Luận văn Những giải pháp nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An

I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá làng xã truyền thống đang trở thành vấn đề quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng, các nhà nghiên cứu và quản lý văn hoá; giữ gìn và phát huy thế nào, ra sao để kế thừa được những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá làng, xã nói chung, vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An nói riêng. Văn hoá làng là một thành tố quan trọng của nền văn hoá dân tộc; là nền tảng cơ sở để xây dựng nông thôn phát triển bền vững.Vì vậy tìm hiểu cặn kẽ, có hệ thống về bản sắc văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An là nội dung cơ bản của luận văn này. Những thập kỷ gần đây việc nghiên cứu tìm hiểu văn hoá làng xã được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Các nghị quyết Đại hội VI,VII,VIII, IX của Đảng đều đề cập đến vấn đề xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn : xây dựng nông thôn mới theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. Thủ tướng chính phủ đã có chỉ thị số 24/1999/TTtg về xây dựng và thực hiện hương ước, qui ước văn hoá ở các làng, bản, thôn ấp, cụm dân cư nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân lao động và làm cơ sở vững chắc cho việc nâng cao đời sống văn hoá ở nông thôn hiện nay phát triển đúng hướng theo tinh thần nghị quyết Trung ương V (khoá VIII) của Đảng về xây dựng và phát triển một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh nhà. Là nơi tập trung đông nhất về dân số, chiếm 3/4 dân số của cả tỉnh; nơi tập trung nhiều trung tâm văn hoá khoa học kỹ thuật và chính trị của tỉnh như: thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò. Là người địa phương vừa làm công tác đào tạo đội ngũ cán bộ văn hoá thông tin cho cơ sở và đã có quá trình theo dõi, tham gia các hoạt động văn hoá thông tin của tỉnh, nên đã có những am hiểu nhất định về văn hoá nói chung, văn hoá cơ sở ở các làng xã vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An nói riêng. Tác giả muốn nghiên cứu, tìm hiểu về bản sắc văn hoá của quê hương mình để nâng cao hiểu biết những giá trị văn hoá truyền thống của địa phương, làm giàu cho hành trang tri thức của mình để phục vụ công tác được tốt hơn. II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 1. Mục đích nghiên cưú Luận văn có ý tưởng hệ thống lại các thành quả của điều tra xã hội học, của các công trình nghiên cứu khoa học trước đây, xây dựng lại thành một chỉnh thể về bản sắc văn hoá dân tộc của làng xã vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An, để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình. Trên cơ sở đó, đề ra được những giải pháp giữ gìn, phát huy có hiệu quả, có chất lượng việc xây dựng làng văn hoá hiện nay, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc theo tinh thần nghị quyết Trung ương V( khoá VIII) của Đảng. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận về làng , văn hoá làng và những đặc điểm Văn hoá làng ở vùng đồng bằng ven biển Tỉnh Nghệ An để tìm ra những giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy được những bản sắc Văn hoá làng tốt đẹp ở vùng này. III- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là văn hoá truyền thống, bản sắc văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An. 2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần, văn hoá vật thể, văn hoá phi vật thể của làng xã trước đây, do vậy những làng xã và những đơn vị tương đương với làng ở địa bàn của vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An là phạm vi của đề tài. Nếu khảo sát, nghiên cứu kỹ càng tư liệu văn hoá truyền thống