Lý luận chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng và Nhà nước ta đã đề ra công cuộc đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo luôn được Đảng và Nhà nước ta coi là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Tuy nhiên trong quá trình đổi mới , khu vực doanh nghiệp Nhà nước – bộ phận trọng yếu của kinh tế Nhà nước, đã bộc lộ rất nhiều bất cập như cơ sở vật chất lạc hậu, thiếu vốn, cơ chế quản lý cứng nhắc, trình độ quản lý thấp kém, hoạt động kém hiệu quả và nhất là không đáp ứng được với yêu cầu phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, cản trở không nhỏ đến vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế. Trước thực trạng trên, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận kinh tế Nhà nước như chuyển một số DNNN thành các Công ty Cổ phần (CPH DNNN), sắp xếp lại các DNNN, giải thề các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả Trong đó cổ phần hóa được coi là giải pháp hàng đầu, có khả năng mang lại lợi ích hài hòa cho Nhà nước cũng như nhiều bộ phận kinh tế khác. Do vậy khi nghiên cứu về cổ phần hóa trong thời điểm hiện nay tuy không phải là mới mẻ nhưng rất cần thiết. Thông qua nghiên cứu cơ sở khoa học của Cổ phần hóa DNNN, kinh nghiệm cổ phần hóa DNNN, thực trạng cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam để có thể rút ra những quan điểm và giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa DNNN ở nước ta trong thời gian tới. Bài viết của em xin được chia ra làm 2 chương chính như sau: ã Chương 1: Lý luận chung về cổ phần hóa DNNN và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam. ã Chương 2: Cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam_ Thực trạng và giảI pháp.

doc28 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1929 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mục lục Lời nói đầu Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng và Nhà nước ta đã đề ra công cuộc đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo luôn được Đảng và Nhà nước ta coi là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Tuy nhiên trong quá trình đổi mới , khu vực doanh nghiệp Nhà nước – bộ phận trọng yếu của kinh tế Nhà nước, đã bộc lộ rất nhiều bất cập như cơ sở vật chất lạc hậu, thiếu vốn, cơ chế quản lý cứng nhắc, trình độ quản lý thấp kém, hoạt động kém hiệu quả và nhất là không đáp ứng được với yêu cầu phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, cản trở không nhỏ đến vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế. Trước thực trạng trên, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận kinh tế Nhà nước như chuyển một số DNNN thành các Công ty Cổ phần (CPH DNNN), sắp xếp lại các DNNN, giải thề các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả…Trong đó cổ phần hóa được coi là giải pháp hàng đầu, có khả năng mang lại lợi ích hài hòa cho Nhà nước cũng như nhiều bộ phận kinh tế khác. Do vậy khi nghiên cứu về cổ phần hóa trong thời điểm hiện nay tuy không phải là mới mẻ nhưng rất cần thiết. Thông qua nghiên cứu cơ sở khoa học của Cổ phần hóa DNNN, kinh nghiệm cổ phần hóa DNNN, thực trạng cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam để có thể rút ra những quan điểm và giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa DNNN ở nước ta trong thời gian tới. Bài viết của em xin được chia ra làm 2 chương chính như sau: Chương 1: Lý luận chung về cổ phần hóa DNNN và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam. Chương 2: Cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam_ Thực trạng và giảI pháp. Chương 1 : lý luận chung về cổ phần hóa dnnn và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hoá