Luận văn Ý thức về nghề của các nhà văn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945

Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có một diện mạo mới mẻ, đầy khởi sắc. Sinh hoạt văn học trở nên sôi động, hào hứng đặc biệt so với các thời kỳ trước. Trong khoảng mười lăm năm, với sự xuất hiện của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và phong trào Thơ Mới, văn học nước nhà đã phát triển mạnh, có chất lượng cao. Thành tựu gặt hái được của văn học mười lăm năm ấy thật là to lớn trên mọi trào lưu, mọi thể loại. Mười lăm năm, văn học Việt Nam đã bước hết chặng đường dài hàng thế kỷ. Nguyên nhân và động lực nào đã thúc đẩy văn học phát triển mạnh như thế ? Có thể kể đến nhiều nguyên nhân, nhưng không thể không nói đến một động lực nội tại: sự trưởng thành trong ý thức về nghề cũng như về cá tính sáng tạo của nhà văn. Đó cũng là lý do lựa chọn đề tài: “Ý thức về nghề của các nhà văn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 (qua một số tuyên ngôn nghệ thuật và sáng tác tiêu biểu)” của tác giả luận văn

pdf167 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1780 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ý thức về nghề của các nhà văn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Thanh Hằng Ý THỨC VỀ NGHỀ CỦA CÁC NHÀ VĂN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 – 1945 (QUA MỘT SỐ TUYÊN NGÔN NGHỆ THUẬT VÀ SÁNG TÁC TIÊU BIỂU) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THÀNH THI Thành phố Hồ Chí Minh - 2006 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của Ban Giám Hiệu Trường ĐHSPTPHCM, Phòng KHCN – SĐH, tập thể Thầy, Cô khoa Ngữ Văn. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thành Thi, người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện luận văn. Cảm ơn gia đình và bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ vật chất cũng như làm chỗ dựa tinh thần trong suốt thời gian tôi học tập và thực hiện luận văn. Xin chân thành cảm ơn! LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là một công trình nghiên cứu độc lập, những trích dẫn được nêu trong luận văn đều là chính xác và trung thực. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có một diện mạo mới mẻ, đầy khởi sắc. Sinh hoạt văn học trở nên sôi động, hào hứng đặc biệt so với các thời kỳ trước. Trong khoảng mười lăm năm, với sự xuất hiện của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và phong trào Thơ Mới, văn học nước nhà đã phát triển mạnh, có chất lượng cao. Thành tựu gặt hái được của văn học mười lăm năm ấy thật là to lớn trên mọi trào lưu, mọi thể loại. Mười lăm năm, văn học Việt Nam đã bước hết chặng đường dài hàng thế kỷ. Nguyên nhân và động lực nào đã thúc đẩy văn học phát triển mạnh như thế ? Có thể kể đến nhiều nguyên nhân, nhưng không thể không nói đến một động lực nội tại: sự trưởng thành trong ý thức về nghề cũng như về cá tính sáng tạo của nhà văn. Đó cũng là lý do lựa chọn đề tài: “Ý thức về nghề của các nhà văn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 (qua một số tuyên ngôn nghệ thuật và sáng tác tiêu biểu)” của tác giả luận văn. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Thực tế cho thấy, những tác phẩm được tuyển chọn thuộc văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 chiếm một số lượng không nhỏ trong chương trình phổ thông trung học. Là một giáo viên dạy Văn rất tâm huyết với nghề, tôi không những khao khát chiếm lĩnh được một cách đầy đủ, trọn vẹn toàn bộ kiến thức văn học giai đoạn này để truyền thụ tốt cho học sinh, mà còn muốn thông qua việc tìm hiểu những tuyên ngôn nghệ thuật và các sáng tác tiêu biểu của một số nhà văn lúc bấy giờ nhằm: 1. Thấy được sáng tạo văn chương nghệ thuật là một nghề lao động nghiêm túc đòi hỏi nhà văn phải có ý thức, trách nhiệm cao. 2. Thấy được vai trò quan trọng của ý thức về nghề của các nhà văn để có thể lý giải nhiều thành tựu vượt bậc cũng như sự đa dạng, phong phú và phức tạp của văn học thời kỳ 1930 – 1945. 