
doanh nghiệp. Trên cơ sở đó có kế hoạch sử dụng hợp lý các TSCĐ, có kế hoạch sửa chữa, 
bảo dưỡng kịp thời. 
-Về mặt giá trị: Phải quản lý chặt chẽ tình hình hao mòn, việc thu hồi vốn đầu tư ban 
đầu để tái sản xuất TSCĐ trong các doanh nghiệp. Đảm bảo thu hồi vốn đầy đủ, tránh thất 
thoát vốn đầu tư. 
1.1.3. Phân loại TSCĐ: 
TSCĐ gồm nhiều loại và khác nhau về công dụng kinh tế, đơn vị tính toán, chức năng 
kỹ thuật và thời gian sử dụng. Do đó để tạo điều kiện cho việc quản lý TSCĐ, toàn bộ 
TSCĐ được phân thành nhiều loại, nhiều nhóm theo những đặc trưng nhất định. Việc phân 
loại TSCĐ nhằm mục đích lập kế hoạch sản xuất, sửa chữa và hiện đại hoá TSCĐ; là cơ sở 
để xác định mức khấu hao và giá trị còn lại. Nếu như việc phân loại TSCĐ chính xác sẽ 
phát huy hết tác dụng của TSCĐ, phục vụ tốt cho công tác quản lý TSCĐ. 
Phân loại TSCĐ là xắp xếp TSCĐ thành từng loại từng nhóm có cùng tính chất, đặc 
điểm theo một tiêu thức phân loại nhất định. 
Dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu : 
1.1.3.1. Phân loại theo hình thái biểu hiện: 
Theo cách phân loại này, toàn bộ TSCĐ được chia thành hai loại: TSCĐ hữu hình, 
TSCĐ vô hình. 
 TSCĐ hữu hình gồm: 
- Nhà cửa, vật kiến trúc: Là TSCĐ của doanh nghiệp được hình thành sau quá trình thi 
công xây dựng như: Nhà cửa, kho tàng, bể tháp nước, hàng rào, sân bãi, đường xá, cầu 
cống... 
- Máy móc, thiết bị: Gồm các loại máy móc, thiết bị dùng trong SXKD. 
- Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: Bao gồm các phương tiện vận tải đường bộ, 
đường không, đường biển, thiết bị truyền dẫn... 
- Thiết bị dụng cụ quản lý: Bao gồm thiết bị và dụng cụ sử dụng trong công tác quản lý 
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy tính, thiết bị kiểm tra chất lượng, thiết bị 
dụng cụ đo lương... 
- Cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm: Bao gồm các loại cây gieo trồng và 
cho sản phẩm trong nhiều năm ở các nông lâm trường như cà phê, cao su... và các loại súc 
vật làm việc, cho sản phẩm như đàn trâu, đàn bò.... 
- TSCĐ hữu hình khác: Toàn bộ các TSCĐ khác chưa liệt kê vào 5 loại trên như tranh 
ảnh, tác phẩm nghệ thuật... 
 TSCĐ vô hình gồm : 
- Quyền sử dụng đất: Gồm toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra liên quan đến việc 
giành quyền sử dụng đất đai, mặt nước. .. trong một khoảng thời gian nhất định. 
- Bằng phát minh sáng chế: Gồm các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để mua lại 
các bản quyền tác giả, bằng sáng chế, hoặc trả cho các công trình nghiên cứu, sản xuất thử 
được nhà nước cấp bằng phát minh sáng chế. 
- Những chi phí nghiên cứu phát triển đủ điều kiện trở thành TSCĐ vô hình: Gồm các 
chi phí cho việc nghiên cứu, phát triển doanh nghiệp do đơn vị tự làm hoặc thuê ngoài. 
- Các TSCĐ vô hình khác: Gồm các loại TSCĐ vô hình khác ngoài các loại kể trên như 
, quyền phát hành... 
1.1.3.2. Phân loại TSCĐ theo quyền sở hữu: 
Theo cách phân loại này, TSCĐ chia làm hai loại: TSCĐ tự có và TSCĐ thuê ngoài. 
