Luận văn Nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết đắm thuyền của rabindranath tagore

Khi đến đất nước Ấn Độ vĩ đại, chúng tôi rất cảm động và sung sướng được đến quê hương của một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới. Văn hóa, triết học và nghệ thuật của nước An Độ đã phát triển rực rỡ và có những cống hiến to lớn cho loài người. Nền tảng và truyền thống của triết học An Độ là lý tưởng hòa bình bác ái. Liên tiếp trong nhiều thế kỉ, tư tưởng Phật giáo, nghệ thuật, khoa học An Độ đã lan tỏa khắp thế giới (Hồ Chí Minh). Lời nhận định của Bác đã nói lên tất cả niềm yêu mến, tự hào cùng lòng cảm phục đất nước và con người Ấn Độ. Ngay từ ban đầu, khi được tiếp xúc với nền văn hóa Ấn, người viết đã thực sự bị cuốn hút bởi tính chất đa dạng và phong phú của nó. 1.1. Là một quốc gia thuộc khu vực Nam Á, Ấn Độ từng là một trong những cái nôi văn minh nhân loại, cùng với tính chất đa sắc tộc, đa tôn giáo, vùng đất này có sức hấp dẫn lớn lao và riêng biệt. Với một di sản văn hóa phong phú và đặc trưng duy nhất, ngày nay, Ấn Độ vẫn đang tỏa sáng trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn học. 1.2. Bước vào thế kỉ XIX, văn học hiện đại Ấn Độ đã chuyển mình dữ dội trước biến động của thời cuộc.Trong tiến trình đổi mới ấy, Rabindranath Tagore nổi lên như một ngôi sao sáng của An Độ phục hưng. Tài năng và tầm ảnh hưởng của ông đối với văn học Ấn là rất to lớn và vô cùng sâu sắc. Năm 1913, R.Tagore nhận giải Nobel văn học cho tập thơ Lời dâng (Gitanjali) và trở thành người Châu Á đầu tiên có được vinh dự này

pdf88 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1440 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết đắm thuyền của rabindranath tagore, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ______________ Nguyễn Thị Huệ NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT ĐẮM THUYỀN CỦA RABINDRANATH TAGORE Chuyên ngành : Văn học nước ngoài Mã số : 60 22 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THUÝ Thnh phố Hồ Chí Minh – 2009 LỜI CẢM ƠN Với tấm lòng chân thành, tác giả luận văn xin bày tỏ sự biết ơn vô hạn đến TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THÚY. Trong suốt quá trình thực hiện đề tài, người viết có được cái may mắn lớn nhất là đã nhận được sự hướng dẫn chu đáo, nhiệt tình và tận tâm của cô. Một lần nữa, xin gửi đến cô lời cảm ơn sâu sắc nhất. Đồng thời, người viết cũng chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ văn học nước ngoài đã nhiệt thành truyền thụ kiến thức; các thầy cô trong phòng Khoa học công nghệ và sau Đại học trường ĐH Sư Phạm TP.Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi để người viết hoàn thành luận văn này. TP.Hồ Chí Minh, tháng 07 năm 2009. Người viết luận văn Nguyễn Thị Huệ MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Khi đến đất nước Ấn Độ vĩ đại, chúng tôi rất cảm động và sung sướng được đến quê hương của một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới. Văn hóa, triết học và nghệ thuật của nước An Độ đã phát triển rực rỡ và có những cống hiến to lớn cho loài người. Nền tảng và truyền