3. Làm sáng tỏ những đóng góp tích cực, quý báu của các nhà văn giai đoạn này đối với quá trình hiện đại hóa văn học cùng sự phát triển của nền văn học nước ta, từ đó, giúp độc giả có sự hiểu biết sâu sắc hơn về họ. 3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 phát triển mạnh mẽ, phong phú và đa dạng. Tình hình nghiên cứu bộ phận văn học này, ở hầu hết mọi khía cạnh, cũng diễn ra rất sôi nổi. Nhưng nhìn chung, chưa có công trình nào đề cập đầy đủ và có hệ thống đến vấn đề ý thức về nghề của các nhà văn. 3.1. Trước Cách mạng tháng Tám Ngay từ khi mới ra đời, Tự Lực Văn Đoàn và phong trào Thơ Mới đã gây ra nhiều cuộc tranh luận gay gắt, quyết liệt trong giới nghiên cứu, phê bình mà nổi bật nhất, quan trọng nhất chính là cuộc tranh luận giữa hai khuynh hướng “Nghệ thuật vị nghệ thuật” và “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, những vấn đề lý luận văn học được thảo luận một cách khá thấu đáo qua cuộc tranh luận này. Kéo dài từ năm 1935 đến năm 1939, cuộc tranh luận đã thu hút một số người cầm bút tham gia và có tác động rõ rệt đối với đời sống văn học lúc bấy giờ, đồng thời góp phần hình thành nền móng cho giai đoạn kế tiếp. Các nhà phê bình văn học thuộc hai xu hướng đối lập này đã đưa ra nhiều quan niệm trái ngược nhau về văn chương cũng như ý thức về nghề văn. Trong khi các nhà phê bình thuộc khuynh hướng “Nghệ thuật vị nghệ thuật” nhận định về nhiệm vụ của văn chương: “Văn chương chỉ cần có một chủ nghĩa là kiếm và phô bày cái đẹp” (Thiếu Sơn, 80, tr.112), “Một tác phẩm đẹp tức là đã có ích cho người xem rồi” (Hoài Thanh, 143, tr.149) thì các nhà phê bình theo khuynh hướng “Nghệ thuật vị nhân sinh” cho là: “Văn chương phải mô tả sự sống để đánh dấu nó trên con đường phát triển vô cùng tận, qua các biến thiên của các thế kỷ (). Văn chương phải là khí cụ phát biểu và lưu hành tư tưởng, tình cảm mạnh và đẹp. Văn chương, phải có tinh thần tranh đấu và lý tưởng” (Trương Tửu, 143, tr. 420 – 423). Hay khi đề cập đến chức vụ của nhà văn, nếu quan điểm của các nhà phê bình thuộc khuynh hướng “Nghệ thuật vị nghệ thuật” là: “Người nào muốn sống với văn chương, trước hết phải biết giải phóng cho linh hồn, phải thoát ly được với hết thảy những thành kiến về luân lý, về xã hội, về chính trị, về tôn giáo và chỉ biết có nghệ thuật mà thôi” (Thiếu Sơn, 80, tr.112), “Nhà văn Việt Nam chỉ có một cái tôn chỉ để phụng sự: làm cho tiếng Việt Nam thêm rõ ràng, thêm có khuôn phép, thêm phong phú và thêm “nhất trí”” (Lê Tràng Kiều, 143, tr.359) thì ý kiến thống nhất của các nhà phê bình thuộc khuynh hướng “Nghệ thuật vị nhân sinh” lại đối lập hoàn toàn. Họ viết: “Trong các công trình phá hoại và kiến thiết vinh quang nhất của xã hội loài người, bao giờ nhà văn cũng đứng mạnh dạn vào hàng ngũ tiên phong. Bao giờ nhà văn cũng vui vẻ, hăng hái giữ nhiệm vụ tên lính cảm tử phất cao ngọn cờ tranh đấu, dắt xã hội chạy tìm những chân trời mới và đẹp trên con đường gay go của hạnh phúc” (Trương Tửu, 143, tr. 422), “Chúng tôi biết rằng nhà văn có một cái thiên chức trọng đại: đánh thức quần chúng và kích thích tranh đấu, ... bao giờ nghệ thuật cũng là một cái lợi khí tranh đấu ... Nhà văn của các giai cấp nghèo phải sống cuộc đời của người nghèo khổ” (Cao Văn Chánh, 143, tr.478). Thế nhưng, cho đến khi cuộc tranh luận trên kết thúc, vẫn không có nhà phê bình nào trực tiếp đề cập đến vấn đề ý thức về nghề của các nhà văn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Năm 1942, tác giả của Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh – Hoài Chân đã bày tỏ quan điểm, nhận định của mình về phong trào Thơ Mới. Tuy nhiên, trên cơ sở tổng kết phong trào Thơ Mới, cùng với việc chọn lọc và nêu ra những giá trị tích cực của nó, hai ông chỉ dừng lại ở chỗ phát hiện ra những phong cách tiêu biểu, độc đáo của mỗi thi nhân, vấn đề lao động nghệ thuật vẫn chưa được bàn luận. Góp vào diễn đàn tranh luận về văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, với công trình “Nhà văn hiện đại” (hai tập), nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã điểm qua 79 nhà văn, nhà thơ tiêu biểu của giai đoạn này. Sau khi phân tích những đặc trưng nổi trội của các “thi gia”, các “tiểu thuyết gia” để bạn đọc biết qua về “sự tiến hóa của văn học hiện đại” (111, tr.6), ông khẳng định: “Văn chương cũng chẳng khác nào các loài động vật, thực vật, văn chương cũng chịu chung một luật tiến hóa như muôn loài, các loại văn nẩy nở, tự cấu tạo, chịu sự đào thải, biến đổi sinh sinh hóa hóa như vạn vật” (111, tr. 1167 – 1168). Theo đó, Vũ Ngọc Phan vẫn chưa nhìn nhận vấn đề lao động nghệ thuật của nhà văn. Ông cho là quá trình phát triển ấy tất yếu phải diễn ra, do sự vận động nội tại của văn chương, mà chưa hề chú ý đến vai trò quan trọng của ý thức về nghề của các nhà văn. Đến năm 1944, Đặng Thai Mai, người được tiếp xúc với lý luận Mác – Lê Nin sớm, có lập trường vững, yêu mến văn học và có một nền học vấn căn bản, đã cho ra đời cuốn Văn học khái luận. Đây là tác phẩm lý luận văn học đầu tiên trình bày quan điểm văn học mác xít có hệ thống. Khi bàn về vấn đề sáng tác, ông viết: “Ý thức rõ rệt về tính cách biến thiên của xã hội là nguyên lý sáng tác của văn nghệ Nếu khối óc của nhà văn không có những luồng sóng bất bình, nếu như tâm hồn kẻ cầm bút không cảm thấy những nỗi đau đớn thiếu thốn của kiếp người, những điều mong mỏi thiết tha của thời đại, nếu không lĩnh hội được tính cách luôn luôn biến thiên của thế giới, của nhân sinh, nếu như đối với hiện tại, với tương lai không có một yêu cầu, một hy vọng tin tưởng gì, thì cái văn mơn trớn béo tốt như đẫy thịt, trơn như tảng trán hói của nhà trưởng giả, cũng chỉ là một “văn chơi” mà thôi, chả có ý nghĩa gì là văn học ! .. Nhận rõ sứ mạng lịch sử của nghệ thuật, cũng là nhận rõ hàng ngũ nhà văn trong xã hội. Cũng vì muốn đạt được mục đích “phụng sự” đó mà nhà văn phải đào luyện nhân cách trong công tác hàng ngày, trong đời sống công cộng. Nếu không có một mối “thông cảm” sâu xa, rộng rãi đối với đồng loại, nếu không có lý trí thanh sở và ý chí vững bền, thì cũng không thể có một nghệ thuật thích nghi với thời đại, bổ ích cho xã hội. Nhìn thấy sự mâu thuẫn của hiện đại, tin vào sự tiến hóa của loài người, vào lực lượng của mình, của các đồng ngũ, lấy chân lí làm mục đích, không dối mình không dối người, không ngã lòng trước trở lực, không đem nghệ thuật đi phục dịch một bọn “ông chủ”, đi phụng sự tư lợi, quyết tâm góp một phần tâm huyết, trí tuệ vào công cuộc cải tạo xã hội, ấy là điều kiện tâm lý của những công cuộc sáng tác”(96, tr.134 – 140). Tuy vậy, cũng như các nhà phê bình văn học trước, Đặng Thai Mai vẫn chưa đề cập đến vấn đề được nêu trong luận văn. 3.2. Sau Cách mạng tháng Tám Sự tranh luận về văn học Việt Nam giai đọan 1930 – 1945 vẫn còn tiếp diễn. Đặc biệt, là từ năm 1986 trở đi, trong không khí đổi mới tư duy, văn học được tiếp thêm luồng sinh khí mới. Từ đó, cái nhìn của giới nghiên cứu về những đóng góp cũng như hạn chế của thế hệ nhà văn giai đoạn 1930 – 1945 cũng