của làng xã, dù chỉ ở một địa bàn hạn hẹp, cũng có thể cho phép ta phát hiện, rút ra những kết luận khoa học mang tính khái quát có giá trị ngoại suy cho những địa bàn khác rộng hơn. IV- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Phân tích nội dung thuật ngữ văn hoá làng. Ở luận văn này, người viết cố gắng trình bày nội dung thuật ngữ văn hoá làng với những nét đại cương nhất. Mà chính đó là cơ sở, tiền đề về mặt lý thuyết giúp chúng tôi khảo sát những phần tiếp theo như mục đích của đề tài nêu ra. 2. Phương pháp. Chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp các tài liệu về địa lí, lịch sử hình thành và phát triển văn hoá làng ở vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An , đi điền dã, quan sát thực tế tìm hiểu kỹ phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng lễ hội . Đặc biệt là tích cực khai thác mảng phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội, dòng họ. Chính vì phong tục tập quán, lễ hội, dòng họ là một bộ phận rất quan trọng của văn hoá làng ; nó hàm chứa tất cả hệ tư tưởng, đạo đức, tình cảm, lối sống của nhân dân; là những thành tố cơ bản tạo nên bản sắc văn hoá làng. Bởi vậy, nếu nghiên cứu kỹ các vấn đề này sẽ làm sáng tỏ đặc trưng của văn hoá làng Việt nói chung, văn hoá làng Nghệ An nói riêng mà cụ thể là ở vùng đồng bằng và ven biển. V. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Làng ( village ) và văn hoá làng đã được đề cập tới trong các tác phẩm khác nhau, đặc biệt với những tác giả viết về văn hoá học. Có thể kể tên như Đào Duy Anh, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Khắc Viện, Phan Ngọc, Phạm Đức Dương, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Trần Ngọc Thêm. Hay nói khác đi, viết về văn hoá Việt Nam không thể không đề cập tới văn hoá làng. Ở Nghệ Tĩnh nói chung, Nghệ An nói riêng cũng đã xuất hiên một số tác phẩm. Dẫu cho tên gọi tác phẩm không nói thẳng là viết về văn hoá làng nhưng trên thực tế nội dung có liên quan xa gần tới vấn đề này Trước năm 1945 đã xuất hiện các tác phẩm như "Quỳnh Lưu phong thổ ký", "Diễn Châu phong thổ chí", "Thanh Chương huyện chí"," Nghệ An ký", " Hoan Châu phong thổ ký", " Hoan Châu phong thổ thoại"," Nhân Sơn phong thổ ký"," Nho Lâm phong thổ ký"," Quỳnh Đôi phong thổ ký", " Triều khẩu phong thổ ký". Sau năm 1945 , việc nghiên cứu về văn hoá làng ở nước ta nói chung được quan tâm và đẩy mạnh hơn. Riêng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An có thêm các công trình như: " Hát ví Nghệ Tĩnh" của Nguyễn Chung Anh, " Hát giặm nghệ Tĩnh","Ca dao Nghệ Tĩnh" của Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết Giao, " Hát phường vải", " Vè Nghệ Tĩnh","Thơ văn Xô viết Nghệ Tĩnh"," Chuyện kể dân gian xứ Nghệ","Truyện trạng xứ Nghệ"," Truyền thuyết núi Hai Vai"," Âm nhạc dân gian xứ Nghệ"," Kho Tàng ca dao xứ Nghệ"v.v và nhiều công trình quan trọng khác như : "Văn hoá các dòng họ tiêu biểu ở Nghệ An"," Nghề , làng nghề thủ công truyền thống", " Hương ước Nghệ An"," Trò chơi dân gian xứ Nghệ'," Tục thờ thần và thần tích nghệ An", " Văn hoá ẩm thực xứ Nghệ" và địa chí văn hoá thuộc các huyện: Quỳnh Lưu, Nam Đàn, Diễn Châu, Yên Thành . Đặc biệt từ khi có chỉ thị của thường trực Tỉnh uỷ và uỷ ban nhân dân tỉnh về việc sưu tập biên soạn" Địa chí văn hoá làng xã ở Nghệ An" ngày 12/11/1993, việc biên soạn địa chí văn hoá trở nên thường xuyên hơn. Đến nay đã có 295 trên 469 làng xã của cả tỉnh đã và đang tiến hành biên soạn địa chí văn hoá. Những năm gần đây cùng với cả nước, Nghệ An đã đẩy mạnh phong trào xây dựng làng văn hoá, đơn vị văn hoá và đã thu được kết quả đáng khích lệ. Tuy vậy việc tìm hiểu , nghiên cứu văn hoá truyền thống ở các làng xã mới