rong xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, du lịch đang
phát triển không ngừng. Đối với Việt Nam, du lịch không chỉ tạo ra nguồn thu rất lớn cho
nền kinh tế quốc dân mà còn góp phần đưa bạn bè quốc tế đến với nước ta, tạo ra mối quan
hệ toàn cầu về kinh tế, văn hoá và thúc đẩy việc quảng bá sâu rộng hình ảnh Việt Nam đến
các quốc gia trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, du lịch Dak Lak cũng đang có những bước khởi sắc. Với đặc điểm
địa lí của một vùng đất cao nguyên, quy tụ rất nhiều các dân tộc và tài nguyên du lịch đa
dạng, Dak Lak được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến như một điểm du lịch hấp
dẫn. Tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động du lịch chưa xứng đáng với tiềm năng vốn có, môi
trường tự nhiên đang bị xuống cấp, bản sắc văn hóa của các dân tộc phần nào bị mai một.
Đó là vấn đề bức xúc đang đặt ra cho ngành du lịch địa phương. Tài nguyên du lịch của Dak
Lak là những gì, ngành du lịch của Dak Lak đang phát triển như thế nào, có thể phát triển
theo xu hướng bền vững hay không và chúng ta phải làm gì để du lịch Dak Lak phát triển
bền vững? Đề tài “Tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo
hướng bền vững” sẽ trả lời các câu hỏi đó
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 94 trang
94 trang | 
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 4496 | Lượt tải: 7 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo hướng bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH 
Mai Thị Thùy Dung 
TIỀM NĂNG, THỰC TRẠNG VÀ 
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH 
TỈNH DAK LAK THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
Chuyên ngành: Địa lý học 
Mã số: 60 31 95 
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC 
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 
PGS.TS. NGUYỄN KIM HỒNG 
Thành phố Hồ Chí Minh - 2007 
LỜI CẢM ƠN 
 Em xin được bày tỏ lòng kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn khoa 
học PGS.TS Nguyễn Kim Hồng - Phó Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ 
Chí Minh đã nhiệt tình hướng dẫn em trong thời gian thực hiện đề tài. 
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, phòng Khoa học Công nghệ và sau 
đại học, khoa Địa lý trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện 
thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn. 
Xin chân thành cảm ơn Tỉnh uỷ, UBND, Sở Thương mại – Du lịch, Sở Văn hoá thông 
tin, Cục thống kê, Sở Khoa học công nghệ và môi trường tỉnh Dak Lak đã cung cấp cho em 
nhiều nguồn tư liệu, tài liệu hữu ích phục vụ cho đề tài. 
 Xin cảm ơn sự động viên, hỗ trợ rất lớn từ gia đình, bạn bè trong suốt khoá học và 
quá trình thực hiện luận văn. 
 Xin nhận nơi em lòng biết ơn sâu sắc. 
 Tác giả luận văn 
 Mai Thị Thùy Dung 
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 
 DLBV : Du lịch bền vững 
 GDP : Tổng sản phẩm trong nước 
 IUCN : Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế 
TP. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh 
TP. BMT : Thành phố Buôn Ma Thuột 
 UBND : Uỷ ban nhân dân 
UNEP : Chương trình môi trường Liên hợp quốc 
UNCED : Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển 
UNESCO : Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên hợp quốc 
WTO : Tổ chức du lịch thế giới 
WTTC : Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế 
WWF : Quỹ bảo tồn động vật hoang dã thế giới 
DANH MỤC CÁC BẢNG 
 trang 
1. Bảng biểu 
Bảng 2.1. Cơ cấu GDP theo ngành của tỉnh Dak Lak 64 
Bảng 2.2. Đóng góp của du lịch Dak Lak vào ngân sách nhà nước 71 
Bảng 2.3. Các dự án du lịch trên địa bàn tỉnh Dak Lak 81 
2. Biểu đồ 
Hình 2.1. Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế tỉnh Dak Lak 65 
Hình 2.2. Lượt du khách quốc tế đến Dak Lak 67 
Hình 2.3. Lượt du khách trong nước đến Dak Lak 68 
Hình 2.4. Tổng lượt khách đến Dak Lak 69 
Hình 2.5. Tăng trưởng doanh thu của du lịch Dak Lak 70 
3. Bản đồ 
Bản đồ hành chính Dak Lak 29 
Bản đồ du lịch Dak Lak 89 
Bản đồ các tuyến du lịch Dak Lak 97 
 4. Hình ảnh 114 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Trong xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, du lịch đang 
phát triển không ngừng. Đối với Việt Nam, du lịch không chỉ tạo ra nguồn thu rất lớn cho 
nền kinh tế quốc dân mà còn góp phần đưa bạn bè quốc tế đến với nước ta, tạo ra mối quan 
hệ toàn cầu về kinh tế, văn hoá và thúc đẩy việc quảng bá sâu rộng hình ảnh Việt Nam đến 
các quốc gia trên thế giới. 
