Luận văn Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam

Tình hình nợ xấu của Việt Nam tính đến tháng 9/2012 do các ngân hàng báo cáo là 4,93%, còn do NHNN công bố là 8,6% tương đương là trên 202 ngàn tỷ đồng . Con số này tuy không quá lớn nếu so sánh với những nước cũng đã từng mắc căn bệnh tương tự như Thái Lan, Hàn Quốc nhưng là rất đáng lo ngại, nguyên do là vì nợ xấu đã liên tục tăng trong nhiều năm qua. Cùng với bối cảnh bất ổn kinh tế vĩ mô, nhiều vấn đề nội tại của nền kinh tế và bản thân hệ thống ngân hàng được đặt lên bàn mổ xẻ, đây thực sự là một khối u cần phải gỡ bỏ. Riêng về vấn đề giải quyết nợ xấu cũng có nhiều ý kiến trái chiều, nhiều biện pháp có thể triển khai. Điều quan trọng đối với Việt Nam là cần lựa chọn phương án phù hợp với tình hình đất nước và có những xử lý quyết liệt để tránh nợ xấu quay trở lại trong tương lai. Thời điểm hiện tại nước ta cũng đã có một công ty chuyên về mua bán nợ xấu trực thuộc bộ tài chính là Công ty Mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, lấy tên quốc tế là Debt and Asset trading Company hay còn gọi tắt là DATC, với số vốn điều lệ ban đầu là 2000 tỷ đồng được hình thành từ nguồn NSNN và các nguồn hợp pháp khác cấp. DATC chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2004 với con dấu riêng, có tài khoản tại kho bạc NN, tài khoản tại các NHTM trong và ngoài nước, trụ sở chính của công ty tại số 4, ngõ Hàng Chuối 1, phố Hàng Chuối, phường Phạm Đình Hổ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Cùng với đó tại các NHTM hầu như cũng đều đã thành lập các công ty mua bán nợ cho riêng mình, nhưng với nguồn vốn còn eo hẹp, kinh nghiệm và chuyên môn chưa nhiều nên thời điểm hiện tại chưa có khả năng giải quyết hết số nợ xấu nói trên. Đòi hỏi nhà nước, chính phủ phải có phương án thích hợp để giúp các NHTM cũng như nền kinh tế giải quyết dứt điểm số nợ xấu đó, giúp lưu thông nguồn vốn chết để các doanh nghiệp, NHTM có nguồn vốn tái sản xuất, đầu tư phát triển. Việc thông qua Đề án thành lập Công ty Mua bán nợ quốc gia như một cú huých cho nền kinh tế phát triển trong thời điểm nợ xấu chồng chất,thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán đứng im, ảm đạm như hiện nay.

doc53 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2006 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận Văn Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho việt nam Lời mở đầu Tình hình nợ xấu của Việt Nam tính đến tháng 9/2012 do các ngân hàng báo cáo là 4,93%, còn do NHNN công bố là 8,6% tương đương là trên 202 ngàn tỷ đồng . Con số này tuy không quá lớn nếu so sánh với những nước cũng đã từng mắc căn bệnh tương tự như Thái Lan, Hàn Quốc… nhưng là rất đáng lo ngại, nguyên do là vì nợ xấu đã liên tục tăng trong nhiều năm qua. Cùng với bối cảnh bất ổn kinh tế vĩ mô, nhiều vấn đề nội tại của nền kinh tế và bản thân hệ thống ngân hàng được đặt lên bàn mổ xẻ, đây thực sự là một khối u cần phải gỡ bỏ. Riêng về vấn đề giải quyết nợ xấu cũng có nhiều ý kiến trái chiều, nhiều biện pháp có thể triển khai. Điều quan trọng đối với Việt Nam là cần lựa chọn phương án phù hợp với tình hình đất nước và có những xử lý quyết liệt để tránh nợ xấu quay trở lại trong tương lai. Thời điểm hiện tại nước ta cũng đã có một công