triển khai bước đầu và kết quả đạt được còn quá khiêm tốn so với giá trị vốn có của văn hoá làng . VI- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN 1. Kết quả nghiên cứu Luận văn này muốn từ những tài liệu thực tế văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An để nhằm rút ra được những đặc trưng riêng của văn hoá khu vực. Kết quả này giúp cho chúng ta có thể hiểu được bản sắc văn hoá vùng đồng bằng ven biển Nghệ An nói riêng, Nghệ Tĩnh nói chung, từ một phía, và từ phía khác có thể hiểu rõ sự khác biệt giao thoa với văn hoá làng đồng bằng Bắc bộ, làng đồng bằng Nam bộ. Giúp cho việc giữ gìn , phát huy những bản sắc văn hoá tốt đẹp và biết khắc phục những hạn chế của làng hiện nay. 2. Đóng góp của luận văn Luận văn là tài liệu có tính thời sự giúp cho các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý văn hoá có thêm căn cứ khoa học trong việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn nói chung, ở vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An nói riêng. Có thể xem luận văn này là tài liệu bổ ích cho việc nghiên cứu văn hoá địa phương nói riêng và địa phương học nói chung. Đồng thời cũng nêu rõ những yếu tố tốt đẹp cần gìn giữ, phát huy, những hạn chế cần khắc phục trong công cuộc xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá ở địa bàn nông thôn vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An. VII - BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham thảo, luận văn chia làm 3 chương. Chương I: Bản sắc văn hoá Việt Nam và Văn hoá làng ( 15 trang) Chương II: Văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An ( 44 trang) Chương III: Những giải pháp nhằm giữ gìn bản sắc văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An ( 11 trang ) Ngoài ra, luận văn còn có phần phục lục ( 23 trang) để minh hoạ cho những nội dung trong luận văn

doc107 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3448 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những giải pháp nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá làng xã truyền thống đang trở thành vấn đề quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng, các nhà nghiên cứu và quản lý văn hoá; giữ gìn và phát huy thế nào, ra sao để kế thừa được những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá làng, xã nói chung, vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An nói riêng. Văn hoá làng là một thành tố quan trọng của nền văn hoá dân tộc; là nền tảng cơ sở để xây dựng nông thôn phát triển bền vững.Vì vậy tìm hiểu cặn kẽ, có hệ thống về bản sắc văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An là nội dung cơ bản của luận văn này. Những thập kỷ gần đây việc nghiên cứu tìm hiểu văn hoá làng xã được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Các nghị quyết Đại hội VI,VII,VIII, IX của Đảng đều đề cập đến vấn đề xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn : xây dựng nông thôn mới theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. Thủ tướng chính phủ đã có chỉ thị số 24/1999/TTtg về xây dựng và thực hiện hương ước, qui ước văn hoá ở các làng, bản, thôn ấp, cụm dân cư nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân lao động và làm cơ sở vững chắc cho việc nâng cao đời sống văn hoá ở nông thôn hiện nay phát triển đúng hướng theo tinh thần nghị quyết Trung ương V (khoá VIII) của Đảng về xây dựng và phát triển một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh nhà. Là nơi tập trung đông nhất về dân số, chiếm 3/4 dân số của cả tỉnh; nơi tập trung nhiều trung tâm văn hoá khoa học kỹ thuật và chính trị của tỉnh như: thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò... Là người địa phương vừa làm công