Lý luận chung về hạch toán khấu hao tài sản cố định và đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định trong các doanh nghiệp sản xuất

Theo quan điểm của Kinh tế chính trị học Mac-Lênin thì để tiến hành hoạt động sản xuất-kinh doanh, doanh nghiệp cần thiết phải có 3 yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Tài sản cố định ( viết tắt: TSCĐ )là tư liệu lao động, nhưng không phải tất cả các tư liệu lao động đều là TSCĐ mà TSCĐ chỉ bao gồm những tư liệu lao động chủ yếu có đầy đủ các tiêu chuẩn về mặt giá trị và thời gian sử dụng được quy định trong chế độ quản lý Tài chính hiện hành của từng quốc gia. Tuỳ theo điều kiện phát triển, yêu cầu và trình độ quản lý của từng quốc gia và trong từng giai đoạn phát triển kinh tế mà Nhà nước có những quy định cụ thể về tiêu chuẩn giá trị và thời gian sử dụng cho những tư liệu lao động đưọc xác định là TSCĐ. Tuy có sự khác nhau về quy định cho các tiêu chuẩn của mỗi nước nhưng về cơ bản, TSCĐ là những tư liệu lao động có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài. Theo chuẩn mực kế toán quốc tế số 16 (ISA 16), tài sản được sử dụng trong quá trình sản xuất, cung cấp hàng hoá dịch vụ, hoặc cho các mục đích hành chính và có thời gian sử dụng nhiều hơn một kỳ kế toán, được gọi là TSCĐ. Ở Việt Nam, các tư liệu lao động được gọi là TSCĐ phải có đầy đủ các tiêu chuẩn về giá trị và thời gian sử dụng được quy định trong chế độ quản lý TSCĐ của Nhà nước. Trước năm 1996, theo quy định, các tư liệu lao động có giá trị trên 500.000 VNĐ và thời gian sử dụng trên 1năm được xác định là TSCĐ. Tuy nhiên, do yêu cầu của quản lý và phát triển kinh tế đến ngày 14/11/1996, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 1062 TC/QĐ/CSTC, trong đó quy định rõ: Mọi tư liệu lao động nếu thoả mãn đồng thời hai tiêu chuẩn: - Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên; - Có giá trị từ 5.000.000đ (năm triệu đồng) trở lên; thì được coi là TSCĐ. Những tư liệu lao động nào không thỏa mãn hai tiêu chuẩn trên thì được coi là công cụ lao động nhỏ. Khi tham gia vào quá trình sản xuất- kinh doanh, TSCĐ có đặc điểm là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, giá trị TSCĐ bị hao mòn dần và chuyển dịch từng phần vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu cho đến lúc hư hỏng.

doc21 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2969 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận chung về hạch toán khấu hao tài sản cố định và đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định trong các doanh nghiệp sản xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I Lý luận chung về hạch toán khấu hao TSCĐ và đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ trong các doanh nghiệp sản xuất. I. Lý luận chung về khấu hao tài sản cố định. 1. Tài sản cố định và sự cần thiết phải tổ chức hạch toán TSCĐ trong công tác quản lý doanh nghiệp. Khái niệm, đặc điểm TSCĐ. Theo quan điểm của Kinh tế chính trị học Mac-Lênin thì để tiến hành hoạt động sản xuất-kinh doanh, doanh nghiệp cần thiết phải có 3 yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Tài sản cố định ( viết tắt: TSCĐ )là tư liệu lao động, nhưng không phải tất cả các tư liệu lao động đều là TSCĐ mà TSCĐ chỉ bao gồm những tư liệu lao động chủ yếu có đầy đủ các tiêu chuẩn về mặt giá trị và thời gian sử dụng được quy định trong chế độ quản lý Tài chính hiện hành của từng quốc gia. Tuỳ theo điều kiện phát triển, yêu cầu và trình độ quản lý của từng quốc gia và trong từng giai đoạn phát triển kinh tế mà Nhà nước có những quy định cụ thể về tiêu chuẩn giá trị và thời gian sử dụng cho những tư liệu lao động đưọc xác định là TSCĐ. Tuy có sự khác nhau về quy định cho các tiêu chuẩn của mỗi nước nhưng về cơ bản, TSCĐ là những tư liệu lao động có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài. Theo chuẩn mực kế toán quốc tế số 16 (ISA 16), tài sản được sử dụng trong quá trình sản xuất, cung cấp hàng hoá dịch vụ, hoặc cho các mục đích hành chính và có thời gian sử dụng nhiều hơn một kỳ kế toán, được gọi là TSCĐ. ở Việt Nam, các tư liệu lao động được gọi là TSCĐ phải có đầy đủ các tiêu chuẩn về giá trị và thời gian sử dụng được quy định trong chế độ quản lý TSCĐ của Nhà nước. Trước năm 1996, theo quy định, các tư liệu lao động có giá trị trên 500.000 VNĐ và thời gian sử dụng trên 1năm được xác định là TSCĐ. Tuy nhiên, do yêu cầu của quản lý và phát triển kinh tế đến ngày 14/11/1996, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 1062 TC/QĐ/CSTC, trong đó quy định rõ: mọi tư liệu lao động nếu thoả mãn đồng thời hai tiêu chuẩn: - Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên; - Có giá trị từ 5.000.000đ (năm triệu đồng) trở lên; thì được coi là TSCĐ. Những tư liệu lao động