ty chuyên về mua bán nợ xấu trực thuộc bộ tài chính là Công ty Mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, lấy tên quốc tế là Debt and Asset trading Company hay còn gọi tắt là DATC, với số vốn điều lệ ban đầu là 2000 tỷ đồng được hình thành từ nguồn NSNN và các nguồn hợp pháp khác cấp. DATC chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2004 với con dấu riêng, có tài khoản tại kho bạc NN, tài khoản tại các NHTM trong và ngoài nước, trụ sở chính của công ty tại số 4, ngõ Hàng Chuối 1, phố Hàng Chuối, phường Phạm Đình Hổ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Cùng với đó tại các NHTM hầu như cũng đều đã thành lập các công ty mua bán nợ cho riêng mình, nhưng với nguồn vốn còn eo hẹp, kinh nghiệm và chuyên môn chưa nhiều nên thời điểm hiện tại chưa có khả năng giải quyết hết số nợ xấu nói trên. Đòi hỏi nhà nước, chính phủ phải có phương án thích hợp để giúp các NHTM cũng như nền kinh tế giải quyết dứt điểm số nợ xấu đó, giúp lưu thông nguồn vốn chết để các doanh nghiệp, NHTM có nguồn vốn tái sản xuất, đầu tư phát triển. Việc thông qua Đề án thành lập Công ty Mua bán nợ quốc gia như một cú huých cho nền kinh tế phát triển trong thời điểm nợ xấu chồng chất,thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán đứng im, ảm đạm như hiện nay. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN VÀ XỬ LÝ NỢ TỒN ĐỌNG 1.1. Khái quát về vay nợ của nền kinh tế 1.1.1. Khái niệm vay nợ “Nợ”: là một thuật ngữ thường được sử dụng rộng rãi để chỉ về các khoản phải trả và thường dùng trong trường hợp các khoản nợ về tài sản. Một khoản nợ thường được xác định bởi các yếu tố: chủ nợ, khách nợ, thời hạn thanh toán, lãi suất, giá trị khoản nợ, tài sản thế chấp, tín chấp, … Có nhiều loại nợ nhưng tụ lại thì có 4 kiểu cơ bản: vay nợ, nợ tập đoàn, trái phiếu và giấy hẹn trả tiền. “Vay nợ”: là hoạt động nhằm phát sinh các khoản nợ, được hình thành khi một bên đồng ý cho bên kia vay một khoản hay một lượng tài sản nhất định. Trong xã hội ngày nay thì đi kèm với việc vay nợ thường là khoản đảm bảo khả năng thanh toán hay còn gọi là mức lãi suất tính theo từng thời điểm. Ngoài ra, vay nợ nếu được hiểu theo nghĩa rộng sẽ là người đi vay sử dụng sức mua trước khi kiếm đủ tổng số tiền để trả cho toàn bộ sức mua đó - đây cũng là một trong những chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, công ty hiện nay. 1.1.2. Vai trò của vay nợ Trong kinh doanh, sản xuất, việc sử dụng công cụ vay nợ của doanh nghiệp như được coi là một chính sách quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đó. Vay nợ cũng là một giao dịch phức tạp, trong đó, bên cho vay cung ứng một lượng tiền có giá trị nào đó để đổi lấy nhiều lần trả nợ của bên đi vay theo lịch trình mà hai bên đã thỏa thuận từ trước và có mức lãi suất đi kèm với các khoản vay đó. Thông thường, các ông chủ doanh nghiệp sẽ sử dụng trực tiếp các khoản vay nợ để thực hiện các nghĩa vụ đối với người mua, người bán, hàng tồn kho và trang thiết bị, máy móc của doanh nghiệp hoặc đơn giản chỉ để duy trì một lượng tiền mặt ổn định ở mức an toàn tùy theo tình hình kinh tế. Thêm vào đó, các khoản nợ vay luôn là động lực giúp cho doanh nghiệp tìm kiếm những dự án mới, những chiến lước kinh doanh mới hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo đòn bẩy tài chính vì tương ứng với mỗi khoản vay là một áp lực trả nợ theo hạn rất lớn. Tạo đà phát triển cho doanh nghiệp trong ngắn hạn hoặc dài hạn. 1.1.3. Các hình thức vay nợ Nợ được hình thành khi một bên đồng ý cho bên đi vay được vay một khoản có giá trị nhất định và thường được đảm bảo bởi một mức chi trả nhất định. Các khoản nợ có giá trị lớn thường được đảm bảo bằng các khoản thế chấp hoặc lãi suất chứng khoán của tài sản của bên đi vay, trong đó bên cho vay có thể có một số quyền hạn nhất định đối với tài sản đó khi bên đi vay không có khả năng trả nợ hay vỡ nợ. Một số hình thức vay nợ cơ bản: - Vay nợ cơ bản là hình thức đơn giản nhất của nợ. Nó bao gồm một bản thoả thuận về việc cho vay một lượng tiền trong một khoảng thời gian nhất định và ghi rõ thời hạn hoàn lại số tiền đó. Trong vay thương mại còn có thêm lãi suất. Lãi suất được tính bằng tỷ lệ phần trăm của tổng số tiền cho vay hàng năm. Lãi suất cũng được trả vào ngày theo thoả thuận. - Nợ tập đoàn là khoản nợ được cung cấp cho các công ty muốn vay số tiền nhiều hơn những người cho vay đơn lẻ và chịu rủi ro trong phạm vi vay đơn lẻ đó. Số tiền vay thường có giá trị rất lớn. Trong trường hợp này, mỗi tập đoàn hay ngân hàng có thể đồng ý đưa ra một tỷ lệ lãi suất trên tổng số tiền cho vay. - Trái phiếu là một chứng khoán nợ được phát hành bởi công ty hoặc chính phủ. Người sở hữu trái phiếu sẽ được hoàn trả số tiền mua trái phiếu gốc cộng thêm lãi suất. Trái phiếu được phát hành cho các nhà đầu tư tại thị trường mà tổ chức phát hành muốn vay tiền. Trái phiếu có thời hạn xác định thường là một số năm; có những loại trái phiếu dài hạn trên 30 năm, tuy nhiên loại này không phổ biến. Đến kỳ hạn thanh toán, số tiền mua trái phiếu sẽ được trả đầy đủ cho nhà đầu tư và phần lãi suất. Lãi suất có thể được trả vào cuối kỳ hạn hoặc được trả theo giai đoạn. Trái phiếu có thể được giao dịch trên thị trường trái phiếu. Trái phiếu được các nhà đầu tư coi là một hình thức đầu tư tương đối an toàn hơn cổ phiếu. - Giấy hẹn trả tiền cũng giống như giấy xác nhận khả năng trả nợ trong kế toán, là một bản thoả thuận trong đó nêu rõ sự cam kết của bên vay nợ đối với bên cho vay về nghĩa vụ trả một số tiền nhất định. Nghĩa vụ đó có thể phát sinh thêm khi trả nợ vay hoặc phát sinh từ các hình thức vay nợ khác. Ví dụ, trong kinh doanh, giá mua bán có thể bao gồm giá của những khoản thanh toán ngay và của những khoản hẹn trả sau. Những nội dung trong giấy hẹn trả tiền bao gồm số tiền chính phải thanh toán, lãi suất và ngày hạn trả tiền. Ngoài ra, giấy hẹn trả tiền cũng có thể có những điều khoản quy định về quyền của người cho vay trong trường hợp người vay bị vỡ nợ bao gồm cả việc tịch thu tài sản thế chấp. Đối với các khoản vay cá nhân, giấy hẹn trả nợ thường là bản viết tay có chữ ký của hai bên để thuận lợi cho việc tính thuế và làm chứng từ lưu giữ. 1.1.4. Các chủ thể tham gia vay nợ - Chính phủ: Chính phủ tại mỗi quốc gia với vai trò làm đầu tàu về điều tiết nền kinh tế quốc dân, hoạch định chính sách và nghiên cứu những vấn đề vĩ mô của nền kinh tế. Tùy vào mỗi giai đoạn và tùy vào từng điều kiện của mỗi Chính phủ mà những nhà hoạch định chính sách đưa ra những quyết sách về các khoản nợ của Chính phủ. Chính phủ có thể