tác đào tạo đội ngũ cán bộ văn hoá thông tin cho cơ sở và đã có quá trình theo dõi, tham gia các hoạt động văn hoá thông tin của tỉnh, nên đã có những am hiểu nhất định về văn hoá nói chung, văn hoá cơ sở ở các làng xã vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An nói riêng. Tác giả muốn nghiên cứu, tìm hiểu về bản sắc văn hoá của quê hương mình để nâng cao hiểu biết những giá trị văn hoá truyền thống của địa phương, làm giàu cho hành trang tri thức của mình để phục vụ công tác được tốt hơn. II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 1. Mục đích nghiên cưú Luận văn có ý tưởng hệ thống lại các thành quả của điều tra xã hội học, của các công trình nghiên cứu khoa học trước đây, xây dựng lại thành một chỉnh thể về bản sắc văn hoá dân tộc của làng xã vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An, để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình. Trên cơ sở đó, đề ra được những giải pháp giữ gìn, phát huy có hiệu quả, có chất lượng việc xây dựng làng văn hoá hiện nay, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc theo tinh thần nghị quyết Trung ương V( khoá VIII) của Đảng. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận về làng , văn hoá làng và những đặc điểm Văn hoá làng ở vùng đồng bằng ven biển Tỉnh Nghệ An để tìm ra những giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy được những bản sắc Văn hoá làng tốt đẹp ở vùng này. III- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là văn hoá truyền thống, bản sắc văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An. 2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần, văn hoá vật thể, văn hoá phi vật thể của làng xã trước đây, do vậy những làng xã và những đơn vị tương đương với làng ở địa bàn của vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An là phạm vi của đề tài. Nếu khảo sát, nghiên cứu kỹ càng tư liệu văn hoá truyền thống của làng xã, dù chỉ ở một địa bàn hạn hẹp, cũng có thể cho phép ta phát hiện, rút ra những kết luận khoa học mang tính khái quát có giá trị ngoại suy cho những địa bàn khác rộng hơn. IV- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Phân tích nội dung thuật ngữ văn hoá làng. Ở luận văn này, người viết cố gắng trình bày nội dung thuật ngữ văn hoá làng với những nét đại cương nhất. Mà chính đó là cơ sở, tiền đề về mặt lý thuyết giúp chúng tôi khảo sát những phần tiếp theo như mục đích của đề tài nêu ra. 2. Phương pháp. Chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp các tài liệu về địa lí, lịch sử hình thành và phát triển văn hoá làng ở vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An , đi điền dã, quan sát thực tế tìm hiểu kỹ phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng lễ hội . Đặc biệt là tích cực khai thác mảng phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội, dòng họ. Chính vì phong tục tập quán, lễ hội, dòng họ là một bộ phận rất quan trọng của văn hoá làng ; nó hàm chứa tất cả hệ tư tưởng, đạo đức, tình cảm, lối sống của nhân dân; là những thành tố cơ bản tạo nên bản sắc văn hoá làng. Bởi vậy, nếu nghiên cứu kỹ các vấn đề này sẽ làm sáng tỏ đặc trưng của văn hoá làng Việt nói chung, văn hoá làng Nghệ An nói riêng mà cụ thể là ở vùng đồng bằng và ven biển. ơ V. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Làng ( village ) và văn hoá làng đã được đề cập tới trong các tác phẩm khác nhau, đặc biệt với những tác giả viết về văn hoá học. Có thể kể tên như Đào Duy Anh, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Khắc Viện, Phan Ngọc, Phạm Đức Dương, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Trần Ngọc Thêm... Hay nói khác đi, viết về văn hoá Việt Nam không thể không đề cập tới văn hoá làng. Ở Nghệ Tĩnh nói chung, Nghệ An nói riêng cũng đã xuất hiên một số tác phẩm. Dẫu cho tên gọi tác phẩm không nói thẳng là viết về văn hoá làng nhưng trên thực tế nội dung có liên quan xa gần tới vấn đề này Trước năm 1945 đã xuất hiện các tác phẩm như "Quỳnh Lưu phong thổ ký", "Diễn Châu phong thổ chí", "Thanh Chương huyện chí"," Nghệ An ký", " Hoan Châu phong thổ ký", " Hoan Châu phong thổ thoại"," Nhân Sơn phong thổ ký"," Nho Lâm phong thổ ký"," Quỳnh Đôi phong thổ ký", " Triều khẩu phong thổ ký"... Sau năm 1945 , việc nghiên cứu về văn hoá làng ở nước ta nói chung được quan tâm và đẩy mạnh hơn. Riêng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An có thêm các công trình như: " Hát ví Nghệ Tĩnh" của Nguyễn Chung Anh, " Hát giặm nghệ Tĩnh","Ca dao Nghệ Tĩnh" của Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết Giao, " Hát phường vải", " Vè Nghệ Tĩnh","Thơ văn Xô viết Nghệ Tĩnh"," Chuyện kể dân gian xứ Nghệ","Truyện trạng xứ Nghệ"," Truyền thuyết núi Hai Vai"," Âm nhạc dân gian xứ Nghệ"," Kho Tàng ca dao xứ Nghệ"v.v và nhiều công trình quan trọng khác như : "Văn hoá các dòng họ tiêu biểu ở Nghệ An"," Nghề , làng nghề thủ công truyền thống", " Hương ước Nghệ An"," Trò chơi dân gian xứ Nghệ'," Tục thờ thần và thần tích nghệ An", " Văn hoá ẩm thực xứ Nghệ" và địa chí văn hoá thuộc các huyện: Quỳnh Lưu, Nam Đàn, Diễn Châu, Yên Thành ... Đặc biệt từ khi có chỉ thị của thường trực Tỉnh uỷ và uỷ ban nhân dân tỉnh về việc sưu tập biên soạn" Địa chí văn hoá làng xã ở Nghệ An" ngày 12/11/1993, việc biên soạn địa chí văn hoá trở nên thường xuyên hơn. Đến nay đã có 295 trên 469 làng xã của cả tỉnh đã và đang tiến hành biên soạn địa chí văn hoá. Những năm gần đây cùng với cả nước, Nghệ An đã đẩy mạnh phong trào xây dựng làng văn hoá, đơn vị văn hoá và đã thu được kết quả đáng khích lệ. Tuy vậy việc tìm hiểu , nghiên cứu văn hoá truyền thống ở các làng xã mới triển khai bước đầu và kết quả đạt được còn quá khiêm tốn so với giá trị vốn có của văn hoá làng . VI- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN 1. Kết quả nghiên cứu Luận văn này muốn từ những tài liệu thực tế văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An để nhằm rút ra được những đặc trưng riêng của văn hoá khu vực. Kết quả này giúp cho chúng ta có thể hiểu được bản sắc văn hoá vùng đồng bằng ven biển Nghệ An nói riêng, Nghệ Tĩnh nói chung, từ một phía, và từ phía khác có thể hiểu rõ sự khác biệt giao thoa với văn hoá làng đồng bằng Bắc bộ, làng đồng bằng Nam bộ. Giúp cho việc giữ gìn , phát huy những bản sắc văn hoá tốt đẹp và biết khắc phục những hạn chế của làng hiện nay. 2. Đóng góp của luận văn Luận văn là tài liệu có tính thời sự giúp cho các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý văn hoá có thêm căn cứ khoa học trong việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn nói chung, ở vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An nói riêng. Có thể xem luận văn này là tài liệu bổ ích cho việc nghiên cứu văn hoá địa phương nói riêng và địa phương học nói chung. Đồng thời cũng nêu rõ những yếu tố tốt đẹp cần gìn giữ, phát huy, những hạn chế cần khắc phục trong công cuộc xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá ở địa bàn nông thôn vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An. VII - BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham thảo, luận văn chia làm 3 chương. Chương I: Bản sắc văn hoá Việt Nam và Văn hoá làng ( 15 trang) Chương II: Văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An ( 44 trang) Chương III: Những giải pháp nhằm giữ gìn bản sắc văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An ( 11 trang ) Ngoài ra, luận văn còn