dnnn ở việt nam. Một số vấn đề lý luận về cổ phần hóa các DNNN ở Việt Nam. Quan niệm về cổ phần hóa DNNN. Có thể hiểu, cổ phần hóa là việc chuyển đổi các loại hình doanh nghiệp không phải công ty cổ phần sang hoạt động theo quy chế của công ty cổ phần. Theo đó, kết hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta, khái niệm cổ phần hóa DNNN là việc chuyển doanh nghiệp mà chủ sở hữu là Nhà nước (Doanh nghiệp đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (Doanh nghiệp đa sở hữu), chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo các quy định về công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp. Từ nghị quyết của Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá VII(6/1992), tiếp theo đó là quyết định số 202/CT(6/1992) của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), rồi tới các nghị định số 28/CP(7/5/1996), 25/CP(23/7/1997), nghị định 44/CP(29/6/1998), cổ phần hoá luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Theo điều 1 nghị định số 64/2002/NĐ-CP xác định việc chuyển các DNNN thành các Công ty cổ phần nhằm thực hiện mục tiêu : Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của Doanh nghiệp; tạo ra loại hình Doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho Doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và của Doanh nghiệp. Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển Doanh nghiệp. Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông; tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với Doanh nghiệp; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, Doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động. So với các nước tiến hành cổ phần hóa trên thế giới, ở nước ta chủ trương cổ phần hóa DNNN lại xuất phát từ đường lối và đặc điểm kinh tế xã hội trong quá trình đổi mới : chúng ta đang bố trí lại cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lý cho phù hợp với nền kinh tế hàng hóa nhiều hàng hóa thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Về thực chất CPH ở nước ta là nhằm sắp xếp lại DNNN cho hợp lý và hoạt động có hiệu quả, còn việc chuyển đổi sở hữu của Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông trong công ty cổ phần chỉ là một trong những phương tiện quan trọng để thực hiện mục đích trên. Nội dung cổ phần hóa. Với mục tiêu như trên, tiến trình cổ phần hóa đã dành được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Chính phủ và các ban Ngành. Từ Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá VII(6/1992) đến nay, nhiều văn bản pháp quy quy định chi tiết nội dung cổ phần hóa DNNN đã được ban hành nhằm cho tiến trình cổ phần hóa phù hợp với từng giai đoạn. Đặc biệt Nghị dịnh 44/CP(29/6/1998) của Chính phủ quy định chi tiết nội dung cổ phần hóa bao gồm : Đối tượng cổ phần hóa. Hình thức tiến hành cổ phần hóa. Xác định giá trị doanh nghiệp. Đối tượng mua cổ phần và cơ cấu phân chia cổ phần. Đối tượng cổ phần hóa. Xuất phát từ điều kiện và hoàn cảnh kinh tế nước ta, đối tượng tiến hành cổ phần hóa là những DNNN hội tụ đủ 3 điều kiện: DN có quy mô vừa và nhỏ Không thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn đầu tư (đây là điều kiện quan trọng nhất bởi những DNNN giữ 100% vốn đầu tư là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước, là đòn bẩy kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, theo định hướng XHCN). Doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hoặc tuy trước mắt có khó khăn nhưng triển vọng tốt. Hình thức tiến hành cổ phần hóa. Theo quy định thì có 4 hình thức cổ phần hóa DNNN: Giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển Doanh nghiệp. Bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại Doanh nghiệp. Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp. Thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn. Tùy theo điều kiện cụ thể mà ban lãnh đạo Doanh nghiệp sẽ lựa chọn một hình thức cổ phần hóa phù hợp với doanh nghiệp và người lao động. Xác định giá trị doanh nghiệp. Việc xác định giá trị Doanh nghiệp là một khâu quan trọng và chiếm nhiều thời gian, công sức trong quá trình cổ phần hóa. Theo Điều 15 nghị định số 64/2002/NĐ-CP có hai nguyên tắc xác định giá trị Doanh nghiệp : * Giá trị thực tế của Doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của Doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa có tính đến khả năng sinh lời của Doanh nghiệp mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế của Doanh nghiệp sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả và số dư Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi. * Giá trị thực tế của Doanh nghiệp cổ phần hóa không bao gồm: Giá trị những tài sản do Doanh nghiệp thuê, mượn, nhận góp vốn liên doanh, liên kết và các tài sản khác không phảI của Doanh nghiệp. Giá trị những tài sản không cần dùng, chờ thanh lý. Các khoản nợ phải thu khó đòi đã được trừ vào giá trị Doanh nghiệp. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang của những công trình đã bị đình hoãn trước thời điểm xác định giá trị Doanh nghiệp. Các khoản đầu tư dài hạn vào Doanh nghiệp khác được cơ quan có thẩm quyền quyết định chuyển cho đối tác khác. Tài sản thuộc công trình phúc lợi được đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của Doanh nghiệp và nhà ở của cán bộ, công nhân viên trong Doanh nghiệp. Căn cứ xác định giá trị thực tế của Doanh nghiệp: Số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa. Số lượng và chất lượng tài sản theo kiểm kê phân loại tài sản thực tế của Doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa. Tính năng kỹ thuật của tài sản, nhu cầu sử dụng và giá thị trường tại thời điểm cổ phần hóa. Giá trị quyền sử đất, lợi thế kinh doanh của Doanh nghiệp về vị trí địa lý uy tín của Doanh nghiệp, tính chất độc quyền về sản phẩm, mẫu mã, thương hiệu (nếu có). Khả năng sinh lời của Doanh nghiệp xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của Doanh nghiệp. Đối tượng mua cổ phần và cơ cấu phân chia cổ phần. Các đối tượng sau đây được quyền mua cổ phần ở các DNNN cổ phần hóa: Các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, và cá nhân người Việt Nam ở trong nước (gọi tắt là nhà đầu tư trong nước). Các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân người nước ngoài, kể cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài, và người nước ngoài định cư ở Việt Nam (gọi tắt là nhà đầu tư nước ngoài). Điều kiện mua cổ phần: Nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu mua cổ phần ở các DNNN cổ phần hóa phảI mở tài khoản tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và tuân thủ pháp luật Việt Nam. Mọi hoạt động mua, bán cổ phần; nhận, sử dụng cổ tức và các khoản thu khác từ đầu tư mua cổ phần đều phải thông qua tài khoản này. Số lượng cổ phần được mua được quy định: - Đối với Doanh nghiệp mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt: Một pháp nhân được mua không quá 10%, một cá nhân được mua không quá 5% trên tổng số cổ phần của Doanh nghiệp. - Đối với Doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt: Một pháp nhân được mua không quá 20%, một cá nhân được mua không quá 10% trên tổng số cổ phần của Doanh nghiệp. Tuy nhiên theo nghị định 44/CP đã có sự điều chỉnh nhằm khuyến khích việc mua cổ phần: người mua cổ phần sẽ được vay một cổ phiếu khi mua một cổ phiếu bằng tiền mặt. Với người lao động- họ sẽ được Nhà nước bán cổ phần với mức giá thấp hơn 30% so với giá bán cho các đối tượng khác, mỗi năm làm việc tại Doanh nghiệp được mua tối đa 10 cổ phần. Đối với những người lao động nghèo trong Doanh nghiệp cổ phần hóa, ngoài việc được mua cổ phần ưu đãi họ còn được hoàn trả tiền mua cổ phần trong 3 năm đầu mà vẫn được hưởng cổ tức, số tiền này cho phép họ trả dần trong 10 năm mà không phải trả lãi. Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam. Tình hình hoạt động của các DNNN ở Việt Nam hiện nay. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, khu vực Kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo chi phối nền Kinh tế quốc dân cũng như giúp đỡ các thành phần kinh tế khác. Song trên thực tế, hiệu quả hoạt động của khu vực Kinh tế Nhà nước nói chung và hệ thống DNNN nói riêng còn tồn tại rất nhiều yếu kém. Trên địa bàn cả nước vào năm 2000 chúng ta có khoảng 5800 DNNN nắm giữ 88% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhưng hiệu quả kinh doanh rất thấp. Chỉ có trên 40% DNNN là hoạt động có hiệu quả, trong đó thực sự làm ăn có lãi và lâu dài chỉ chiếm dưới 30%. Trên thực tế, DNNN nộp ngân sách chiếm 80-85% tổng doanh thu, nhưng nếu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu thì DNNN chỉ đóng góp được trên 30% ngân sách Nhà nước. Đặc biệt nếu tính đủ chi phí và TSCĐ, đất tính theo giá thị trường thì các DNNN hoàn toàn không tạo ra được tích luỹ. Có thể đánh giá thực lực của DNNN trên 3 mặt: Thứ nhất là Vốn: Các Doanh nghiệp luôn nằm trong tình trạng thiếu vốn. Tình trạng Doanh nghiệp phải ngừng hoạt động do thiếu vốn kinh doanh đã xuất hiện. Tình trạng Doanh nghiệp không có vốn và không có đủ khả năng huy động vốn để đổi mới công nghệ được coi là phổ biến. Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn thấp kém, thất thoát vốn Nhà nước ngày càng trầm trọng. Năm 1998 chỉ tính riêng số nợ khó đòi và lỗ luỹ kế của các DNNN đã lên đến 5.005 tỷ đồng . Theo Tổng cục Quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại Doanh nghiệp , trong số gần 5800 DNNN, chỉ 40,4% được đánh giá là hoạt động có hiệu quả (bảo toàn được vốn, trả được nợ, nộp đủ thuế, trả lương cho người lao động và có lãi) ; 44% số doanh nghiệp hoạt động chưa có hiệu quả, khó khăn tạm thời ; còn 15,6% số Doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Tổng cộng, có tới trên 59,6% DNNN hoạt động kém hiệu quả. Thứ hai là Công nghệ: Công nghệ của các DNNN lạc hậu so với trình độ chung của khu vực và của thế giới (thường từ 2-3 thế hệ, cá biệt có công nghệ lạc hậu tới 5-6 thế hệ), 76% máy móc thiết bị thuộc thế hệ những năm 50-60 và chủ yếu do Liên Xô cũ và các nước Đông Âu cung cấp. Hiện nay có đến 54,3% DNNN trung ương và 74% DNNN địa phương còn sản xuất ở trình độ thủ công, hiệu quả sử dụng trang thiết bị bình quân dưới 50% công suất. Đó chính là nguyên nhân làm cho khả năng cạnh tranh của các Doanh nghiệp trên thị trường nội địa cũng như quốc tế hết sức thấp kém. Điều này thực sự là một nguy cơ đối với các DNNNN và với nền Kinh tế Quốc dân trong quá trình hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Thứ ba là Trình độ, năng lực và bản lĩnh quản lý còn thấp so với yêu cầu ngày càng cao. Tại các DNNN quyền sở hữu không gắn với quyền quản lý vốn và tài sản. Mặt khác, do những nguyên nhân lịch sử, do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp để lại, các DNNN có số lượng lao động lớn, cơ cấu lao động bất hợp lý, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vừa thừa, vừa thiếu, vừa yếu. Bên cạnh trách nhiệm về kinh tế, mỗi Doanh nghiệp còn phải đảm trách nhiều chức năng xã hội nữa. Từ tình hình trên, có thể thấy khu vực