có nhiều đổi thay. Giành trọn cuốn Về Tự Lực Văn Đoàn (1989), sau khi đã điểm qua các nhà văn nòng cốt, Nguyễn Trác cùng Đái Xuân Ninh đều nhận định: “Họ là những nhà văn tiểu tư sản thức thời, có tinh thần dân tộc, có một lý tưởng thực tiễn là dựa vào tình hình cụ thể để hoạt động và làm ăn bằng văn học. Hoạt động và làm ăn bằng văn học có nghĩa là viết lách được thường xuyên về đề tài xã hội, và xuất bản được, để có thể tự lực sống bằng lao động nghệ thuật của mình, không phải ngửa tay lĩnh lương hàng tháng của chính quyền Pháp” (159, tr.20). Lời nhận định đó cho thấy hai ông đều thừa nhận viết văn cũng là một hình thức lao động nghệ thuật, một phương kế để sinh nhai. Không dừng lại ở đó, trong Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945 (2002), Phan Cự Đệ đã tìm ra quan niệm thẩm mỹ, chỉ ra sự bế tắc, thoát ly cũng như những tiến bộ của lớp nhà văn giai đoạn này. Ở phần lý giải về những hạn chế trong quan niệm của họ, ông có đề cập đến vấn đề ý thức của nhà văn: “ Lịch sử phong trào “Thơ Mới” cũng chứng minh rằng, bất cứ một nhà thơ nào chạy theo ý thức hệ cá nhân tư sản, thì tài năng của người đó thế nào cũng bị thui chột đi và anh ta chỉ có thể ngày càng đi vào ngõ cụt tối om. Con đường sáng tác ngày càng đi xuống của Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử trước 1945 đã nói lên rất rõ điều đó. Một số thi sĩ khi đã gắn liền với ý thức hệ cá nhân tư sản, khi đã thoát ly khỏi quần chúng và thu mình vào cái “tôi” cô đơn, nhỏ bé, thì không thể nào trở thành một nhà thơ lớn được. Một nhà thơ trữ tình lớn phải nói lên được nguyện vọng của quần chúng, phải là phát ngôn nhân của thời đại ”(29, tr 484). Để lập luận của mình tăng sức thuyết phục hơn, ông đã dẫn lời nói của nhà phê bình người Nga Biêlinxki: “Không một nhà thơ nào có thể trở thành vĩ đại do tự thân mình, và qua tự thân mình, qua những đau khổ riêng, sướng vui riêng của mình, bất kỳ nhà thơ lớn nào sở dĩ được xem là vĩ đại, là nguồn gốc những niềm đau khổ và vui sướng của họ đã bắt rễ sâu vào mảnh đất xã hội và lịch sử, và do đó mà họ là một cơ quan và một đại biểu của xã hội, của thời đại, của nhân loại” (29, tr.484 – 485 ). Như vậy, Phan Cự Đệ đã thừa nhận việc xác định ý thức hệ của các nhà văn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 là rất quan trọng vì nó là cơ sở để nhà văn xây dựng cho mình ý thức về nghề và cũng chính nó chứ không phải nhân tố nào khác sẽ quyết định sự thành công hay thất bại của nhà văn. Gần đây hơn, Hà Minh Đức với công trình Khảo luận văn chương (2003) đã chỉ ra sự khác nhau về quan điểm nghệ thuật giữa các nhà văn lãng mạn và các nhà văn hiện thực giai đoạn 1930 – 1945: “Nếu quan điểm nghệ thuật lãng mạn chỉ nghĩ đến việc viết cho riêng mình, thỏa mãn ý thích của riêng mình thì các nhà văn hiện thực lại luôn nghĩ đến người đọc”. Ông đặc biệt nhấn mạnh: “Tác phẩm văn chương phải hoàn thiện với tài năng sáng tạo của người viết, không thể tùy tiện, thiếu trách nhiệm với sản phẩm tinh thần của mình. Không thể đem đến cho người đọc một cái gì thiếu chuẩn mực và chưa hoàn chỉnh (). Nhà văn phải hiểu thiên chức của ngòi bút” (35, tr.108). Sau khi đã đưa dẫn chứng chứng minh điều mình nói, ông đề cao các nhà văn hiện thực và những sản phẩm tinh thần của họ: “Rõ ràng các nhà văn hiện thực đều rất có ý thức về trách nhiệm, về nghề văn và họ cùng có quan điểm sáng tác gần gũi. Suốt trong hơn một thập kỷ phát triển của văn học, dòng văn học hiện thực với tư cách chính thống của một dòng văn học công khai đã làm hết sức mình, vừa đảm nhiệm phản ánh chân thực bộ mặt thật của xã hội thực dân phong kiến lại vừa có tác dụng thức tỉnh ý thức đổi thay hoàn cảnh