Trong bối cảnh đó, du lịch Dak Lak cũng đang có những bước khởi sắc. Với đặc điểm 
địa lí của một vùng đất cao nguyên, quy tụ rất nhiều các dân tộc và tài nguyên du lịch đa 
dạng, Dak Lak được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến như một điểm du lịch hấp 
dẫn. Tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động du lịch chưa xứng đáng với tiềm năng vốn có, môi 
trường tự nhiên đang bị xuống cấp, bản sắc văn hóa của các dân tộc phần nào bị mai một. 
Đó là vấn đề bức xúc đang đặt ra cho ngành du lịch địa phương. Tài nguyên du lịch của Dak 
Lak là những gì, ngành du lịch của Dak Lak đang phát triển như thế nào, có thể phát triển 
theo xu hướng bền vững hay không và chúng ta phải làm gì để du lịch Dak Lak phát triển 
bền vững? Đề tài “Tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo 
hướng bền vững” sẽ trả lời các câu hỏi đó. 
2. Mục đích nghiên cứu 
Nghiên cứu tiềm năng, thực trạng và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững cho 
ngành du lịch đang còn non trẻ của tỉnh Dak Lak. Đây là nguồn kiến thức, thông tin tham 
khảo bổ ích để ngành du lịch tỉnh Dak Lak điều chỉnh các hoạt động du lịch, nhằm thỏa mãn 
nhu cầu đa dạng của du khách, mang lại hiệu quả kinh tế cao, nâng cao mức sống cộng đồng 
địa phương, bảo vệ môi trường và đảm bảo sự phát triển theo hướng bền vững. 
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 
- Thu thập và hệ thống các thông tin về du lịch Dak Lak. 
- Khảo sát, đánh giá tài nguyên du lịch và thực trạng phát triển du lịch tỉnh Dak Lak 
trên quan điểm phát triển bền vững. 
 - Đề ra giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo hướng bền vững. 
4. Phạm vi nghiên cứu 
Đề tài nghiên cứu vấn đề du lịch trên địa bàn tỉnh Dak Lak trong thời gian từ năm 1996 
đến năm 2005. Phân tích tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch của tỉnh Dak Lak trên 
quan điểm bền vững và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch theo hướng bền vững. 
Đồng thời có tham khảo hoạt động du lịch của Thái Lan, Trung Quốc và xu hướng du lịch 
bền vững của thế giới. Luận văn không nghiên cứu hết các nội dung liên quan đến phát triển 
bền vững, cũng như không đi sâu vào các lĩnh vực chuyên ngành như kiến trúc, sinh học, 
dân tộc học, môi trường, marketing. 
5. Lịch sử nghiên cứu 
5.1.Trên thế giới 
Hơn 842 triệu người du lịch ra nước ngoài năm 2005, hơn 76,7 triệu việc làm được tạo 
ra từ du lịch, doanh thu của du lịch chiếm 10,3 % GDP cả thế giới. Du lịch đang là hiện 
tượng toàn cầu. Lợi nhuận khổng lồ thu được từ du lịch đã khiến cho nhiều tài nguyên thiên 
nhiên bị khai thác quá mức, môi trường bị ô nhiễm, và nền kinh tế - xã hội của các lãnh thổ 
đón khách bị ảnh hưởng một cách tiêu cực. Một chiến lược du lịch tôn trọng môi trường và 
quan tâm đến khả năng đáp ứng các nhu cầu trong tương lai đang được nhiều nhà nghiên 
cứu quan tâm. 