 TSCĐ tự có: 
Là những TSCĐ xây dựng hoặc mua sắm, chế tạo bằng nguồn vốn của doanh nghiệp, 
do ngân sách cấp, do đi vay, nguồn vốn tự bổ sung... 
 TSCĐ thuê ngoài: 
Là những tài sản thuộc quyền sở hữu của các doanh nghiệp hoặc cá nhân ngoài đơn vị, 
qua quan hệ thuê mượn mà doanh nghiệp có quyền sử dụng chúng vào hoạt động SXKD 
của mình trong thời gian thuê mượn. TSCĐ thuê ngoài gồm hai loại sau: 
_ TSCĐ thuê tài chính. 
_ TSCĐ thuê hoạt động. 
Cách phân loại này cho phép xác định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp đối 
với các TSCĐ, từ đó có được phương pháp quản lý đúng đắn đối với mỗi loại TSCĐ, tính 
toán hợp lý các chi phí về TSCĐ để đưa vào giá thành sản phẩm. 
1.1.3.3. Phân loại TSCĐ theo nguồn hình thành: 
Theo cách này TSCĐ gồm có: 
- TSCĐ mua sắm, xây dựng bằng vốn được cấp (Ngân sách cấp trên) 
- TSCĐ mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn vay. 
- TSCĐ mua sắm, xây dựng bằng vốn tự bổ sung của đơn vị (Quỹ đầu tư phát triển, 
quỹ phúc lợi...). 
- TSCĐ nhận góp liên doanh bằng hiện vật. 
Cách phân loại này chỉ rõ nguồn hình thành các tài sản, từ đó có kế hoạch bù đắp, bảo 
toàn các nguồn vốn bằng các phương pháp thích hợp. 
1.1.3.4. Phân loại TSCĐ theo mức độ tham gia vào quá trình sản xuất: 
Theo cách phân loại này, toàn bộ TSCĐ được phân thành hai loại: 
- TSCĐ tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất 
- TSCĐ gián tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất 
Cách phân loại này cho thấy tỷ trọng của bộ phận TSCĐ trực tiếp và gián tiếp tham gia 
vào quá trình sản xuất. Từ đó, doanh nghiệp có được phương án đầu tư phù hợp tăng tỷ 
trọng TSCĐ trực tiếp tham gia quá trình sản xuất. 
1.1.3.5. Phân loại TSCĐ theo công dụng và tình hình sử dụng: 
Theo cách phân loại này, toàn bộ TSCĐ được phân thành 4 loại: 
- TSCĐ dùng trong SXKD 
- TSCĐ hành chính sự nghiệp 
- TSCĐ phúc lợi 
- TSCĐ chờ xử lý: Gồm những TSCĐ không cần dùng hoặc hư hỏng chờ thanh lý 
Cách phân loại này giúp người quản lý thấy rõ kết cấu tài sản, nắm được trình độ trang 
bị kỹ thuật của mình, tổng quát được tình hình sử dụng về số lượng,chất lượng TSCĐ hiện 
có, vốn cố định còn tiềm tàng hoặc ứ đọng, tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý TSCĐ và 
tính khấu hao chính xác, phân tích và đánh giá tiềm lực sản xuất cần được khai thác. 
Khi đã phân loại TSCĐ người ta còn có thể phân tích kết cấu của nó để có những thông 
tin cần thiết khác phục vụ quản lý. 
1.1.4. Đánh giá TSCĐ: 
1.1.4.1. Xác định giá trị ban đầu của TSCĐ (đánh giá theo nguyên giá): 
Giá trị ban đầu của TSCĐ ghi trong sổ kế toán còn gọi là nguyên giá TSCĐ 
- Nguyên giá là toàn bộ các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có TSCĐ và đưa 
TSCĐ đó vào vị trí sẵn sàng sử dụng. 
- Nguyên giá của TSCĐ được xác định theo nguyên tắc giá phí. Theo nguyên tắc này, 
nguyên giá TSCĐ bao gồm toàn bộ các chi phí liên quan đến việc mua hoặc xây dựng, chế 
tạo TSCĐ kể cả các chi phí vận chuyển, lắp đặt, chạy thử, và các chi phí hợp lý cần thiết 
khác trước khi sử dụng tài sản. 
