Luận văn Thực trạng hủy bỏ hợp đồng BHNT tại Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội- nguyên nhân và giải pháp khắc phục

Sau hơn 1 năm kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO ngày 07/11/2006, Việt Nam đã ngày càng đạt được những vị thế lớn trên trường quốc tế với việc trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008- 2009 ngày 16/10/2007. Cùng với việc tổ chức thành công hàng loạt những sự kiện quan trọng của đất nước, Việt Nam càng khẳng định được những bước phát triển mạnh mẽ của mình trên tất cả các lĩnh vực, trong đó phải kể đến sự đóng góp của thị trường tài chính- bảo hiểm, đặc biệt là thị trường bảo hiểm nhân thọ. Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam ra đời và phát triển cho đến nay đã được hơn 11 năm, từ chỗ chỉ có Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, cho đến nay thị trường bảo hiểm nhân thọ đã phát triển sôi động và hấp dẫn rất nhiều công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài vào đầu tư và kinh doanh. Từ đó, đã tạo nên môi trường cạnh tranh gay gắt hơn bao giờ hết. Để tồn tại và phát triển, đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm phải không ngừng chuyển mình, đổi mới, hoàn thiện và hiện đại hóa công tác khai thác cũng như quản lý, duy trì hợp đồng. Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội cũng không nằm ngoài xu thế chung đó.Với lợi thế là công ty BHNT đầu tiên hoạt động trên thị trường Việt Nam, Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển chung của thị trường, đặc biệt là thị trường bảo hiểm thủ đô. Bên cạnh đó, BVNT Hà Nội còn luôn là lá cờ đầu trong toàn bộ hệ thống của Bảo Việt Nhân Thọ, là địa chỉ tin cậy, lá chắn tài chính vững chắc cho hàng trăm nghìn khách hàng. Môi trường cạnh tranh đã đặt ra đối với BVNT Hà Nội không ít những khó khăn và thách thức nhưng đồng thời cũng tạo nên những động lực mạnh mẽ giúp BVNT Hà Nội không ngừng đưa ra những chiến lược, định hướng kinh doanh đúng đắn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Để đảm bảo được kết quả và hiệu quả kinh doanh, giữ vững thị phần trong điều kiện cạnh tranh, BVNT Hà Nội không chỉ quan tâm, chú trọng đến công tác khai thác mà công ty còn ý thức được tầm quan trọng của công tác duy trì hợp đồng, hạn chế hủy bỏ hợp đồng. Bởi cạnh tranh giữa các công ty BHNT cũng như sự phát triển rầm rộ của các sản phẩm dịch vụ có tính chất tương đồng BHNT như ngân hàng, chứng khoán, bất động sản…cho phép khách hàng có nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn hình thức đầu tư, từ đó dẫn đến việc khách hàng hủy bỏ hợp đồng BHNT tại công ty để tham gia các kênh đầu tư khác gây thiệt hại không nhỏ cho chính khách hàng cũng như công ty và đại lý. Xuất phát từ thực tế này, sau một thời gian nghiên cứu, thực tập tại BVNT Hà Nội, với vốn kiến thức đã học và những tích lũy qua quá trình tìm hiểu thực tế tại công ty, cùng sự giúp đỡ của các anh chị phòng Dịch vụ khách hàng- BVNT Hà Nội, em đã quyết định chọn đề tài: “Thực trạng hủy bỏ hợp đồng BHNT tại Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội- nguyên nhân và giải pháp khắc phục” làm Luận văn tốt nghiệp.