có phần phục lục ( 23 trang) để minh hoạ cho những nội dung trong luận văn CHƯƠNG I BẢN SẮC VĂN HOÁ VIỆT NAM VÀ VĂN HOÁ LÀNG [ I- TIỂU DẪN Văn hoá Việt Nam được đặt trong bối cảnh Đông Nam Á. Đây là một khu vực thống nhất trong cái đa dạng. " Lịch sử văn minh thế giới có nhiều vùng. Châu Âu có Hy Lạp, trung tâm là Địa Trung Hải . Châu Á có Trung cận Đông liên quan đến Bắc Phi, Ấn Độ có liên quan đến Tiểu Á và Đông Á chia thành Bắc Á gồm Trung Quốc, Nhật Bản Triều Tiên, và Nam Á - Việt Nam và Thái Bình Dương. Đông Nam Á là một trong những cái nôi của loài người, là vùng có tài nguyên vô cùng phong phú: Dầu hoả, Cao su, Than, Thiếc, Apatít ... Cây lúa, nguồn sống của 2/3 đến 3/4 nhân loại đã có rất sớm ở vùng này. Nông sản, khoáng sản, hải sản dồi dào vô tận...." (Nguyễn Khánh Toàn, 1973). Hiện tại, vùng Đông Nam Á bao gồm 10 nước: Cămpuchia, Thái lan, Myanma, Malaixia, Inđônêxia, Philippin, Brunây, Xingapo, Việt nam, Lào. Đông Nam Á là một khu vực có chỉnh thể riêng về văn hoá, được ra đời và hình thành từ rất lâu. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định: Ở đây có nền nông nghiệp lúa nước với một phức thể văn hoá gồm 3 yếu tố: văn hoá núi, văn hoá đồng bằng và văn hoá biển. Ở đấy, làng là một đơn vị vô cùng quan trọng, làng là một ý niệm rất sâu sắc và thiêng liêng đối với người Việt Nam, Làng tượng trưng cho quê cha đất tổ. Lý giải về vấn đề Văn hoá làng phải chỉ rõ ra đặc trưng văn hoá, bản sắc văn hoá Việt Nam, giải thích các thuật ngữ có liên quan như dòng họ, lễ hội hương ước, nghề truyền thống, văn hoá dân gian....Chính đó là tất cả nội dung mà chương này hướng đến. II. BẢN SẮC VĂN HOÁ VIÊT NAM 1. Thuật ngữ văn hoá. Đây là một khái niệm phức tạp trong khoa học xã hội:"Cho đến nay đã có trên bốn trăm định nghĩa khác nhau về văn hoá, tất cả đều bị ảnh hưởng tinh thần luận. Các định nghĩa ấy có thể rất sâu sắc, độc đáo hấp dẫn... dân tộc nào cũng có văn hoá, vì bất cứ cái gì ta hình dung cũng có mặt Văn hoá, dù đó là cây cối, khí trời đến phong tục, cách tổ chức xã hội, các hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần, các sản phẩm của các hoạt động ấy, cho nên không thể tìm một định nghĩa thao tác luận cho Văn hóa nếu dựa vào xã hội học,kinh tế,chính trị v.v. Cũng không thể liệt kê hết vì các mặt ấy rất khác nhau. Chỉ còn tìm cách ngay ở bản thân con người, căn cứ vào sự khu biệt giữa con người với các động vật khác" (Phan Ngọc, 1994, tr. 114) Hiện nay xu thế chung của giới khi nghiên cứu văn hoá đều cho rằng văn hoá là sản phẩm do con người sáng tạo ra và tồn tại ngay từ buổi bình minh của lịch sử loài người. Văn hoá được hiểu là tổng thể những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của xã hội, thể hiện trên các mặt vật chất , tinh thần, trí thức , tình cảm. Thuật ngữ "văn hoá" là một từ Hán Việt vốn có nguồn gốc từ lâu đời . Văn có nghĩa là cái đẹp và hoá có nghĩa là thay đổi. Ở Việt Nam, vào năm 1938 phải kể đến Đào Duy Anh, ông viết : "Người ta thường cho rằng văn hoá là chỉ những học thuật tư tưởng của loài người , nhân thế mà xem văn hoá vốn có tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không phải như vậy, học thuật tư tưởng có nhiều là ở trong phạm vi văn hoá nhưng phàm sự sinh hoạt về kinh tế, về chính trị, về xã hội cùng hết thảy các phong tục tập quán tầm thường lại không phải ở phạm vi văn hoá hay sao? Hai tiếng Văn hoá chẳng qua chỉ chung tất cả các phương tiện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: "Văn hoá tức là sinh hoạt" ( Đào Duy Anh,1992 tr.13 ).Năm 1949, trong " Chủ nghĩa Mác và Văn hoá Việt Nam , đồng chí Trường Chinh viết:" Văn hoá là một vấn đề rất lớn, bao gồm cả Văn học nghệ thuật, Triết học, Phong tục