tham gia vay nợ trên trường quốc tế, có thể là vay của tổ chức, Ngân hàng Thế giới hoặc vay trực tiếp hoặc nhận viện trợ có điều kiện từ một Chính phủ khác. Mặc khác, Chính phủ có thể vay trong chính quốc gia của mình, đó là việc phát hành trái phiếu chính phủ, thường những trái phiếu này có thời gian đáo hạn dài, trái phiếu Chính phủ thường được huy động từ phía tiền nhàn rỗi của người dân. Các khoản vay nợ của Chính phủ hay được gọi bằng nợ công. Tùy vào chính sách và điều kiện mà tỷ lệ vay nợ của Chính phủ cao hay thấp. Chính phủ sẽ sủ dụng những khoản này cho những mục đích an sinh, xã hội, trợ cấp hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng, … - Doanh nghiệp: doanh nghiệp là chủ thể có số lượng lớn nhất trong nền kinh tế có nhu cầu về vốn và vay nợ. Doanh nghiệp khi có nhu cầu về vay vốn có thể vay trong nước hoặc vay nước ngoài. Với các khoản vay nợ nước ngoài, chủ thể doanh nghiệp thường vay từ các tổ chức, Chính phủ, phi Chính phủ hoặc vay viện trợ từ một số quỹ. Doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh có thể vay từ các khoản FDI từ các tổ chức Chính phủ hoặc đơn vị, tổ chức đầu tư trực tiếp vào quốc gia đó, các khoản vay này thì thường được Chính phủ phê duyệt với tỷ lệ nhất định đối với từng doanh nghiệp có nhu cầu. - Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng: ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng thường là chủ thể đứng ra cho vay hoặc làm trung gian tài chính đáp ứng nhu cầu của việc huy động vốn, vay nợ từ phía doanh nghiệp hoặc Chính phủ. Các ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tín dụng thường vay từ ngân hàng trung ương nếu như họ có nhu cầu, hoặc là đầu mối tiếp nhận nguồn vay nợ từ tổ chức quản lý vốn nước ngoài hoặc tổ chức nước ngoài tại nước sở tại, hoặc sẽ tiếp cận nguồn vay từ khoản tiền nhàn rỗi ở khu vực dân cư với mức lãi suất theo quy định không vượt quá mức trần mà Chính phủ quy định. - Người dân: người dân trong một quốc gia khi có nhu cầu về vốn cũng sẽ được tiếp cận để vay tùy vào mục đích sử dụng. Người dân thường thực hiện vay nợ từ các ngân hàng thương mại vì đây là kênh dễ nhất, an toàn và nhanh nhất đối với người dân. Thông thường, nhu cầu vay nợ của người dân thường để đầu tư vào một số lĩnh vực như bất động sản, chứng khoán, góp vốn cổ phần hoặc cũng có thể vay nợ để cho tiêu dùng như trả góp tài sản, cho vay lại với mức lãi suất cao hơn … 1.2. Hoạt động mua, bán và xử lý nợ tồn đọng 1.2.1. Một số khái niệm 1.2.1.1. Nợ tồn đọng “Nợ tồn đọng”: là thuật ngữ được sử dụng để nói về các khoản nợ phải thu, nợ phải trả đã quá hạn thanh toán nhưng chưa thu được hay chưa trả được. Trong giới hạn bài viết, có thể chỉ sử dụng từ “nợ” để chỉ “nợ tồn đọng” tại các công ty, doanh nghiệp. “Chủ nợ”: là các doanh nghiệp hay tổ chức có nợ phải thu. “Khách nợ”: là các doanh nghiệp, tổ chức hay cá nhân có nợ phải trả. 1.2.1.2. Hoạt động mua, bán nợ tồn đọng “Hoạt động mua, bán nợ tồn đọng”: là việc chủ nợ có các khoản nợ tồn đọng phải thu bán lại cho công ty mua, bán nợ. Lúc này, công ty mua, bán nợ (được thành lập để mua bán và xử lý nợ tồn đọng cho doanh nghiệp) sẽ trở thành chủ nợ mới của khách nợ. Có hai loại mua, bán nợ tồn đọng chính là mua, bán nợ tồn đọng theo chỉ định và mua, bán nợ tồn đọng theo thỏa thuận. “Mua, bán nợ tồn đọng theo chỉ định”: là việc mua, bán nợ tồn đọng theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở đề nghị của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. “Mua, bán nợ tồn đọng theo thỏa thuận”: là hình thức mà bên bán là các chủ nợ hoặc bên mua là các nhà đầu tư tiềm năng khác và công ty mua, bán nợ liên hệ, giao dịch trực tiếp để tìm hiểu nhu cầu và năng lực để ký hợp đồng mua bán khoản nợ theo cơ chế thị trường "thuận mua vừa bán", trong đó giá cả được hai bên thống nhất trên cơ sở thoả thuận trực tiếp hoặc thông qua các hình thức khác như đấu thầu, đấu giá ... “Phương án mua nợ”: là phương án do công ty mua, bán nợ xây dựng để mua một hoặc một số khoản nợ phải thu của một hoặc một số chủ nợ. 1.2.1.3. Hoạt động xử lý nợ tồn đọng “Hoạt động xử lý nợ tồn đọng”: là những hoạt động thực hiện nghĩa vụ với những khoản nợ tồn đọng như tổ chức đòi nợ trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức khác cung cấp dịch vụ đòi nợ hợp pháp tại Việt Nam, bán lại các khoản nợ tồn đọng đã mua với các hình thức thỏa thuận, chào giá hoặc tổ chức đấu giá công khai hoặc có thể cho thuê, đầu tư, tổ chức sản xuất kinh doanh, liên doanh khai thác tài sản … 1.2.2. Sự cần thiết phải mua, bán và xử lý nợ tồn đọng Trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh, các doanh nghiệp không thể tránh khỏi việc phát sinh các khoản nợ hoặc sử dụng nợ là một trong những chiến lược phát triển của một số ông chủ doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể là chủ thể vay nợ hoặc cũng có thể là chủ thể cho vay các đối tượng như Chính phủ, các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp khác, người lao động ... Việc thanh toán đúng thời hạn các khoản nợ là một yêu cầu rất cần thiết nhưng trên thực tế, do những yếu tố chủ quan và khách quan, có những khoản nợ không được thanh toán đúng thời điểm, hoặc trả chậm, hoặc không thể có khả năng thanh toán, điều đó làm phát sinh những khoản nợ đọng và nó sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của nền kinh tế và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp dù là cho vay hay là đi vay. Nợ tồn đọng nhiều khả năng sẽ gây mất khả năng thanh toán của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, hoạt động mua, bán và xử lý nợ tồn đọng được thực hiện để xử lý dứt điểm các khoản nợ và tài sản tồn đọng, kém phẩm chất, … góp phần làm lành mạnh hóa tình hình TCDN, thúc đẩy sắp xếp và chuyển đổi hay cổ phần hóa doanh nghiệp, củng cố được tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có nợ tồn đọng và sẽ giúp cho tình hình kinh tế tăng trưởng, xã hội phát triển. 1.2.3. Mục đích mua, bán và xử lý nợ tồn đọng Đối với doanh nghiệp, hoạt động mua, bán nợ được sử dụng để giải quyết các vấn đề về tài chính còn tồn đọng như mua lại các khoản nợ bằng các biện pháp thương lượng trực tiếp, đấu giá hoặc theo chỉ định, sau đó, các công ty đứng ra nhận trách nhiệm mua bán nợ có trách nhiệm với các khoản nợ tồn đọng này thay cho doanh nghiệp khách nợ có nhu cầu, qua đó, giảm bớt những khó khăn và hạn chế cho doanh nghiệp này, đặc biệt với những khoản nợ đến hạn và doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa, tái cấu trúc, chuyển đổi hình thức đang gặp những