doc106 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 3195 | Lượt tải: 7download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng hủy bỏ hợp đồng BHNT tại Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội- nguyên nhân và giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ VẤN ĐỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ 3 I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ 3 1.1. Sự ra đời và phát triển của Bảo hiểm nhân thọ 3 1.2. Những đặc trưng của Bảo hiểm nhân thọ 8 1.2.1. BHNT là loại hình bảo hiểm duy nhất có thể chi trả cho dù có rủi ro hay không có rủi ro xảy ra – vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro. 8 1.2.2. BHNT đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm. 9 1.2.3. Các loại hợp đồng trong BHNT thường rất đa dạng và phức tạp. 10 1.2.4. Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, vì vậy quá trình định phí khá phức tạp. 10 1.2.5. BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định. 11 1.3. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ. 12 1.4. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ. 14 1.4.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong. 15 1.4.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống. 17 1.4.3. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp. 17 1.4.4. Các điều khoản bảo hiểm bổ sung. 18 II. HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ 18 2.1. Khái niệm. 18 2.2. Một số khái niệm và những điểm cần lưu‎ ‎ý khi ký kết hợp đồng BHNT. 19 2.3. Tính chất của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. 21 2.4. Thiết lập, thực hiện và chấm dứt hợp đồng. 22 2.4.1. Thiết lập hợp đồng. 22 2.4.2. Thực hiện hợp đồng. 23 2.4.3 Chấm dứt hợp đồng. 25 III.VẤN ĐỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ 25 3.1. Khái niệm về huỷ bỏ hợp đồng. 25 3.2. Nguyên nhân huỷ bỏ HĐBH nhân thọ. 26 3.2.1 Nguyên nhân chủ quan 26 3.2.2 Nguyên nhân khách quan 31 3.3. Hậu quả của việc huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. 34 3.3.1. Đối với khách hàng. 34 3.3.2. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. 36 3.3.3. Đối với đại lý bảo hiểm 37 3.3.4. Đối với thị trường bảo hiểm nhân thọ và nền kinh tế. 38 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HỦY BỎ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ TẠI BVNT HÀ NỘI. 39 I.VÀI NÉT VỀ BẢO VIỆT NHÂN THỌ HÀ NỘI. 39 1.1.Quá trình hình thành và phát triển. 39 1.2. Cơ cấu tổ chức. 41 1.3. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của BVNT Hà Nội 45 1.3.1. Thuận lợi 45 1.3.2. Khó khăn. 47 1.4. Các sản phẩm đang triển khai tại công ty 49 1.5. Đánh giá chung về hoạt động kinh doanh của Bảo Việt Nhân Thọ Hà nội giai đoạn 2003-2007. 50 II. QUI ĐỊNH VỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG BHNT TẠI BẢO VIỆT NHÂN THỌ HÀ NỘI 56 2.1. Quy định của pháp luật về huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. 56 2.2. Qui định của BVNT Hà Nội về hủy bỏ hợp đồng BHNT. 58 III. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH VỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG BHNT TẠI BVNT HÀ NỘI. 61 3.1. Tình hình chung về hủy bỏ hợp đồng tại BVNT Hà nội. 62 3.2. Hủy bỏ hợp đồng theo thời gian 64 3.3. Hủy bỏ hợp đồng theo sản phẩm 67 IV. NGUYÊN NHÂN HỦY BỎ HỢP ĐỒNG TẠI BVNT HÀ NỘI. 69 4.1. Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp 69 4.2. Nguyên nhân từ phía đại lí. 74 4.3. Nguyên nhân từ phía khách hàng. 77 4.4. Nguyên nhân khác. 79 V. CÁC BIỆN PHÁP HẠN CHẾ KHÁCH HÀNG HỦY BỎ HỢP ĐỒNG ĐÃ VÀ ĐANG SỬ DỤNG 81 5.1. Hoàn thiện sản phẩm và thiết kế sản phẩm mới. 81 5.2. Công tác đào tạo và hỗ trợ đại lí 82 5.3. Công tác chăm sóc khách hàng. 85 5.4. Cho vay phí tự động- cơ chế hữu hiệu đảm bảo quyền lợi của khách hàng. 86 5.5. Cho vay theo hợp đồng. 86 5.6. Dừng nộp phí và duy trì hợp đồng với số tiền bảo hiểm giảm. 87 5.7. Giảm số tiền bảo hiểm. 88 5.8. Khôi phục hiệu lực của hợp đồng,thực hiện các thay đổi liên quan đến hợp đồng 88 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG BHNT TẠI BẢO VIỆT NHÂN THỌ HÀ NỘI. 89 I. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA BVNT HÀ NỘI NĂM 2008. 89 1.1. Mục tiêu 89 1.2. Phương hướng hoạt động. 89 II. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG TẠI BVNT HÀ NỘI. 92 2.1. Các giải pháp từ phía BVNT Hà Nội 92 2.1.1. Hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm bảo hiểm nhân thọ . 92 2.1.2. Nâng cao chất lượng đại lý 92 2.1.3. Đa dạng hoá kênh phân phối và phương thức nộp phí bảo hiểm 93 2.1.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng cáo, hoạt động marketing 94 2.1.5. Thành lập một bộ phận Duy trì hợp đồng. 94 2.1.6.Hoàn thiện các chính sách có liên quan đến quyền lợi của đại lý 95 2.1.7. Nâng cao chất lượng đánh giá rủi ro ban đầu. 96 2.2.Kiến nghị đối với cơ quan quản lý Nhà nước 96 KẾT LUẬN 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BHNT: Bảo hiểm nhân thọ BHTM: Bảo hiểm thương mại BHCN: Bảo hiểm con người HĐBH: Hợp đồng bảo hiểm STBH: Số tiền bảo hiểm DNBH: Doanh nghiệp bảo hiểm GTGU: Giá trị giải ước BVNT: Bảo Việt Nhân Thọ HĐ: Hợp đồng HĐKTM: Hợp đồng khai thác mới PĐTKTM: Phí đầu tiên khai thác mới TVV: Tư vấn viên KDBH: Kinh doanh bảo hiểm HDĐL: Hợp đồng đại lý. DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU Trang Biểu: Doanh thu phí BHNT toàn thị trường 2001- 2007 8 Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức của Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội 42 Bảng 1: Tỷ trọng doanh thu phí BHNT/GDP của Việt nam ( 2001- 2006) 13 Bảng 2: Bản miêu tả quyền lợi bảo hiểm theo hợp đồng An Gia Phát Lộc (A27P/2007) 35 Bảng 3: Kết quả kinh doanh của BVNT Hà Nội (2003-2007) .51 Bảng 4: Tổng số đại lý và tư vấn viên tuyển mới của BVNT Hà nội ( 2003-2007) 53 Bảng 5:Tình hình chi trả quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng của BVNT Hà nội (2003-2007) 54 Bảng 6: Hiệu quả kinh doanh của BVNT Hà Nội(2005-2007) 55 Bảng 7: Tình hình hủy hợp đồng tại BVNT Hà Nội (2005-2007) 62 Bảng 8: Tình hình hủy bỏ hợp đồng theo thời gian tại BVNT Hà Nội(2005-2007) 64 Bảng 9 :Tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng theo sản phẩm tại Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội (2005 - 2007) 67 Bảng 10: Hệ số xếp loại đại lý theo tháng 73 Bảng 11: Tỷ lệ hợp đồng bị hủy bỏ do nợ phí quá hạn 77 Bảng 12: Tỷ lệ hoa hồng 1 số sản phẩm của công ty BHNT Prudential 79 Bảng 13: Thưởng trợ cấp chuyên nghiệp quý của Prudential 79 Bảng 14: Lãi suất tiền gửi tiết kiệm( nhận lãi cuối kỳ)của một số NH tháng 4 năm 2008 80 LỜI MỞ ĐẦU Sau hơn 1 năm kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO ngày 07/11/2006, Việt Nam đã ngày càng đạt được những vị thế lớn trên trường quốc tế với việc trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008- 2009 ngày 16/10/2007. Cùng với việc tổ chức thành công hàng loạt những sự kiện quan trọng của đất nước, Việt Nam càng khẳng định được những bước phát triển mạnh mẽ của mình trên tất cả các lĩnh vực, trong đó phải kể đến sự đóng góp của thị trường tài chính- bảo hiểm, đặc biệt là thị trường bảo hiểm nhân thọ. Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam ra đời và phát triển cho đến nay đã được hơn 11 năm, từ chỗ chỉ có Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, cho đến nay thị trường bảo hiểm nhân thọ đã phát triển sôi động và hấp dẫn rất nhiều công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài vào đầu tư và kinh doanh. Từ đó, đã tạo nên môi trường cạnh tranh gay gắt hơn bao giờ hết. Để tồn tại và phát triển, đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm phải không ngừng chuyển mình, đổi mới, hoàn thiện và hiện đại hóa công tác khai thác cũng như quản lý, duy trì hợp đồng. Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội cũng không nằm ngoài xu thế chung đó.Với lợi thế là công ty BHNT đầu tiên hoạt động trên thị trường Việt Nam, Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển chung của thị trường, đặc biệt là thị trường bảo hiểm thủ đô. Bên cạnh đó, BVNT Hà Nội còn luôn là lá cờ đầu trong toàn bộ hệ thống của Bảo Việt Nhân Thọ, là địa chỉ tin cậy, lá chắn tài chính vững chắc cho hàng trăm nghìn khách hàng. Môi trường cạnh tranh đã đặt ra đối với BVNT Hà Nội không ít những khó khăn và thách thức nhưng đồng thời cũng tạo nên những động lực mạnh mẽ giúp BVNT Hà Nội không ngừng đưa ra những chiến lược, định hướng kinh doanh đúng đắn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Để đảm bảo được kết quả và hiệu quả kinh doanh, giữ vững thị phần trong điều kiện cạnh tranh, BVNT Hà Nội không chỉ quan tâm, chú trọng đến công tác khai thác mà công ty còn ý thức được tầm quan trọng của công tác duy trì hợp đồng, hạn chế hủy bỏ hợp đồng. Bởi cạnh tranh giữa các công ty BHNT cũng như sự phát triển rầm rộ của các sản phẩm dịch vụ có tính chất tương đồng BHNT như ngân hàng, chứng khoán, bất động sản…cho phép khách hàng có nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn hình thức đầu tư, từ đó dẫn đến việc khách hàng hủy bỏ hợp đồng BHNT tại công ty để tham gia các kênh đầu tư khác gây thiệt hại không nhỏ cho chính khách hàng cũng như công ty và đại lý. Xuất phát từ thực tế này, sau một thời gian nghiên cứu, thực tập tại BVNT Hà Nội, với vốn kiến thức đã học và những tích lũy qua quá trình tìm hiểu thực tế tại công ty, cùng sự giúp đỡ của các anh chị phòng Dịch vụ khách hàng- BVNT Hà Nội, em đã quyết định chọn đề tài: “Thực trạng hủy bỏ hợp đồng BHNT tại Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội- nguyên nhân và giải pháp khắc phục” làm Luận văn tốt nghiệp. Trong Luận văn, em đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật biện chứng đi từ lý luận đến thực tiễn, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, so sánh, liên hệ, phân tích tổng hợp… Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của Luận văn gồm 3 chương: Chương I: Bảo hiểm nhân thọ và vấn đề hủy bỏ hợp đồng trong kinh doanh BHNT. Chương II: Thực trạng hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tại BVNT Hà Nội. Chương III: Giải pháp hạn chế hủy bỏ hợp đồng tại BảoViệt Nhân Thọ Hà Nội CHƯƠNG I: BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ VẤN ĐỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ 1.1. Sự ra đời và phát triển của Bảo hiểm nhân thọ Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả của rủi ro gây ra như: phòng tránh, cứu