Từ khi cụm từ “phát triển bền vững” ra đời ở Đức vào năm 1980, nhiều nghiên cứu 
khoa học đã được tiến hành nhằm phân tích những tác động của du lịch đến sự phát triển 
bền vững, sự cần thiết phải bảo vệ tính toàn vẹn của môi trường sinh thái trong khi khai thác 
du lịch. Chuyên gia du lịch người Thuỵ Sĩ Jos Krippendorf (1975) và Jungk (1980) là những 
nhà khoa học đầu tiên trên thế giới cảnh báo về những suy thoái do hoạt động du lịch gây ra 
và đưa ra khái niệm về du lịch rắn (hard tourism) - loại hình du lịch ồ ạt, bằng xe hơi, gây 
ảnh hưởng nhiều nhất đối với môi trường và du lịch mềm (soft toursim/gentle tourism) - loại 
hình du lịch ít gây ảnh hưởng nhất đến môi trường và có chia sẻ lợi ích kinh tế với cộng 
đồng địa phương [13]. 
Năm 1992, trong Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất đã diễn ra Hội nghị về môi trường 
và phát triển của Liên hợp quốc, 182 Chính phủ đã thông qua chương trình Nghị sự 21 
nhằm đảm bảo một tương lai bền vững cho nhân loại bước vào thế kỉ XXI. Chương trình 
Nghị sự đã nêu lên các vấn đề liên quan đến môi trường và phát triển, đề ra chiến lược 
hướng tới các hoạt động mang tính bền vững hơn. 
Về du lịch bền vững, từ những năm 1990, nhiều nghiên cứu về phát triển du lịch bền 
vững đã được tiến hành. Một số loại hình du lịch mới ra đời, nhấn mạnh khía cạnh môi 
trường như du lịch sinh thái, du lịch gắn với thiên nhiên, du lịch thay thế hay du lịch khám 
phá nhằm tuyên truyền, nâng cao ý thức của cộng đồng về hoạt động du lịch có trách nhiệm, 
đảm bảo sự phát triển bền vững. 
Năm 1996, “chương trình Nghị sự 21 về du lịch: Hướng tới phát triển bền vững về môi 
trường” đã được Hội đồng Lữ hành du lịch thế giới, Tổ chức du lịch thế giới và Hội đồng 
Trái đất xây dựng, nhằm nhấn mạnh sự cần thiết phối hợp hành động giữa các Chính phủ, tổ 
chức phi Chính phủ và ngành du lịch trong việc xây dựng chiến lược du lịch và nêu bật 
những lợi ích to lớn của việc phát triển du lịch bền vững. 
Các nhà Địa lý học bắt đầu quan tâm đến lĩnh vực du lịch từ những năm 30 (Mc 
Murray 1930; Jones 1935; Selke 1936) và đặc biệt là sau chiến tranh thế giới thứ II. Nhiều 
nhà Địa lý học người Mỹ, Anh, Canađa đã tiến hành các nghiên cứu về du lịch ở góc độ địa 
lý như Gilbert (1949), Wolfe (1951), Coppock (1977). Về sau, khi du lịch ngày càng phát 
triển và cụm từ du lịch bền vững được nhắc đến nhiều hơn thì những nghiên cứu của các 
nhà địa lý học về du lịch cũng đã tăng lên rất nhiều, bởi khó có thể tìm thấy một khía cạnh 
của du lịch mà không dính dáng đến địa lý và rất ít các ngành của địa lý mà không có ít 
nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu hiện tượng du lịch. 
5.2. Việt Nam 
Cùng với sự phát triển của ngành du lịch, các nghiên cứu về du lịch ở nước ta cũng 
ngày một nhiều hơn. Có thể điểm qua một số công trình như: Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt 
Nam, Quy hoạch tổng thể du lịch Việt Nam 1995 - 2000, Quy hoạch tổng thể du lịch Việt 
Nam đến năm 2010, Cơ sở Địa lý du lịch, Địa lý du lịch, Tổng quan du lịch, nghiên cứu cả 
lý luận và thực tiễn, ở những quy mô và phạm vi khác nhau. Tất cả đều phục vụ cho du lịch 
và cũng cho thấy sự quan tâm sâu sắc đến môi trường, đến khía cạnh bền vững trong du lịch 
Việt Nam. 