thống của triết học An Độ là lý tưởng hòa bình bác ái. Liên tiếp trong nhiều thế kỉ, tư tưởng Phật giáo, nghệ thuật, khoa học An Độ đã lan tỏa khắp thế giới (Hồ Chí Minh). Lời nhận định của Bác đã nói lên tất cả niềm yêu mến, tự hào cùng lòng cảm phục đất nước và con người Ấn Độ. Ngay từ ban đầu, khi được tiếp xúc với nền văn hóa Ấn, người viết đã thực sự bị cuốn hút bởi tính chất đa dạng và phong phú của nó. 1.1. Là một quốc gia thuộc khu vực Nam Á, Ấn Độ từng là một trong những cái nôi văn minh nhân loại, cùng với tính chất đa sắc tộc, đa tôn giáo, vùng đất này có sức hấp dẫn lớn lao và riêng biệt. Với một di sản văn hóa phong phú và đặc trưng duy nhất, ngày nay, Ấn Độ vẫn đang tỏa sáng trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn học. 1.2. Bước vào thế kỉ XIX, văn học hiện đại Ấn Độ đã chuyển mình dữ dội trước biến động của thời cuộc.Trong tiến trình đổi mới ấy, Rabindranath Tagore nổi lên như một ngôi sao sáng của An Độ phục hưng. Tài năng và tầm ảnh hưởng của ông đối với văn học Ấn là rất to lớn và vô cùng sâu sắc. Năm 1913, R.Tagore nhận giải Nobel văn học cho tập thơ Lời dâng (Gitanjali) và trở thành người Châu Á đầu tiên có được vinh dự này. Có thể nói, thơ là thành tựu xuất sắc nhất của Tagore. Nhưng không vì thế mà chúng ta thiếu quan tâm đến mảng sáng tác văn xuôi của ông. Chính những sáng tác nghệ thuật này đã góp phần không nhỏ đưa văn học Ấn Độ hội nhập vào thế giới hiện đại. Tagore không chỉ là nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ, mà còn là một cây bút viết truyện ngắn, đặc biệt là một tiểu thuyết gia rất có tài. 1.3. Tagore đến với thể loại tiểu thuyết muộn hơn so với thơ ca và truyện ngắn, nhưng nó cũng đã tạo cho R.Tagore vị trí và tầm vóc riêng biệt. Với hai cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Gôra và Ngôi nhà và thế giới, ông đã mở ra hướng phát triển mới cho tiểu thuyết Bengal. Chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu “Nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết Đắm thuyền của Rabindranath Tagore” vì những lí do sau: Trước tiên là sự kính mến, ngưỡng mộ nhân cách và tài năng Tagore, một tài năng mang tầm vóc nhân loại. Quả thật, Tagore đã để lại một ấn tượng sâu sắc đối với độc giả: Đằng sau dáng vẻ như một vị thần là một tâm hồn rất con người, đằng sau đôi mắt nhiều chiều sâu là một trái tim đau đáu nỗi niềm nhân tình thế thái. Không chỉ là một nhà thơ thiên tài, Tagore còn là một nhà văn rất thành công với thể loại tiểu thuyết tâm lý xã hội. Đắm thuyền là tác phẩm tiêu biểu và nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm là nét đặc sắc nổi trội, thu hút độc giả. 2. Lịch sử vấn đề Trái với thơ ca, mảng sáng tác văn xuôi của Tagore, đặc biệt là tiểu thuyết còn chưa có được nhiều sự quan tâm của người đọc và các nhà nghiên cứu. Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi tập hợp được một số ý kiến như sau: Trong tác phẩm Ravinđranat Tagorơ, NXB Văn hoá Hà Nội, 1961, nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh đã đề cập ít nhiều đến tiểu thuyết Gora. Nhưng sự đề cập này lại chủ yếu quan tâm đến nội dung tác phẩm, cụ thể là cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Ấn Độ, còn việc đánh giá dưới góc độ nghệ thuật thì chưa được bàn đến. Giáo sư Lưu Đức Trung trong cuốn R. Tagore tuyển tập tác phẩm, NXB Lao Động Trung Tâm Ngôn Ngữ Đông Tây, đã nhận định tiểu thuyết Tagore “đóng góp đáng kể vào sự nghiệp phát triển chủ nghĩa hiện thực ở An Độ”; “chất hiện thực và lãng mạn trong tiểu thuyết của Tagore rất sâu đậm”, lối miêu tả nội tâm nhân vật cùng yếu tố thiên nhiên là thủ pháp đặc sắc của ông. Trong chuyên luận Rabindranath Tagore với thời đại phục hưng An Độ, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2006, tiến sĩ Nguyễn Văn Hạnh đã đánh giá cao ngòi bút tiểu thuyết của Tagore, cho rằng những tác phẩm của nhà văn là “Một sự thể nghiệm thành công tiểu thuyết dòng ý thức mà trước đó chưa từng được biết đến trong văn xuôi An Độ”. Trên cơ sở khảo sát toàn bộ sáng tác của Tagore, chuyên luận này cũng chỉ đưa ra những nhận xét có tính chất gợi mở chứ chưa đi sâu phân tích cụ thể. Các khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ của một số người học cũng đã khám phá Đắm thuyền dưới góc nhìn nghệ thuật như: Khoá luận tốt nghiệp cử nhân của Trần Thị Loan, Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội I, năm 1994, với đề tài “Nghệ thuật miêu tả tâm lý qua nhân vật Ramesh trong Đắm thuyền tiểu thuyết của Tagore”; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Huân, Trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Trường Đại Học Sư Phạm, năm 1999 với đề tài: “Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Đắm thuyền của Tagore”. Những bài nghiên cứu này phần nào nói lên được những đặc sắc về nghệ thuật viết tiểu thuyết của Tagore, nhưng cũng chỉ đề cập đến một vài khía cạnh trong một chỉnh thể nghệ thuật phong phú. Tóm lại, tại Việt Nam, nghiên cứu tiểu thuyết của R.Tagore là công việc còn nhiều mới mẻ. Với hướng nghiên cứu của những công trình đi trước, trong hướng nghiên cứu cụ thể của đề tài, chúng tôi sẽ đi sâu khảo sát những đặc điểm mới mẻ của nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết Đắm Thuyền của R. Tagore. 3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu 3.1. Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu: “Nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết Đắm thuyền”, phạm vi nghiên cứu chính của luận văn là tiểu thuyết Đắm thuyền, đồng thời mở rộng sang truyện ngắn và một số tiểu thuyết khác của Tagore. 3.2. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu: Dựa trên văn bản nghệ thuật tác phẩm, tiến hành khảo sát thống kê, sau đó tiến hành phân tích các chi tiết thể hiện nghệ thuật kể chuyện. Đồng thời, đối chiếu so sánh với một số truyện ngắn, tiểu thuyết khác của Tagore, để chỉ ra hiệu quả nghệ thuật và nét hấp dẫn riêng của Đắm thuyền. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 4.1. Đề tài nghiên cứu phong cách văn xuôi Tagore ở thể loại tiểu thuyết, khẳng định những sáng tạo và đóng góp của Tagore với tiến trình phát triển của văn học hiện đại Ấn Độ. 4.