- Nguyên giá TSCĐ được xác định cho từng đối tượng ghi TSCĐ là từng đơn vị tài sản 
có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để 
thực hiện một hay một số chức năng nhất định. 
 ý nghĩa của việc đánh giá theo nguyên giá: 
- Tính giá TSCĐ phục vụ cho yêu cầu quản lý và kế toán TSCĐ . 
- Thông qua đó ta có được thông tin để đánh giá tổng quát về trình độ trang bị cơ sở 
vật chất kỹ thuật và quy mô của doanh nghiệp. 
- Xác định được giá trị TSCĐ để tiến hành khấu hao, theo dõi tình hình thu hồi vốn đầu 
tư ban đầu. 
- Sử dụng tính giá TSCĐ để phân tích hiệu quả sử dụng TSCĐ trong doanh nghiệp. 
 Các trường hợp xác định nguyên giá: 
- Đối với các TSCĐ hữu hình tuỳ thuộc vào các nguồn hình thành khác nhau, nguyên 
giá được xác định như sau: 
- Nguyên giá TSCĐ loại mua sắm (Kể cả mua mới và cũ) bao gồm: Giá mua thực tế 
phải trả cộng các khoản thuế (không bao gồm các khoản thuế được hoàn lại) và các chi 
phí liên quan trực tiếp phải chi ra tính đến thời điểm đưa tài sản cố định vào trạng thái sẵn 
sàng sử dụng như lãi tiền vay cho đầu tư tài sản cố định, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, các 
chi phí nâng cấp, chi phí lắp đặt chạy thử, thuế và lệ phí trước bạ... 
- Trường hợp TSCĐ hữu hình mua trả chậm, trả góp, nguyên giá TSCĐ mua sắm là giá 
mua trả tiền ngay tại thời điểm mua cộng (+) các khoản thuế (không bao gồm các khoản 
thuế được hoàn lại) và các chi phí liên quan trực tiếp phải chi ra tính đến thời điểm đưa tài 
sản cố định vào trạng thái sẵn sàng sử dụng như chi phí vận chuyển, bốc dỡ, các chi phí 
nâng cấp, chi phí lắp đặt chạy thử, thuế và lệ phí trước bạ...Khoản chênh lệch giữa giá mua 
trả chậm và giá mua trả tiền ngay được hạch toán vào chi phí tài chính theo kỳ hạn thanh 
toán, trừ khi số chênh lệch đó được tính vào nguyên giá của TSCĐ hữu hình theo quy định 
vốn hoá chi phí lãi vay. 
+ Nguyên giá TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ hữu hình 
không tương tự hoặc tài sản khác là giá trị hợp lý của TSCĐ hữu hình nhận về, hoặc giá trị 
hợp lý của tài sản mang trao đổi (sau khi cộng thêm các khoản phải trả thêm hoặc trừ đi 
các khoản phải thu về) cộng các khoản thuế (không bao gồm các khoản thuế phải hoàn lại) 
các chi phí liên quan phải chi ra tính đến thời điểm đưa tài sản vào sử dụng. 
+ Nguyên giá TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ hữu hình 
tương tự, hoặc có thể hình thành do được bán để đổi lấy quyền sở hữu một tài sản cố định 
hữu hình tương tự là giá trị còn lại của TSCĐ hữu hình đem trao đổi. 
+ Nguyên giá của TSCĐ hữu hình tự xây dựng hoặc tự sản xuất là giá thành thực tế của 
TSCĐ cộng các chi phí lắp đặt chạy thử, các chi phí trực tiếp liên quan phải chi ra tính đến 
thời điểm đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng (trừ các khoản lãi nội bộ, các chi phí 
không hợp lý như vật liệu lãng phí, lao động hoặc các khoản chi phí khác vượt quá mức 
quy định trong xây dựng hoặc tự sản xuất). 