Năm 1997, Tổng cục du lịch Việt Nam kết hợp với Quỹ Hanns Seiden (Đức) tổ chức 
Hội thảo về Phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam tại Huế, sau đó các hội thảo khác về du 
lịch bền vững cũng được tổ chức như Hội thảo về du lịch sinh thái với phát triển bền vững ở 
Việt Nam tại Hà Nội năm 1998, Hội thảo về Nâng cao nhận thức và năng lực phát triển du 
lịch bền vững trong thời đại toàn cầu hoá tại Hà Nội năm 2006 thu hút nhiều nghiên cứu, 
đóng góp của các nhà khoa học, các cán bộ du lịch trong và ngoài nước tham gia. 
Các hội thảo và các công trình nghiên cứu đều hướng đến sự phát triển bền vững cho 
ngành du lịch Việt Nam, bằng nhiều cách khác nhau. Đó là dấu hiệu tốt cho định hướng 
chiến lược phát triển du lịch của nước ta trong thời gian tới. Tuy nhiên, có thể thấy rằng 
ngành du lịch Việt Nam đang còn non trẻ và những đóng góp của các nhà khoa học về du 
lịch bền vững vẫn đang là bước khởi đầu và du lịch bền vững chưa thực sự đi vào thực tiễn 
ở nhiều địa phương. 
Du lịch bền vững đã được Tỉnh uỷ, UBND và Sở Thương mại - Du lịch Dak Lak đánh 
giá cao, tuy vậy, tỉnh hiện chưa có nghiên cứu nào về du lịch bền vững. Vì vậy, luận văn 
này có thể là sự đóng góp đầu tiên cho du lịch bền vững của tỉnh Dak Lak. 
6. Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu 
6.1. Các quan điểm 
6.1.1. Quan điểm hệ thống tổng hợp 
Hệ thống lãnh thổ du lịch là một hệ thống mở, gồm các thành phần tự nhiên, kinh tế, 
xã hội, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và chịu sự chi phối của nhiều quy luật cơ bản. 
Nghiên cứu du lịch không thể tách rời hệ thống kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước. 
Quan điểm hệ thống giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể, khái quát của toàn bộ hệ thống du 
lịch trong khi vẫn bao quát được hoạt động của mỗi phân hệ trong hệ thống đó. Du lịch Dak 
Lak cần được nghiên cứu trong mối quan hệ tương hỗ: kinh tế - xã hội - môi trường không 
chỉ riêng Dak Lak mà của cả nước. Quan điểm này được áp dụng trong suốt quá trình thực 
hiện luận văn. 
6.1.2. Quan điểm lịch sử, viễn cảnh 
Mọi sự vật, hiện tượng đều có quá trình phát sinh, vận động và biến đổi. Quá trình ấy 
có thể bắt đầu từ trong quá khứ, hiện tại vẫn tiếp diễn và kéo dài đến tương lai. Đứng trên 
quan điểm lịch sử, phân tích nguồn gốc phát sinh, đánh giá đúng đắn hiện tại sẽ là cơ sở để 
đưa ra các dự báo xác thực về xu hướng phát triển trong thời gian sắp tới. Quan điểm này 
được vận dụng trong khi phân tích các giai đoạn chủ yếu của quá trình phát triển hệ thống 
du lịch và dự báo xu hướng phát triển của hệ thống lãnh thổ. 
6.1.3. Quan điểm lãnh thổ 
Lãnh thổ du lịch được tổ chức như là một hệ thống liên kết không gian của các đối 
tượng du lịch trên cơ sở các nguồn tài nguyên và dịch vụ cho du lịch. Việc nghiên cứu du 
lịch bền vững của tỉnh Dak Lak không thể tách rời với hiện trạng và xu hướng du lịch của 
Việt Nam. Quá trình phát triển du lịch bền vững của tỉnh Dak Lak là một phần trong quá 
trình phát triển du lịch bền vững của Tây Nguyên và của cả nước. 
6.1.4. Quan điểm sinh thái 
Phát triển du lịch phải gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái. Quan điểm sinh thái 
cho thấy sự cần thiết phải bảo vệ tính toàn vẹn của hệ sinh thái, đánh giá tác động của du 
lịch đến môi trường và khả năng chịu đựng của môi trường trước sự phát triển của kinh tế 
nói chung, du lịch nói riêng. 