khó khăn về vốn. Sau khi mua lại các khoản nợ tồn đọng, việc quan trọng nhất tiếp theo đó là xử lý các khoản nợ tồn đọng này. Với vai trò quan trọng là giảm bớt gánh nặng, rủi ro cho các khoản nợ tồn đọng của doanh nghiệp thì các khoản nợ tồn đọng sẽ được xem xét, giải quyết và xử lý bằng nhiều hình thức, qua đó, đã lành mạnh hóa được tình hình tài chính của các công ty hay doanh nghiệp khách nợ. Nhìn chung, hoạt động mua bán và xử lý nợ tồn đọng đóng góp một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nó không chỉ là một hình thức hợp pháp nhằm xử lý, hợp lý hóa các khoản nợ tồn đọng, mà còn góp phần giải quyết những tồn tại về tài chính của công ty nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa, sắp xếp, giao, bán hay cho thuê. Ngoài ra, nghiệp vụ này góp phần tạo định hướng cho việc phát sinh một số hoạt động trung gian tài chính, đẩy nhanh tiến trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, thị trường vốn, thị trường tài sản … tạo thêm các công cụ hợp lý để xử lý những khó khăn có ảnh hưởng đến hệ thống tài chính của một quốc gia nói chung hoặc từng doanh nghiệp trong nền kinh tế nói riêng. 1.2.4. Quy trình mua, bán và xử lý nợ tồn đọng 1.2.4.1. Quy trình mua, bán nợ tồn đọng Mua nợ và bán nợ là hai hoạt động quan trọng nhất của mỗi công ty mua bán nợ vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và chi phí của công ty. Hiện nay, có 2 hình thức chính trong hoạt động mua, bán nợ tồn đọng, đó là mua, bán nợ tồn đọng theo thỏa thuận và mua, bán nợ tồn đọng theo chỉ định. a. Mua, bán nợ tồn đọng theo thỏa thuận Mua, bán nợ tồn đọng theo thỏa thuận là việc mua, bán nợ được thực hiện dựa trên hợp đồng ký kết giữa hai bên là công ty nhận trách nhiệm mua, bán nợ và bên chủ nợ có nhu cầu giải quyết khoản nợ. Trước hết, các công ty mua, bán nợ và các chủ nợ có nợ tồn đọng chủ động tiếp cận để tìm hiểu nhu cầu mua, bán nợ của các bên, sau đó, khi hình thành nhu cầu, chủ nợ sẽ trực tiếp cung cấp cho công ty nhận trách nhiệm mua, bán nợ tồn đọng các tài liệu liên quan đến các khoản nợ tồn đọng này. Vì việc trao đổi, mua, bán nợ được thực hiện trực tiếp giữa hai bên cho nên công tác kiểm tra, thẩm định, định giá các khoản nợ rất quan trọng đối với công ty nhận trách nhiệm mua, bán nợ vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và chi phí của công ty, nếu giá mua cao quá sẽ khiến cho chi phí mua lại khoản nợ này cao hay ngược lại giá bán thấp sẽ làm giảm doanh thu của công ty mua, bán nợ gây thất thoát về tài chính cho những công ty này. b. Mua, bán nợ tồn đọng theo chỉ định Hoạt động mua, bán nợ tồn đọng theo chỉ định tức là việc công ty mua, bán nợ sẽ mua, bán các khoản nợ tồn đọng theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ, trong hoạt động này, công ty chịu trách nhiệm mua, bán nợ sẽ không phải chịu những rủi ro mà khoản nợ này mang lại, tức là sẽ chịu ít rủi ro hơn từ các khoản nợ trong hoạt động mua, bán nợ tồn đọng theo thỏa thuận mang lại, ngoài ra sẽ được nhận một khoản phí tùy theo các khoản nợ tồn đọng được chỉ định mua. Các đối tượng thường được xem xét bán các khoản nợ tồn đọng theo chỉ định là các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa khi phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp không đủ để