tập quán, Tôn giáo ... Có người cho văn hoá với văn minh là một. Nhưng trong lịch sử nhiều dân tộc chưa có văn minh song đã có Văn hoá. Văn hoá súc tích, phát triển tới mức nào đó mới thànhvăn minh". Phan Ngọc đã trình bày quan điểm của mình về Văn hoá. Ông đã chỉ ra từ văn hoá bắt nguồn từ chữ La Tinh Cultus Agri là " Trồng trọt ngoài đồng"tức là "Sự giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn con người" xét theo nghĩa gốc, Văn hoá gắn liền với giáo dục, đào tạo con người, một tập thể người để cho họ có được những phẩm chất tốt đẹp, cần thiết cho toàn thể cộng đồng. Tiếp đến, ông giải thích thuật ngữ vào Phương Đông, có thể là qua tiếng Hán. Nghĩa gốc của Văn là vẻ đẹp do màu sắc tạo ra. Từ cái nghĩa này văn có nghĩa là hình thức đẹp đã biểu hiện trong lễ , nhạc, cách cai trị,đặc biệt trong ngôn ngữ, cư xử lịch sự. Nó biểu hiện thành một hệ thống quy tắc ứng xử được xem là đẹp đẽ. Văn do đó trở thành một yếu tố then chốt của chính trị và lý luận thu hút những người dị tộc theo người Hán bằng chính cái văn của nó. Với một thao tác luận độc đáo, ông đã đưa ra những ví dụ khá thú vị và đầy sức thuyết phục, hấp dẫn về văn hoá Việt Nam, về Nguyên Trãi, Hồ Chí Minh, về cố đô Huế, và tác giả kết luận:"Văn hoá là một quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu trưng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác. Nét khu biệt các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hoá khác nhau là độ khúc xạ. Tất cả mọi cái mà một tộc người tiếp thu hay sáng tạo đều có một khúc xạ riêng có mặt ở mọi lĩnh vực và rất khác độ khúc xạ ở một tộc người khác ..."(Phan Ngọc, 1994,tr.105) Trần Ngọc Thêm trong cuốn " Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam", tác giả đã đưa đến cho người đọc đầy đủ những thông tin khác nhau xung quanh khái niệm văn hoá, xác định cấu trúc của văn hoá, "Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và tích luỹ qua quá trình họat động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình:" (1996, tr. 27 ) Theo chúng tôi, định nghĩa về văn hoá của ông tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor có tính thuyết phục cao:"Văn hoá là tổng thể sống động của các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống giá trị truyền thống và thị hiếu- Những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc." "Nói tới văn hoá là nói tới toàn bộ những hiểu biết của con người kết tinh lại thành giá trị xã hội truyền thống, thị hiếu có vai trò điều tiết mọi ứng xử của con người trong xã hội , và có khả năng liên kết mọi người trở thành một cộng đồng xã hội riêng biệt. Sự hiểu biết được biểu hiện ở mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng. Sự biến đổi của hiểu biết là quá trình biến thành văn nhưng sự hiểu biết phải được tích tụ bằng sự định hướng , có khả năng kết tinh thành chuẩn mực và điều tiết thế ứng xử của con người thì trở thành văn hoá. Các giá trị xã hội( cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần) điều xuất phát từ những nhu cầu hay thực tiễn . Giá trị là những ước muốn cao cả của con người muốn đạt đến , nó không thể đo đếm được ví như một tác phẩm văn học nghệ thuật, di tích danh thắng, phong tục tập quán, hay tín ngưỡng... Từ các nhu cầu về chính trị làm xuất hiện các giá trị về trật tự xã hội. Nhu cầu điều hoà quan hệ xã hội thì có các giá trị đạo đức . Nhu cầu về một cõi vĩnh hằng vẫn lưu giữ được trong ký ức xã hội thì làm xuất hiện giá trị tôn giáo, tín ngưỡng. Nhu cầu con người muốn trao lại truyền thống đã xuất hiện những giá trị về giáo dục hoặc nhu câù khoái cảm nghệ thuật đã hình thành giá trị thẩm mỹ . Giá trị định hướng con người ở các xã hội khác nhau, vì thế thang giá trị cũng khác nhau. Ví như các chuẩn mực về đạo đức lối sống, phong tục tập quán, các kiểu ứng xử... ở mọi xã hôị đều có sự khác nhau. Vậy có thể nói văn hoá là bảng giá trị xã hội. Để có bảng giá trị xã hội thì vai trò con người trong xã hội được xem là yếu tố cốt lõi. Vì thế người Phương Tây đã dùng chữ Cultusra là "văn hoá có nghiã là vun trồng trí tuệ con người."