trợ, tiết kiệm…nhưng một trong những biện pháp mà các nhà quản lý rủi ro cho là có hiệu quả nhất, đó chính là Bảo hiểm. Cho đến nay, chưa có một khái niệm nào nói lên được đầy đủ bản chất của Bảo hiểm bởi vì lĩnh vực bảo hiểm rất rộng, `ngoài bảo hiểm thương mại còn có bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp. Tuy nhiên có thể nghiên cứu bảo hiểm dưới một số góc độ sau đây: Đứng trên góc độ tài chính: " Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những chi phí mất mát không mong đợi". Khái niệm này xuất phát từ nước Pháp. Đứng trên góc độ pháp lý: Ở Đức, họ định nghĩa: " Bảo hiểm là sự cam kết giữa hai bên mà trong đó một bên đồng ý bồi thường hoặc chi trả cho bên kia nếu bên kia đóng phí bảo hiểm". Đứng trên góc độ kỹ thuật: “Bảo hiểm là phương pháp lập quỹ dự trự bằng tiền do những người có cùng khả năng gặp một loại rủi ro nào đó đóng góp tạo nên”. Định nghĩa này chỉ mới đề cập đến phương pháp lập quỹ dự trữ bảo hiểm, mà chưa nêu rõ được phương thức sử dụng nó. “Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường( theo quy luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong từng trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc người thứ ba”. Điều này có nghĩa là người tham gia bảo hiểm chuyển rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia gặp rủi ro dẫn đến tổn thất thì người bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo hiểm là những rủi ro mà người tham gia đăng ký với người bảo hiểm. Đây được coi là định nghĩa mang tính chung nhất của bảo hiểm. BHNT là một loại hình bảo hiểm thuộc BHCN trong BHTM. Vì vậy, BHNT cũng mang đầy đủ những tính chất của bảo hiểm nói chung. BHNT là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia( hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra( trong trường hợp người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định), còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm cho các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người. Cùng với các loại hình BHTM khác như bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm hỏa hoạn thì BHNT là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm nhất. Trên thế giới, theo truyền thống có từ xa xưa thì khi một người chẳng may qua đời, những người thân, hàng xóm thường đứng ra quyên góp tiền của để trợ giúp gia đình người đó vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Tuy nhiên, gia đình có người không may qua đời có thể vẫn gặp khó khăn nếu số tiền quyên góp được không đủ để trang trải các chi phí phát sinh. Trước nhu cầu đó, bảo hiểm nhân thọ ra đời như một phương thức hiệu quả cung cấp tài chính khi một người không may gặp rủi ro liên quan đến bản thân và gia đình. BHNT xuất hiện ở đế quốc La Mã cổ đại cách đây khoảng 4500 năm. Tại đây, đã có những hoạt động sơ khai, mang tính chất của bảo hiểm nhân thọ. Người ta lập nên các hội mai táng để lo chi phí tang ma cho các thành viên, ngoài ra hội cũng hỗ trợ tài chính cho thân nhân người chết. Khoảng năm 450 sau Công Nguyên, đế quốc La Mã sụp đổ dẫn đến việc hầu hết các khái niệm của bảo hiểm nhân thọ bị lãng quên. Tuy nhiên các mặt, tính chất của nó thì vẫn không hề thay đổi trong suốt thời Trung Cổ, nhất là đối với các phường hội thủ công và thương nghiệp. Các phường hội này đã lập nên nhiều hình thức bảo hiểm thành viên để bù đắp thiệt hại các vụ hỏa hoạn, lũ lụt, trộm cướp; ngoài ra còn có bảo hiểm thương tật, tử vong và thậm chí là bảo hiểm tù ngục( bảo hiểm cho trường hợp người mua bảo hiểm phải vào tù). Trong suốt thời phong kiến, các ngành dịch vụ và mậu dịch ngày càng suy yếu và không còn thịnh vượng như trước. Do vậy, các hình thức bảo hiểm sơ khai cũng bị mai một dần. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16 các ngành giao thông, thương nghiệp và cả dịch vụ bảo hiểm đã phát triển trở lại. Dịch vụ bảo hiểm ở Ấn Độ bắt nguồn từ bộ kinh Veda của nước này. Vào khoảng năm 1000 trước Công Nguyên, hình thức “ bảo hiểm cộng đồng” ở nước này đã phát triển rất thịnh hành và người Aryan khi đó cũng đã tham gia rất nhiều vào hình thức bảo hiểm này. Cũng giống như đế quốc La Mã cổ đại, trong giai đoạn truyền bá đạo Phật, người Ấn Độ đã lập nên nhiều hội mai táng để hỗ trợ cho các gia đình xây cất nhà cửa đồng thời che chở, đùm bọc các góa phụ và trẻ nhỏ. Hợp đồng BHNT đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1583, do công dân Luân Đôn là ông William Gybbon tham gia. Phí bảo hiểm ông phải đóng lúc đó là 32 bảng Anh, khi ông chết trong năm đó, người thừa kế của ông được hưởng 400 bảng Anh. Sau Cách Mạng Ánh Sáng năm 1688, ở Châu Âu chỉ có duy nhất Vương Quốc Anh công nhận tính pháp lý của bảo hiểm nhân thọ. Nhờ vậy mà trong suốt 3 thập kỷ sau Cách Mạng Ánh Sáng, ở Anh dịch vụ này đã phát triển rất mạnh mẽ. Năm 1735, công ty bảo hiểm đầu tiên của Hoa Kỳ đã ra đời ở Charleston, thủ phủ bang South Carolina. Vào năm 1759, tập đoàn bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Hoa Kỳ ra đời ở Philadelphia cũng là công ty BHNT ra đời đầu tiên trên thế giới. Công ty này đến nay vẫn còn hoạt động, nhưng lúc đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình. 3 năm sau đó, năm 1762 công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable ở nước Anh được thành lập và bán bảo hiểm nhân thọ cho mọi người dân. Ở châu Á, các công ty BHNT đầu tiên ra đời ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, 2 công ty khác là Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến ngày nay. Có thể nói, hiện nay trên thế giới, BHNT là loại hình bảo hiểm phát triển nhất.Đơn cử, năm 1985 doanh thu phí BHNT mới chỉ đạt 630,5 tỷ USD thì năm 1989 đã lên tới 1210,2 tỷ và năm 1993 con số này là 1647 tỷ, chiếm gần 48% tổng phí bảo hiểm. Hiện nay, có 5 thị trường BHNT lớn nhất thế giới là: Mỹ, Nhật Bản, CHLB Đức, Anh và Pháp. Tại Việt Nam, trước năm 1945, ở miền Bắc những người làm việc cho Pháp đã được tham gia BHNT và thời đó có một số gia đình đã được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Các hợp đồng này đều do các công ty bảo hiểm của Pháp cung cấp. Vào những năm 1970, ở miền Nam, công ty bảo hiểm nhân thọ Hưng Việt đã triển khai một số sản phẩm như bảo hiểm nhân thọ trọn đời, bảo hiểm tử kỳ thời hạn 5 năm, 10 năm, 20 năm. Tuy nhiên, công ty này chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn khoảng gần 2 năm, do đó hầu hết người dân lúc đó chưa biết đến bảo hiểm nhân thọ. Khi nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước đã tạo ra nhiều cơ hội cho nền kinh tế. Chính sách mở cửa vào năm 1987 đã tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm Việt Nam được học hỏi và tiếp cận với những kỹ thuật bảo hiểm mới trên thế giới. Từ kinh nghiệm các nước, Bảo Việt lúc đó vẫn là công ty bảo hiểm duy nhất ở Việt Nam, đã thấy được