xử lý lỗ lũy kế và nợ không có khả năng thu hồi, các doanh nghiệp Nhà nước cần giữ lại là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước theo đề án sắp xếp, đổi mới được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhưng bị thua lỗ và không có khả năng thanh toán nợ do thực hiện các quyết định của cơ quan có thẩm quyền, thay đổi cơ chế, chính sách tác động trực tiếp đến doanh nghiệp hoặc một số nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch bệnh. 1.2.4.2. Quy trình xử lý nợ tồn đọng a. Quy trình xử lý nợ tồn đọng theo thỏa thuận Khi hợp đồng mua, bán nợ có hiệu lực, công ty mua, bán nợ coi các khoản nợ như loại hàng hóa đặc biệt, qua đó lập ra các phương án để xử lý các khoản nợ đã được mua về.Thông thường, các hình thức xử lý nợ tồn đọng thường là: xử lý nợ thông qua hình thức xử lý tồn tại tài chính và tái cơ cấu doanh nghiệp gắn hoặc không gắn với chuyển nợ thành vốn góp (sau đây sẽ gọi tắt là xử lý nợ gắn với tái cơ cấu doanh nghiệp), chuyển nhượng tài sản đảm bảo để thanh toán nợ do khách nợ tự thực hiện hoặc phối hợp cùng công ty mua, bán nợ, bán nợ thông qua đấu giá hoặc thỏa thuận, thu nợ theo phương án thỏa thuận với khách nợ, thu hồi nợ có chiết khấu, hoán đổi nợ lấy tài sản, thỏa thuận để khách nợ hoán đổi nghĩa vụ trả nợ cho bên thứ ba, chuyển nợ thành vốn góp cổ phần, chứng khoán hóa khoản nợ, cơ cấu lại giá trị và thời gian trả nợ, kể cả việc ân hạn nợ gốc và lãi, khởi kiện ra Tòa án để áp dụng các biện pháp tố tụng thu hồi nợ. Ở bài viết sẽ nêu rõ quy trình xử lý nợ theo 4 hình thức xử lý chủ yếu được sử dụng trong thời gian hiện nay. * Quy trình xử lý nợ tồn đọng bằng hình thức thanh toán nợ nhờ chuyển nhượng tài sản đảm bảo của khoản nợ Quy trình được thực hiện từ việc công ty mua, bán nợ lập hồ sơ về phương án xử lý để trình Tổng giám đốc duyệt, trong đó có cả đề xuất về giá của tài sản đảm bảo và hiệu quả của việc thực hiện phương án bán tài sản đảm bảo để thanh toán khoản nợ. Sau khi hồ sơ về phương án xử lý được duyệt, công ty sẽ tổ chức thực hiện phương án chuyển nhượng tài sản như đã đề ra. Tài sản đảm bảo có thể được thực hiện chuyển nhượng bằng hình thức thỏa thuận trực tiếp hoặc đấu giá công khai tùy theo hiệu quả của phương án đề xuất đã được Tổng Giám đốc duyệt. Số tiền thu được từ việc bán tài sản đảm bảo sẽ dùng để chi trả cho khoản nợ tồn đọng này và các chi phí liên quan khác trong quá trình bán tài sản đảm bảo. * Quy trình xử lý nợ tồn đọng bằng hình thức bán nợ Quy trình được thực hiện cũng bằng việc lập hồ sơ phương án xử lý nợ tồn đọng để trình Tổng giám đốc xét duyệt, trong đó cũng cần có đề xuất về giá bán khoản nợ tồn đọng đó cùng với hiệu quả của việc thực hiện phương án. Sau khi phương án được duyệt, công ty sẽ thực hiện việc bán nợ theo phương án đã đề ra ở trên. Khoản nợ tồn đọng có thể được bán theo hình thức đấu giá, chào giá cạnh tranh hoặc thỏa thuận trực tiếp tùy theo hiệu quả của phương án được duyệt. Số tiền thu được từ việc bán các khoản nợ sẽ được thanh toán cho khoản nợ tồn đọng và các chi phí thực hiện liên quan khác trong quá trình bán nợ tồn đọng. * Quy trình xử lý nợ tồn đọng gắn với tái cơ cấu doanh nghiệp Sau khi công ty mua, bán nợ thực hiện việc phân loại doanh nghiệp thành 3 loại: DN
Luận văn liên quan