( Trần Quốc Vượng, 1999 .tr.18) Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định một cách khái quát nhưng rất cụ thể về văn hoá: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người sáng tạo phát minh ra văn học , chữ viết , đạo đức pháp luật, khoa học , tôn giáo , văn học nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở ... và các phương thức sử dụng , toàn bộ các sáng tạo và phát minh đó chính là văn hoá" ( Hồ Chí Minh toàn tập 1994, tr 431). Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết:" Nói tới Văn hoá là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử. Cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hoá với nghĩa cao đẹp của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị: Tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu từ cái mới bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh." (Phạm Văn Đồng, 1995,tr.16 ) Ở Việt Nam chúng ta, nhiều tác giả đã quan tâm nghiên cứu như: Phan Kế Bính , Trần Đình Hượu, Phạm Đức Dương, Cao Xuân Huy, Phan Ngọc,Trần Ngọc Thêm ... Dù các tác giả đi theo các hướng tiếp cận khác nhau nhưng đều có cơ sở của mình khi nói về văn hoá. Thời đại chúng ta ngày nay, văn hoá đang được quan tâm hơn bao giờ hết. Văn hoá ngày nay đang được thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội. Bên cạnh các thể chế xã hội như , chính trị, kinh tế thì văn hoá được hiện diện và tác động mạnh mẽ đối với sự phồn thịnh của mỗi quốc gia. Văn hoá là nội dung giá trị, biểu hiện trình độ trí tuệ và các phẩm chất tinh thần của mình với cộng đồng xã hội.Vậy nền văn hoá của một dân tộc là bản sắc, là khác biệt với bất kỳ văn hóa dân tộc nào khác. Nên có thể nói văn hoá là tượng trưng cho dân tộc "Văn hoá còn, dân tộc còn, văn hoá suy thì dân tộc suy, văn hoá mất thì dân tộc diệt". Đất nước Việt Nam trong thời kì đổi mới hiện nay, Đảng ta rất chú trọng đến giá trị văn hoá, phù hợp với yêu cầu của công cuộc phát triển nền kinh tế xã hội. Văn hoá được đề cập trong nghị quyết TW5 (khoá VIII )của Đảng bao quát toàn bộ đời sống tinh thần xã hội nói chung tập trung vào những lĩnh vực: Tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán, giáo dục và khoa học, văn học nghệ thuật, thông tin đại chúng, các thể chế và thiết chế văn hoá. Trong các mặt đó thì tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá được coi là lĩnh vực quan trọng nhất hiện nay cần được quan tâm. Nếu kinh tế là nền vật chất thì văn hoá là nền tảng tinh thần của lối sống xã hội, với tính cách như vậy văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, hàm lượng trí tuệ, hàm lượng văn hoá trong các lĩnh vực của đời sống càng cao thì khả năng phát triển kinh tế- xã hội càng lớn và hiện thực. Muốn phát triển toàn diện và bền vững thì không thể thiếu là phát triển văn hoá 3. Bản sắc văn hoá Việt Nam Khi nói đến bản sắc văn hoá Việt Nam thì phải nhìn nhận trong mối quan hệ văn hoá vùng Đông Nam Á với đất nước . " Trước hết, tất cả các quốc gia thuộc Đông Nam Á là những quốc gia đa dân tộc. Trong mỗi nước, bên cạnh những dân tộc đa số còn chung sống các dân tộc thiểu số bản địa và thiểu số người nước ngoài với số lượng nhiều ít khác nhau. Các nhóm tộc người bản địa, nhất là phần phía bắc, không những rất đông mà còn đa dạng đến mức ta không hề thấy ở đâu khác trên thế giới, chí
Luận văn liên quan