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: Tìm hiểu phong cách tiểu thuyết Tagore, đồng thời mở rộng việc dạy và học thể loại này trong nhà trường. Chương 1: TAGORE VÀ “SỰ BẮT ĐẦU CON ĐƯỜNG MỚI CHO VĂN XUÔI ẤN ĐỘ” 1.1. Tiểu thuyết R.Tagore trên hành trình sáng tạo 1.1.1. Sự khởi đầu mới Ở Ấn Độ, dòng họ Thakur vùng Bengal thuộc số những lãnh chúa có thế lực. Tên của dòng họ này trong tiếng Bengali có nghĩa là vị chúa đất. Thời thuộc địa, cách phát âm Thakur là một thử thách rất lớn đối với người Anh. Một công chức người Anh, trong một lần ghi chép đã phiên âm chữ Thakur thành Tagore. Từ đó, trên các công văn giấy tờ được Anh hóa, Thakur đã được phiên âm thành Tagore. Vậy là tên họ Tagore được sinh ra từ sự nhầm lẫn, cũng giống như nhiều điều cơ bản của đời sống, đã được sinh ra từ nhầm lẫn, ngộ nhận. Và thế giới cũng sẽ chẳng biết đến sự nhầm lẫn này nếu như dòng họ Thakur ở Bengal không sinh ra một nhân vật xuất chúng: Đại thi hào Rabindranath Tagore. Rabindranath Tagore (1861-1941) sinh ra và lớn lên trong một gia đình quý tộc Bà La Môn. Cậu bé Rabi (tên thân mật của Tagore lúc nhỏ) đã nhận được sự giáo dục chu đáo và bài bản từ gia đình. Cuộc sống trường học không thích hợp với cậu. Rabindranath Tagore luôn mở rộng để đón nhận mọi kiến thức, từ thơ ca Anh đến những bài ru Bengal, từ khúc giao hưởng cổ điển chau chuốt đến âm điệu mộc mạc giản dị. Tất cả đã hình thành nên một con người có trí tuệ uyên thâm mà rất khiêm nhường, một tính cách hiện đại nhưng rất dân tộc, một tâm hồn nhiều suy tư nhưng cũng rất giàu tưởng tượng, một trái tim tinh tế và nhân đạo vô cùng. Có thể nói, Tagore đã dành trọn cuộc đời mình cho nền nghệ thuật Bengal, khiến ngôn ngữ ấy âm vang mãi mãi những giai điệu: “Jana gana mana adhinayyaka jaya he jaya he jaya he” (“Cất bước đi lên, chiến thắng, chiến thắng và chiến thắng”- Quốc ca An Độ); “Amar sonar Bangla ami tomay bhalo basil” (“xứ sở Bengal vàng mười, ta yêu người” –Quốc ca Banglades). Vào thập niên chín mươi của thế kỉ XIX, R. Tagore bắt đầu chắp bút viết những dòng văn xuôi đầu tiên. Với hai tác phẩm Ông chủ bưu điện và Sự trở lại của Khobababur, Tagore chính thức xuất hiện với tư cách là nhà viết truyện ngắn. Đến thập niên đầu của thế kỉ XX, nhà văn chuyển sang viết tiểu thuyết, với hai tác phẩm đầu tay là Bến bờ Bibkhi (1882) và Radia-Nhà thông thái (1887). Chuyển hướng sang sáng tác tiểu thuyết thực sự là một trải nghiệm mới mẻ đối với Tagore. Dù đã rất thành danh với thơ và truyện ngắn, nhưng bước sang tiểu thuyết, Tagore cũng phải trải qua giai đoạn tìm đường, thử nghiệm và thay đổi. Viết tiểu thuyết, Tagore hướng đến mục đích hết sức cao cả: giải thoát văn học dân tộc khỏi tình trạng khô cứng và nghèo nàn. Đồng thời, ông muốn chứng minh sự linh hoạt của tiếng Bengali, một ngôn ngữ không chỉ dành riêng cho thơ ca. Thêm nữa, với một trái tim nhạy cảm, Tagore hiểu rất rõ thực trạng bức bối, phức tạp của Ấn Độ lúc bấy giờ. Đó là bức tranh mà thơ không thể phản ánh chi tiết, truyện ngắn không đủ chuyển tải tất cả, chỉ có tiểu thuyết, với tầm vóc đồ sộ của mình mới có thể tái hiện mọi khía cạnh và tất cả những vấn đề cuộc sống hiện thực. Bởi vì, “Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh được số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” (Nhiều tác giả (1993), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB văn học, Hà Nội). Cho nên, chuyển hướng sang tiểu thuyết là thi sĩ Tagore bắt đầu một chặng đường mới. Sự khởi đầu này buộc Tagore phải lựa chọn những đề tài phù hợp. Đó không chỉ là đề tài trước đây ông đã từng thể hiện trong thơ mà còn là những mảng đề tài rộng lớn của cuộc sống hiện thực. Sự khởi đầu này cũng khiến Tagore phải lựa chọn hình thức nghệ thuật tương xứng. Đó không chỉ là bút pháp khai thác tâm lý và những biện pháp tu từ mà còn là cách tái hiện nhân vật cùng lối dẫn truyện đặc trưng. Tagore bước chân sang tiểu thuyết không phải với tư cách của người mở đường cho thể loại mới nhưng là người khai thông những bế tắc cho tiểu thuyết trong lòng đông đảo quần chúng. Thế nên, tiểu thuyết Tagore đến tay bạn đọc không tạo sự ngỡ ngàng về một thể loại hoàn toàn xa lạ, nhưng là bắt đầu một chặng đường phát triển mới của thể loại này. Khi chuyển sang viết tiểu thuyết, Tagore, với vị trí là một nhà thơ nổi tiếng, có lợi thế rất lớn trong những trường đoạn miêu tả nội tâm, khắc họa thiên nhiên, nhưng lợi thế này không giúp ông tránh khỏi những khó khăn ban đầu. Buổi đầu, Tagore đi vào lối mòn quen thuộc của các nhà viết tiểu thuyết lúc bấy giờ: Đề tài khai thác chủ yếu là những vấn đề lịch sử, từ đó, kín đáo gửi gắm những vấn đề hiện đại; cảm hứng chủ yếu là cảm hứng lãng mạn thể hiện qua việc ngợi ca người anh hùng lý tưởng. Sự khởi đầu một thể loại mới của Tagore chưa vượt qua được cái bóng của tiểu thuyết truyền thống. Do đó, những tác phẩm ban đầu của ông không để lại ấn tượng đối với công chúng. Cùng với tài năng, thái độ làm việc nghiêm túc, cần mẫn, tâm huyết, Tagore đã bắt đầu một chặng đường mới để khẳng định dấu ấn cá nhân. Ông bắt đầu chuyển hướng đề tài từ việc khai thác vấn đề lịch sử chuyển sang quan tâm đến những vấn đề của đời sống hiện thực, đồng thời, lựa chọn phương thức biểu hiện riêng, phù hợp hơn. Điều này đã thổi luồng sinh khi mới vào những bộ tiểu thuyết của ông. Nhà văn Pháp G. Duyamen cho rằng: “Một tiểu thuyết thực sự hứng thú là tiểu thuyết không chỉ mua vui cho chúng ta mà chủ yếu hơn là giúp đỡ chúng ta nhận thức cuộc sống và cắt nghĩa thế giới”. Các tác phẩm của Tagore đã tái hiện bức tranh toàn cảnh Ấn Độ thời phục hưng, đồng thời thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc trong cách nhìn của ông về nỗi khổ đau của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Những bộ tiểu thuyết đặc sắc của Tagore có thể kể tới là Nàng Binodini (1901), Đắm thuyền (1905), Gora (1910), Ngôi nhà và thế giới (1916). Trong hành trình sáng tạo, Tagore đến với thể loại tiểu thuyết không phải như một sự thử nghiệm, trái lại, đó là con đường tất yếu của một thiên tài toàn diện. Cho nên, có thể nói rằng, con đường đến với tiểu thuyết của Rabindranath Tagore là một sự dấn thân thực sự. 1.1.2. Cuộc dấn thân vinh dự Trong tự thuật My life, Tagore viết: “Tôi sinh năm 1861. Đó không phải là một ngày quan trong của lịch sử nhưng nó thuộc về giai đoạn lớn