+ Nguyên giá TSCĐ hữu hình do đầu tư xây dựng cơ bản hình thành theo phương thức 
giao thầu là giá quyết toán công trình xây dựng theo quy định tại Quy chế quản lý đầu tư 
và xây dựng hiện hành cộng lệ phí trước bạ, các chi phí liên quan trực tiếp khác. 
+ Đối với TSCĐ là con súc vật làm việc và/hoặc cho sản phẩm, vườn cây lâu năm thì 
nguyên giá là toàn bộ các chi phí thực tế đã chi ra cho con súc vật, vườn cây đó từ lúc hình 
thành đến thời điểm đưa vào khai thác sử dụng theo quy định tại Quy chế quản lý đầu tư 
và xây dựng hiện hành, các chi phí khác có liên quan. 
+ Nguyên giá TSCĐ loại được cấp và điều chuyển đến: 
Nếu là đơn vị kế toán độc lập: Đó là giá trị còn lại trên sổ kế toán của TSCĐ ở các đơn 
vị cấp, đơn vị điều chuyển, hoặc giá trị theo đánh giá thực tế của hội đồng giao nhận cộng 
các chi phí mà bên nhận tài sản chi ra tính đến thời điểm đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn 
sàng sử dụng như: chi phí vận chuyển, bốc dỡ, chi phí nâng cấp, lắp đặt chạy thử, lệ phí 
trước bạ (nếu có)... 
Nếu điều chuyển giữa các đơn vị thành viên kế toán phụ thuộc trong doanh nghiệp, 
nguyên giá TSCĐ là nguyên giá phản ánh ở đơn vị bị điều chuyển phù hợp với bộ hồ sơ 
TSCĐ đó. Đơn vị nhận TSCĐ căn cứ vào nguyên giá , số khấu hao luỹ kế, giá trị còn lại 
trên sổ kế toán của TSCĐ và phản ánh vào sổ kế toán. Các chi phí có liên quan tới việc 
điều chuyển TSCĐ giữa các đơn vị thành viên kế toán phụ thuộc không kế toán tăng 
nguyên giá TSCĐ mà hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ. 
+ Nguyên giá TSCĐ loại được cho, được biếu, được tặng, nhận vốn góp liên doanh, 
nhận lại vốn góp, do phát hiện thừa... là giá trị theo đánh giá thực tế của hội đồng giao 
nhận cộng các chi phí sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, bốc dỡ, lắp đặt ,chạy thử, lệ phí trước bạ 
(nếu có) mà bên nhận tài sản phải chi ra tính đến thời điểm đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn 
sàng sử dụng. 
- Đối với các TSCĐ vô hình, nguyên giá được xác định như sau: 
+Nguyên giá TSCĐ loại mua sắm là giá mua thực tế phải trả cộng các khoản thuế 
(Không bao gồm các khoản thuế được hoàn lại), các chi phí liên quan phải chi ra tính đến 
thời điểm đưa tài sản vào sử dụng theo dự tính. 
Trường hợp TSCĐ vô hình mua mua trả chậm, trả góp, nguyên giá TSCĐ là giá mua 
trả tiền ngay tại thời điểm mua. Khoản chênh lệch giữa giá mua trả chậm và giá mua trả 
tiền ngay được hạch toán vào chi phí tài chính theo kỳ hạn thanh toán, trừ khi số chênh 
lệch đó được tính vào nguyên giá của TSCĐ vô hình theo quy định vốn hoá chi phí lãi vay. 
+ Nguyên giá TSCĐ vô hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ vô hình 
không tương tự hoặc tài sản khác là giá trị hợp lý của TSCĐ vô hình nhận về, hoặc giá trị 
hợp lý của tài sản mang trao đổi (sau khi cộng thêm các khoản phải trả thêm hoặc trừ đi 
các khoản phải thu về) cộng các khoản thuế (không bao gồm các khoản thuế phải hoàn lại) 
các chi phí liên quan phải chi ra tính đến thời điểm đưa tài sản vào sử dụng. 
+ Nguyên giá TSCĐ vô hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ vô hình tương 
tự, hoặc có