6.1.5. Quan điểm du lịch bền vững 
Mục tiêu của du lịch bền vững là bảo vệ tài nguyên và môi trường, tăng cường bảo tồn 
và chia sẻ lợi ích cho cộng đồng, đảm bảo sự phát triển kinh tế một cách bền vững. Kết hợp 
hài hoà nhu cầu của hiện tại và tương lai trên cả hai góc độ sản xuất và tiêu dùng du lịch 
nhằm đạt đến sự cân bằng giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường. Luận văn quán triệt 
quan điểm này trong suốt quá trình đánh giá tiềm năng, phân tích hiện trạng và đề xuất giải 
pháp. 
6.2. Phương pháp nghiên cứu 
6.2.1. Thu thập, xử lí thông tin 
Thu thập những tài liệu có liên quan ở các nguồn tin cậy, sắp xếp và xử lí tài liệu một 
cách có hệ thống, phân tích từng nội dung đưa ra những kết luận đúng đắn nhất. 
6.2.2. Phân tích, tổng hợp, so sánh 
Thông tin, số liệu sau khi thu thập sẽ được so sánh, phân tích, tổng hợp cho phù hợp 
với mục đích của từng phần. Quá trình tổng hợp sẽ có được cái nhìn bao quát về du lịch Dak 
Lak. Qua phân tích, các thông tin được chắt lọc với độ tin cậy và mang lại hiệu quả cao 
nhất. 
6.2.3. Thực địa 
Đây là phương pháp không thể thiếu nhằm tích luỹ tài liệu thực tế về sự hình thành, 
phát triển và đặc điểm của tổ chức lãnh thổ du lịch. Trong quá trình thực hiện luận văn, 
phương pháp này rất được coi trọng vì nó phản ánh thực tiễn khách quan của đề tài mà luận 
văn nghiên cứu. 
6.2.4. Khai thác phần mềm hệ thống thông tin 
Các thông tin, số liệu và dự báo trong luận văn được xử lý bởi phần mềm MS Word, 
Excel, AutoCad, Mapinfo để thể hiện các phân tích, đánh giá, so sánh và xu hướng du lịch 
của tỉnh Dak Lak. 
6.2.5. Bản đồ, biểu đồ 
Đây là phương pháp đặc trưng của địa lý. Sử dụng các bản đồ, biểu đồ làm tăng tính 
trực quan của đề tài, không chỉ cho biết đặc điểm, phân bố, mạng lưới mà còn thể hiện một 
số kết quả của công trình nghiên cứu. 
6.2.6. Phương pháp thống kê 
Sau khi thu thập thông tin, số liệu, tiến hành thống kê, sắp xếp chúng lại cho phù hợp 
với cấu trúc của đề tài, trình tự thời gian và lập ra các bảng biểu về quá trình phát triển kinh 
tế - xã hội của tỉnh cũng như ngành du lịch Dak Lak. 
7. Cấu trúc luận văn 
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của 
luận văn được trình bày qua 3 chương: 
Chương 1. Cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững. 
Chương 2. Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo hướng bền vững. 
Chương 3. Định hướng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Daklak theo hướng bền vững. 
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN 
DU LỊCH BỀN VỮNG 
1.1. Quan niệm về du lịch bền vững 
1.1.1. Quan niệm về du lịch 
Ở mỗi thời đại, quan niệm về du lịch có sự thay đổi bắt đầu ngay từ thời kì đồ đá, khi 
mà con người phải “đi” vì lí do sinh tồn trước cái đói và sự sợ hãi. 
Đến thời kì cường thịnh của đế quốc La Mã, các chuyến du ngoạn bằng ngựa đã mang 
mục đích tiêu khiển của tầng lớp thống trị. Khi tàu hoả ra đời vào thế kỉ XIX, nó tạo động 
lực cho du lịch phát triển hơn. Rồi lần lượt đến tàu thuỷ, ô tô, máy bay, chúng ngày càng 
làm cho du lịch gắn bó mật thiết với con người. 
Năm 1925, Hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch được thành lập tại Hà Lan, đánh dấu 
bước ngoặt trong việc thay đổi, phát triển các khái niệm về du lịch. Đầu tiên, du lịch được 
hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong 
khoảng thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh. 
Năm 1985, I.I.Pirogionic đưa ra khái niệm: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư 
trong thời gian rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường 
xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận 
thức – văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn 
hoá”. 
Ở Việt Nam, theo luật du lịch ban hành từ tháng 6 thăm 2005 và có hiệu lực từ ngày 1 
tháng 1 năm 2006: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người 
ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải 
trí, nghỉ dưỡng trong khoảng thời gian nhất định”. 