kinh tế Nhà nước không phải là điểm sáng như chúng ta mong đợi, đặc biệt nó vẫn chưa thực sự thể hiện tốt vai trò chủ đạo vủa mình. Do đó vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải có một loạt những giải pháp tiến hành đồng bộ nhằm đẩy nhanh tiến trình sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Trong đó, cổ phần hóa DNNN là một trong những biện pháp được Đảng và Nhà nước đặt lên vị trí then chốt, hàng đầu. Sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa DNNN. Xuất phát từ thực tế nêu trên, thực hiện cổ phần hóa là một nhiệm vụ rất cần thiết và quan trọng trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, cổ phần hóa sẽ giải quyết được các vấn đề sau: w Thứ nhất: Thực hiện CPH là để giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Cổ phần hóa góp phần thực hiện chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Trước đây chúng ta xây dựng một cách cứng nhắc chế độ công hữu, thể hiện ở một số lượng quá lớn các DNNN mà không nhận thấy quan hệ sản xuất này không phù hợp với lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém, lạc hậu. Vì vậy cổ phần hóa sẽ giải quyết được mâu thuẫn này, giúp lực lượng sản xuất phát triển. w Thứ hai: Thực hiện cổ phần hóa nhằm xã hội hoá lực lượng sản xuất, thu hút thêm nguồn lực sản xuất. Khi thực hiện cổ phần hóa, người lao động sẽ gắn bó, có trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành người chủ thực sự của Doanh nghiệp. Ngoài ra, phương thức quản lý được thay đổi, Doanh nghiệp sẽ trở nên năng động, tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sản xuất. w Thứ ba: Bên cạnh đó, cổ phần hóa là một yếu tố thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, đưa nền kinh tế hội nhập với kinh tế khu vực và trên thế giới. w Thứ tư: Thực hiện cổ phần hóa là một trong những giải pháp quan trọng nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế. Với việc huy động được các nguồn lực, các công ty cổ phần có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao được khả năng cạnh tranh trên thị trường, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. w Thứ năm: Cổ phần hoá tác động tích cực đến đổi mới quản lý ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần không những chỉ là sự thay đổi về sở hữu, mà còn là sự thay đổi căn bản trong công tác quản lý ở cả phạm vi Doanh nghiệp và ở cả phạm vi nền Kinh tế quốc dân. w Thứ sáu: Cổ phần hoá là một giải pháp quan trọng để cơ cấu lại nền kinh tế trong quá trình đổi mới đất nước. Như vậy, đứng trước thực trạng hoạt động yếu kém của hệ thống DNNN, cổ phần hóa với những ưu điểm và mục tiêu của mình đã chứng tỏ đó là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với quá trình đổi mới, phù hợp với giai đoạn quá độ đi lên CNXH ở nước ta. Chương 2 : cổ phần hóa Dnnn ở việt nam ( tại tổng công ty bia- rượu-nước giảI khát hà nội ) Thực trạng và giảI pháp. Tiến trình cổ phần hóa DNNN trong những năm vừa qua. Tiến trình cổ phần hóa 15 năm vừa qua (từ 1992- đến nay) có thể chia làm 4 giai đoạn: Giai đoạn thí điểm cổ phần hóa (từ 1992 đến 1996). Nhà nước chỉ thí điểm thực hiện cổ phần hóa những Doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, mang tính chất tự nguyện, việc bán cổ phần cũng chỉ giới hạn trong những đối tượng là nhà đầu tư trong nước, trong đó ưu tiên bán cổ phần cho người lao động. Chính vì vậy, mới chỉ có 5 Doanh nghiệp hoàn thành cổ phần hóa trên tổng số khoảng 16 Doanh nghiệp được thí điểm trong giai đoạn này. 5 Doanh nghiệp bao gồm: 3 DN trung ương và 2 DN địa phương : Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ GTVT - ngày thực hiện CPH : 1/7/1993. Công ty Cơ điện lạnh thuộc UBND Tp Hồ Chí Minh - ngày thực hiện CPH : 1/10/1993. Xí nghiệp Giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp - ngày thực hiện CPH: 1/10/1994 Xí nghiệp Chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBND tỉnh Long An - ngày thực hiện CPH : 1/7/1995. Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn - ngày thực hiện CPH : 1/7/1995. Giai đoạn mở rộng (từ 1996 đến 2002). Với nhiều cơ chế chính sách về cổ phần hóa được hoàn thiện và ban hành đã đẩy nhanh tiến trình này. Đặc trưng của giai đoạn này là việc mở rộng nhiều hình thức cổ phần hóa mặc dù các cơ quan quản lý Nhà nước vẫn phải trực tiếp tham gia rất nhiều công đoạn và tổ chức điều hành. Đó là việc mở rộng thêm diện bán cổ phần cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài định cư lâu năm ở Việt Nam, mở rộng mức ưu đãi cho người lao động trong Doanh nghiêp; có thể bán 100% vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp…Kết quả là giai đoạn này với một cơ chế cổ phần hóa ngày càng được hoàn thiện, sự hưởng ứng đối với tiến trình sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp ngầy càng tăng lên, chúng ta đã tiến hành cổ phần hóa được 868 DNNN, bộ phận DNNN. Giai đoạn bắt đầu cổ phần hóa (từ 6/2002 đến 11/2004). Với cơ sở pháp lý quan trọng là Nghị định số 64/2002/NĐ- CP của chính phủ về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Đây là giai đoạn Nhà nước chủ động giao cho các Bộ, ngành, địa phương trách nhiệm lựa chọn và triển khai cổ phần hóa đối với Doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý mà không trông chờ sự tự nguyện của các Doanh nghiệp cấp dưới như trước đây. Trong giai đoạn này, Nhà nước cũng giao thêm quyền quyết định giá trị Doanh nghiệp và phê duyệt phương án cổ phần hóa cho Bộ trưởng các Bộ, chủ tịch UBND các tỉnh (trừ trường hợp giảm trên 500 triệu đồng vốn nhà nước phải có ý kiến của Bộ tài chính). Bắt đầu áp dụng biện pháp nhằm công khai, minh bạch hóa quá trình cổ phần hóa như cho phép thuê các tổ chức trung gian xác định giá trị Doanh nghiệp; dành tối thiểu 30% số cổ phần ( sau khi trừ số lượng cổ phần nhà nước nắm giữ, cổ phần bán ưu đãi cho người lao động) để bán cho các nhà đầu tư ngoài Doanh nghiệp..Mặc dù về số lượng, giai đoạn này chúng ta đã tiến hành cổ phần hóa được 1.435 DNNN, bộ phận DNNN nhưng theo đánh giá thì các DNNN được cổ phần hóa vẫn còn khá nhỏ bé chưa chiếm đến 5% tổng sốn vốn nhà nước trong các doanh nghiệp, quá trình cổ phần hóa còn khép kín, chưa thực sự gắn với thị trường nên vừa hạn chế công tác huy động vốn của Doanh nghiệp vừa làm giảm sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của Doanh nghiệp, việc giải quyết lợi ích giữa các bên trong một doanh nghiệp được cổ phần hóa cũng chưa được hài hòa.. Giai đoạn đẩy mạnh cổ phần hóa (từ 12/2004 đến nay). Được đánh dấu bằng việc ban hành Nghị định số 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần. Đã xuất hiện các công ty nhà nước có quy mô vốn lớn không thuộc diện nhà nước giữ 100% vốn được cổ phần hóa như Bảo Minh, Vĩnh Sơn…và được niêm yết làm tăng đáng kể quy mô của thị trường chứng khoán. Các giải pháp để nâng cao trách nhiệm của Doanh nghiệp cổ phần hóa và các cơ quan trong xử lý nợ, tài sản tồn đọng, lao động dôi dư cũng được tiến hành song song với việc bổ sung các quy định để nâng cao tính khách quan, minh bạch, tính chuyên nghiệp trong quá trình cổ phần hóa… Thực trạng cổ phần hóa DNNN và tình hình hoạt động của Tổng công ty bia- rượu- nước giảI khát Hà nội trong quá trình cổ phần hóa. 2.2.1 Thực trạng cổ phần hóa DNNN. Tính đến nay, cả nước đã tiến hành cổ phần hóa được khoảng 3.500 Doanh nghiệp và bộ phận Doanh nghiệp Nhà nước.
Luận văn liên quan