lao trong lịch sử Bengal”. Giai đoạn lớn lao mà Tagore muốn nói tới là giai đoạn trỗi dậy của tinh thần Ấn Độ với hàng loạt các cuộc cải cách trên nhiều lĩnh vực. Năm 1858, khi thực dân Anh chính thức tiến hành những chính sách khai thác thuộc địa, Ấn Độ lâm vào giai đoạn bị tàn phá về cả vật chất lẫn tinh thần. Bị đẩy vào thời đại của những mất mát, ý thức dân tộc của mỗi con người Ấn trỗi dậy mạnh mẽ. Và công cuộc phục hưng toàn diện đã diễn ra, trong đó có văn học nghệ thuật. Trong sự giao thoa với Phương Tây, nền văn học Ấn ngày càng lộ rõ sự tụt hậu. Về cơ bản, truyền thống văn học dân tộc là truyền thống thơ ca, văn xuôi không có chỗ đứng. Có thể nói, văn học Ấn Độ trong thời hiện đại bị bó hẹp trong những khuôn khổ cứng nhắc, như có lần Tagore đã nói: “Chúng tôi phải tìm thấy tự do không chỉ trong tư tưởng mà còn trong những biểu hiện văn học nữa. Nhưng nền văn học của chúng tôi đã để cho sự sáng tạo tan biến. Nó thiếu phong trào và bị ràng buộc trong một thứ tu từ học cứng nhắc”. Sự đổi mới, vì thế, là một nhu cầu tất yếu. Và người khai thông nguồn mạch để văn học An Độ theo kịp dòng chảy thế giới chính là Bankim Chadra. Cuộc cải cách văn học do B.Chandra khởi xướng đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm của tầng lớp trí thức yêu nước, trong đó có Tagore. Với sự am hiểu uyên thâm, cùng lòng yêu nước nhiệt thành và tinh thần cầu tiến, R.Tagore đã hòa mình vào thời kỳ phục hưng Ấn Độ. Việc chuyển hướng sang tiểu thuyết nói riêng và văn xuôi nói chung cũng là một cách đổi mới văn học dân tộc. Với sự chuyển hướng này, Tagore đã dấn bước vào một con đường nhiều thử thách và khó khăn. Cái khó khăn mà nhà văn phải đối diện là thái độ tiếp nhận của công chúng đối với thể loại văn học và ngôn ngữ mới. Từ ngàn xưa, người Ấn luôn tự hào về tiếng Bengali, một ngôn ngữ có nguồn gốc tôn giáo cao quý, ngôn ngữ dành riêng cho thơ ca. Cho nên trong thời phục hưng văn học được thể hiện trong lớp vỏ ngôn ngữ mới là tiếng Anh thì lập tức nó đã bị những tư tưởng bài ngoài phê phán. Thêm vào đó, lịch sử văn học Ấn Độ, về cơ bản là lịch sử của thơ ca. Vì thế, tiểu thuyết đến với công chúng trong tư cách là một thể loại mới đã tạo ra phản ứng nhất định. Trước Tagore, Bankim Chandra và những nhà văn lớp trước đã cố gắng đem thể loại tiểu thuyết, đặc biệt là tiểu thuyết bằng tiếng Bengal lên văn đàn đương đại, nhưng sự hưởng ứng của công chúng là rất khiêm nhường. Như vậy, chuyển sang tiểu thuyết là con đường nhiều thử thách đối với Tagore ngay từ những bước chân đầu tiên. Khó khăn nối tiếp khó khăn, hai tiểu thuyết đầu tay lấy đề tài lịch sử của thế kỉ 17 đã không gây ấn tượng với độc giả và không thoát được cái bóng quá lớn của Bankim Chandra. Sau hai tiểu thuyết trình làng, phải mất tới mười lăm năm tác phẩm tiếp theo mới xuất bản. Mười lăm năm không phải là khoảng thời gian dài trong đời người nhưng đủ dài trong cuộc đời nghệ thuật và đủ để Tagore suy ngẫm tìm hướng đi phù hợp cho hành trình mới này. Năm 1902, tiểu thuyết Cokher bàli ra đời. Không còn mang đề tài lịch sử xưa cũ, tác phẩm tập trung khai thác những va chạm trong tư tưởng