WTO định nghĩa: “ Du lịch theo nghĩa hành động được định nghĩa là một hoạt động di 
chuyển vì mục đích giải trí, tiêu khiển và tổ chức các dịch vụ xung quanh hoạt động này. 
Người đi du lịch là người đi ra khỏi nơi mình cư trú một quãng đường tối thiểu là 80 km 
trong khoảng thời gian hơn 24 giờ với mục đích giải trí tiêu khiển”. 
Còn nhiều quan niệm khác về du lịch. Trong luận văn này, tôi sử dụng định nghĩa về du 
lịch do Tổng cục du lịch Việt Nam ban hành trong luật Du lịch năm 2005. 
1.1.2. Quan niệm về du lịch bền vững 
Cụm từ “ phát triển bền vững” có nguồn gốc từ thực tiễn quản lí rừng ở Đức vào thế kỉ 
XIX, nhưng mãi đến thập kỉ 80 của thế kỉ XX mới được phổ biến rộng rãi. 
Năm 1980, IUCN cho rằng “phát triển bền vững” phải cân nhắc đến hiện tượng khai 
thác đến các nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo, đến các điều kiện thuận lợi cũng như 
khó khăn trong việc tổ chức các kế hoạch hành động ngắn hạn và dài hạn đan xen nhau. 
Đến năm 1987, Uỷ ban môi trường và phát triển thế giới WCED do bà GroHarlem 
Brundtland thành lập đã công bố thuật ngữ “phát triển bền vững” trong báo cáo “ tương lai 
của chúng ta” như sau: “ Phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển có thể đáp ứng được 
những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu 
của các thế hệ mai sau” [5]. 
Theo Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất năm 1992, được tổ chức ở Rio - de - Janeiro, 
“phát triển bền vững được hình thành trong sự hoà nhập, xen cài và thoả hiệp giữa ba hệ 
thống là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ xã hội”. 
Ngày nay, tất cả các quốc gia đều đề cập đến “phát triển bền vững” trong quá trình 
hoạch định chính sách và quản lí phát triển kinh tế, với ý muốn nhấn mạnh phương thức và 
việc sử dụng có trách nhiệm các nguồn lực của sự phát triển. 
Xu thế phát triển du lịch thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang đứng trước sự 
bắt buộc phải sử dụng có trách nhiệm các nguồn lực của mình, đặc biệt là tài nguyên du lịch 
tự nhiên và nhân văn. 
Khái niệm phát triển du lịch bền vững xuất hiện khoảng 10 năm trở lại đây, trên cơ sở 
cải thiện và nâng cấp khái niệm du lịch mềm (soft tourism), được nhiều quốc gia và hiệp hội 
du lịch lớn trên thế giới ủng hộ. Tuy nhiên, một khái niệm “du lịch bền vững” hoàn chỉnh 
được tất cả mọi người sử dụng đến nay vẫn chưa có. 
Năm 1992, WTO định nghĩa: “Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du 
lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và người dân bản địa trong khi vẫn 
quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển hoạt động du 
lịch trong tương lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản lí các nguồn tài nguyên nhằm 
thoả mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mĩ của con người trong khi đó vẫn duy trì 
được sự toàn vẹn về văn hoá, đa dạng sinh học, sự phát triển của các hệ sinh thái và các hệ 
thống hỗ trợ cho cuộc sống của con người”. 
Năm 1996, WTTC đưa ra khái niệm: “Du lịch bền vững là sự đáp ứng nhu cầu hiện tại 
của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du 
lịch mai sau”. 
Du lịch bền vững đòi hỏi các cấp và đơn vị kinh doanh du lịch quản lí tất cả các dạng 
tài nguyên du lịch theo một cách nào đó để một mặt đáp ứng được các nhu cầu kinh tế, xã 
hội và thẩm mỹ, mặt khác vẫn duy trì được bản sắc văn hoá, các quá trình sinh thái cơ bản, 
sự đa dạng sinh học và các hệ sinh thái đảm bảo sự sống (theo Hens L. 1998). 
Đối với Việt Nam, “phát triển bền vững” được thể hiện trong chỉ thị 36/CT của Bộ 
chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 25/06/1998: Mục tiêu và các qua