xã hội để hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn”(35, tr.109). Xét kỹ ra, Hà Minh Đức dẫu có nói đến quan điểm nghệ thuật và ý thức về nghề của các nhà văn cũng như tác dụng ngòi bút của họ, nhưng ông vẫn chưa khai thác vấn đề một cách toàn diện, tập trung. Nếu như từ năm 2000, độc giả thấy có sự xuất hiện của loại sách tập hợp những bài nghiên cứu, phê bình văn nghiệp của các nhà văn Việt Nam, mà phần lớn là các nhà văn thế hệ 1930 – 1945, như: Nhất Linh – cây bút trụ cột của Tự Lực Văn Đoàn, Khái Hưng – nhà tiểu thuyết xuất sắc của Tự Lực Văn Đoàn, Thế Lữ – cây đàn muôn điệu v.v , thì đến năm 2003, loại sách này, với cái tên chung dễ nhận biết: X – Về tác gia và tác phẩm (X: tên của một nhà văn, nhà thơ nào đó) ngày càng được xuất bản nhiều hơn. Đây là loại sách cung cấp cho bạn đọc nhiều tư liệu cần thiết về cuộc đời, sự nghiệp văn chương, thi pháp, phong cách sáng tác của các văn nhân. Dẫu vậy, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách thấu đáo và toàn diện ý thức về nghề của các nhà văn. Nhìn chung, tuy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, nhưng vẫn chưa có tài liệu nào xoáy sâu vào tìm hiểu cho thật đầy đủ vấn đề ý thức về nghề của các nhà văn. Với luận văn này, người viết hy vọng được góp vào diễn đàn vốn quá sôi nổi ấy một tiếng nói, dù rất nhỏ để việc nghiên cứu về một giai đoạn của văn học nước nhà ngày thêm hoàn thiện. 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ CÁI MỚI CỦA LUẬN VĂN 4.1. Phạm vi nghiên cứu Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 vô cùng phong phú, đa dạng, phức tạp; có nhiều vấn đề cần nghiên cứu và làm sáng tỏ. Nhưng với tầm hiểu biết còn hạn chế cùng thời gian cho phép, trong phạm vi một luận văn tốt nghiệp, người viết chỉ đi sâu vào việc tìm hiểu tuyên ngôn nghệ thuật thể hiện qua thực tế sáng tác của một số nhà văn tiêu biểu, như: Khái Hưng, Thạch Lam, Thế Lữ, Xuân Diệu, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Tố Hữu, Hồ Chí Minh , để thấy được ý thức về nghề của họ. Đồng thời, trong quá trình phân tích, khi cần thiết, người viết sẽ liên hệ với một số tuyên ngôn nghệ thuật của các tác giả cùng thời, hoặc trước đó để làm sáng tỏ vấn đề. 4.2. Đóng góp mới của đề tài Thông qua việc tìm hiểu một số tuyên ngôn nghệ thuật và sáng tác tiêu biểu của các nhà văn đã được giới thiệu ở trên, người viết sẽ giúp độc giả: a. Phát hiện ra ý thức về nghề của các nhà văn tiêu biểu và vai trò của nó trong sự phát triển của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. b. Khẳng định viết văn là một nghề lao động nghiêm túc, đầy sáng tạo, đòi hỏi nhà văn không chỉ có khả năng thiên phú mà còn phải có tâm, có tài, có sự cố gắng nỗ lực cao. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Kết hợp sử dụng các phương pháp: 5.1. Phương pháp hệ thống Trong quá trình tìm hiểu quan niệm sáng tác của các nhà văn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, người viết sẽ tiến hành khảo sát, hệ thống các quan niệm có tính chất “tuyên ngôn nghệ thuật” của họ lại. Phương pháp này giúp cho người nghiên cứu chỉ ra được mối quan hệ giữa các yếu tố bộ phận của đối tượng nghiên cứu. 5.2. Phương pháp so sánh Để thấy được những nét mới mẻ trong ý thức về nghề của các nhà văn thế hệ 1930 – 1945, người viết sẽ so sánh quan niệm sáng tác giữa các nhà văn cùng thời và cũng đối chiếu cả với quan niệm sáng tác của các nhà văn trước đó. Phương pháp này sẽ giúp cho người viết vừa khái quát hóa được sự phát triển trong quan niệm sáng tác của các nhà văn, vừa chỉ ra được những đóng góp mới của các nhà văn giai đoạn này đối với tiến trình phát triển của văn học. 5.3. Phương pháp loa