cá nhân, những hành động và phản ứng của nhân vật trong mối xung đột. Từ tác phẩm này, đông đảo công chúng đã tiếp nhận tiểu thuyết của ông. Dù không phải là người viết tiểu thuyết bằng tiếng Bengal đầu tiên và khi dấn thân vào con đường này, ông gặp phải rất nhiều những khó khăn, nhưng càng về sau, những bộ tiểu thuyết của Tagore càng gặt hái được rất nhiều thành tựu, được đánh giá rất cao về cả nội dung lẫn hình thức. Năm 1902, Đắm thuyền ra đời. Tác phẩm đã đặt nhân vật trong những mối xung đột, những trăn trở triền miên nội tâm trên hành trình đi tìm hạnh phúc. Đây là bộ tiểu thuyết được giới phê bình đánh giá rất thành công trong việc khai thác và phân tích tâm lý nhân vật, góp phần thể hiện tiểu thuyết dòng ý thức, một dạng tiểu thuyết hiện đại rất mới đối trong văn học Ấn Độ bấy giờ. Năm 1910, Tagore cho ra đời bộ tiểu thuyết lớn nhất của mình, tiểu thuyết Gora. Bối cảnh của tác phẩm là thời kì đấu tranh sôi động của các phong trào cải cách xã hội. Đồng thời, đây cũng là lời tiên đoán về cuộc đấu tranh bất hợp tác trong hòa bình chống lại chính quyền đô hộ mà một thập niên sau, nó mới diễn ra dưới sự lãnh đạo của Mahatma Gandhi. Với nội dung đồ sộ và hình thức nghệ thuật đổi mới, Gôra được đánh giá như là Mahabharata của An Độ hiện đại. Câu chuyện của hai thời đại khác biệt đã gặp nhau ở điểm chung trong tinh thần nhân văn đượm chất Ấn: Đó là tinh thần hòa hợp gắn kết mọi con người. Trải qua bao năm tháng thăng trầm của lịch, thông điệp kết thúc câu chuyện sử thi “Trên thiên giới không có chỗ cho lòng hận thù”, đã được tiếp nối trong sự đốn ngộ của nhân vật Gora “Cả thế giới là nhà tôi, mọi người là anh em tôi”. Theo dòng cảm hứng, Tagore tiếp tục cho ra đời bộ tiểu thuyết Ngôi nhà và thế giới (At home and Outside). Cũng giống như Gora, tác phẩm là hình ảnh thu nhỏ của cả thời đại trong những vấn đề của cá nhân và gia đình. Với những xung đột không ngừng của các nhân vật, tác phẩm đã cho thấy toàn cảnh những mâu thuẫn bên ngoài gia đình. Và số phận mỗi nhân vật cũng là biểu tượng cho những tầng lớp trong xã hội trước làn sóng văn hóa Phương Tây. Hiếm có bộ tiểu thuyết nào trong giai đoạn ấy, có một sức khái quát vĩ mô như Ngôi nhà và thế giới. Năm 1901, Tagore cho ra đời tác phẩm Chokher Bali viết bằng tiếng Bengali (Năm 1959 được đổi tên là Nàng Binodini). Đây không phải là bộ tiểu thuyết đầu tiên viết về người phụ nữ. Trước đó, Bankim Chandra đã tái hiện hình ảnh đau thương của người góa phụ vào những năm 70 của thế kỉ XIX như Cây độc, Di chúc của Krixnasan. Nhưng bộ tiểu thuyết này của Tagore đã được đón nhận nồng nhiệt và được đánh giá là “Tác phẩm đầu tiên và hay nhất về tâm lý phụ nữ trong văn học Bengal” (Lời nhận xét của Humanyun Kabir), là “Sự bắt đầu con đường mới cho văn xuôi An Độ” (đánh giá của Bhabani Bhâttcharrya). Với tiểu thuyết Nàng Binodini, Tagore đã khai mở thành công tiểu thuyết dòng ý thức, một kiểu tiểu thuyết hoàn toàn mới mẻ bấy giờ. Như vậy, trên hành trình sáng tạo của mình, Tagore dấn bước sang con đường tiểu thuyết như hướng đi tất yếu của một con người toàn tài. Tagore với tình yê
Luận văn liên quan