tiềm năng to lớn của bảo hiểm nhân thọ ở nước ta. Vì vậy, Bảo Việt đã tiến hành nghiên cứu đề tài cấp bộ: “ Lý thuyết về bảo hiểm nhân thọ và sự ứng dụng vào thực tế ở Việt Nam”. Trong đề tài này, những lý thuyết cơ bản của ngành bảo hiểm nhân thọ trên thế giới đã được các nhà nghiên cứu tổng hợp, đồng thời họ phân tích các điều kiện triển khai bảo hiểm nhân thọ tại Việt nam trong tình hình kinh tế- xã hội những năm cuối của thập kỷ 80. Tuy nhiên, trong thời gian này hầu như các điều kiện cần thiết để triển khai BHNT tại Việt nam còn hạn chế như thu nhập dân cư còn thấp, kinh tế còn kém phát triển, tỷ lệ lạm phát còn cao, thị trường tài chính chưa phát triển, chưa có môi trường đầu tư và các công ty bảo hiểm chưa được phép hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, chưa có văn bản pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm và khách hàng, đội ngũ cán bộ bảo hiểm lúc đó chưa được trang bị những kiến thức về nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Do đó, ý nghĩa thực tế của đề tài này chỉ dừng lại ở việc triển khai “Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn 1 năm”. Đây là loại hình bảo hiểm nhân thọ đơn giản nhất và có nhiều đặc điểm tương đồng với bảo hiểm con người phi nhân thọ. Vì vậy, sản phẩm này ít có tính hấp dẫn đối với người dân. Sau thời kỳ đổi mới kinh tế được 10 năm, nền kinh tế Việt nam đã có những bước phát triển vượt bậc: lạm phát đã được đẩy lùi, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt mức cao, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao và ở một bộ phận quần chúng nhân dân đã bắt đầu có tích lũy, môi trường kinh tế- xã hội và môi trường pháp lý có nhiều thuận lợi hơn. Ngày 20/03/1996 Bộ trưởng Bộ tài chính đã ban hành Quyết định số 281/TC/TCNH cho phép Bảo Việt triển khai thí điểm bảo hiểm nhân thọ. Ngày 22/06/1996, công ty bảo hiểm nhân thọ của Bảo Việt được thành lập nhằm phục vụ nhu cầu về bảo hiểm nhân thọ cho mọi tầng lớp nhân dân. Ngày 01/08/1996 lần đầu tiên người dân Việt nam được nghe đến BHNT qua hai sản phẩm: “Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm, 10 năm” và “Chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành”.Từ đây, Bảo Việt chính thức mở đầu cho sự ra đời của lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ ở nước ta. Tháng 8 năm 1997, Bảo Việt thành lập Công ty bảo hiểm nhân thọ Miền Nam. Cho đến thời điểm này, Công ty bảo hiểm nhân thọ Hà Nội( được đổi tên từ Công ty bảo hiểm Nhân Thọ) và Công ty bảo hiểm nhân thọ Miền nam là hai doanh nghiệp duy nhất hoạt động trên thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam Năm 1998, Bảo Việt thành lập phòng bảo hiểm nhân thọ tại tất cả các công ty thành viên của Bảo Việt ở các địa phương khác trong cả nước. Năm 1999, bắt đầu có thêm một số công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài và công ty liên doanh gia nhập thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam. Năm 2000 và năm 2001, Bảo Việt tiếp tục thành lập thêm 59 công ty bảo hiểm nhân thọ thành viên tại các địa phương khác trong cả nước, nâng tổng số công ty thành viên của Bảo Việt lên tới 61 đơn vị. Bắt đầu từ đây, Bảo Việt đã có mạng lưới bảo hiểm nhân thọ phủ khắp toàn quốc, đảm bảo phục vụ nhanh chóng, thuận tiện tất các nhu cầu bảo hiểm nhân thọ của mọi tầng lớp nhân dân ở mọi miền, vùng trong cả nước. Cùng với sự
Luận văn liên quan