nào không thỏa mãn hai tiêu chuẩn trên thì được coi là công cụ lao động nhỏ. Khi tham gia vào quá trình sản xuất- kinh doanh, TSCĐ có đặc điểm là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, giá trị TSCĐ bị hao mòn dần và chuyển dịch từng phần vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu cho đến lúc hư hỏng. 1.2 Yêu cầu tổ chức hạch toán TSCĐ. Vai trò quan trọng của TSCĐ và tốc độ tăng TSCĐ trong sự nghiệp phát triển kinh tế quyết dịnh yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý và sử dụng TSCĐ: Việc tổ chức công tác hạch toán để thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình tăng giảm TSCĐ về lượng và giá trị, tình hình sử dụng và hao mòn TSCĐ có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác quản lý và sử dụng hiệu quả công suất của TSCĐ góp phần phát triển sản xuất, thu hồi vốn đầu tư nhanh để tái sản xuất. Khấu hao tài sản cố định. Hao mòn TSCĐ. Trong quá trình sử dụng do ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau TSCĐ của doanh nghiệp bị hao mòn dưới hai hình thức: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Trong đó: - Hao mòn hữu hình của TSCĐ là sự hao mòn vật lý trong quá trình sử dụng. Nguyên nhân và mức độ hao mòn hữu hình trước hết phụ thuộc và các nhân tố của quá trình sử dụng, như thời gian, cường độ sử dụng, việc chấp hành các quy định về sử dụng và bảo dưỡng TSCĐ. Tiếp đến là các nhân tố về tự nhiên và môi trường sử dụng. Việc nhận thức rõ các nguyên nhân ảnh hưởng đến hao mòn hữu hình sẽ giúp các doanh nghiệp có biện pháp cần thiết để hạn chế nó. - Hao mòn vô hình là sự giảm giá trị của TSCĐ do ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Do đó biện pháp có hiệu quả nhất để khắc phục hao mòn vô hình là doanh nghiệp phải sử dụng tối đa công suất của TSCĐ, coi trọng đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất, ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật. Điều này đặc biệt có ý nghĩa quyết định trong việc tạo ra các lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường. Khấu hao TSCĐ và các phương pháp tính khấu hao TSCĐ. Khái niệm. Trong quá trình sử dụng TSCĐ bị hao mòn dần về mặt giá trị và hiện vật, phần giá trị hao mòn được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm làm ra dưới hình thức trích khấu hao. Vậy khấu hao TSCĐ là việc chuyển dịch phần giá trị hao mòn của TSCĐ trong quá trình sử dụng vào giá trị sản phẩm sản xuất ra theo các phương pháp tính toán thích hợp. Hao mòn TSCĐ là hiện tượng khách quan làm giảm giá trị và giá trị sử dụng của TSCĐ, còn mục đích của việc trích khấu hao là biện pháp chủ quan nhằm thu hồi vốn đầu tư để tái sản xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng. Bộ phận giá trị hao mòn được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm được coi là một yếu tố chi phí sản xuất sản phẩm được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ là tiền khấu hao. Số tiền khấu hao được tích luỹ hình thành quỹ khấu hao của doanh nghiệp. Quỹ khấu hao chính là nguồn tài chính quan trọng để tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Về nguyên tắc, việc tính khấu hao TSCĐ phải phù hợp với mức độ hao mòn của TSCĐ và phải bảo đảm thu hồi đầy đủ giá trị vốn đầu tư ban đầu. Về phương diện kinh tế, khấu hao cho phép doanh nghiệp phản ánh đúng các giá trị thực của tài sản, đồng thời làm giảm lãi ròng của doanh nghiệp. Về phương diện tài chính, khấu hao là một phương tiện tài trợ giúp cho doanh nghiệp thu được bộ phận đã mất của TSCĐ. Về phương diện thuế khoá, khấu hao là mọt khoản chi phí được trừ vào lợi nhuận chịu thuế, là một khoản chi phí hợp lệ. Về phương diện kế toán, khấu hao là việc ghi nhận sự giảm giá của TSCĐ. Các phương pháp tính khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp. Việc tính khấu hao trong các doanh nghiệp có thể được thực hiện theo nhiều phương pháp khác nhau và mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng. Việc lựa chọn đúng đắn phương pháp khấu hao TSCĐ có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý vốn cố định trong doanh nghiệp. Phương pháp khấu hao được lựa chọn phải đảm bảo thu hồi vốn nhanh, đầy đủ và đảm bảo nguyên tắc phù hợp. Thông thường có các phương pháp khấu hao cơ bản sau: b.1. Phương pháp khấu hao bình quân. NG Mkh = T 1 Tkh = * 100 T Đây là phương pháp khấu hao đơn giản nhất, theo phương pháp này thì tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao hàng năm được xác định theo mức không đổi trong suốt thời gian sử dụng TSCĐ. Mức khấu hao được xác định theo công thức : Mkh : Mức tính khấu hao trung bình hàng năm. Tkh : Tỷ lệ khấu hao trung bình hàng năm. T : Thời gian sử dụng TSCĐ. NG : nguyên giá TSCĐ Nguyên giá TSCĐ là tập hợp toàn bộ chi phí thực tế của doanh nghiệp đã chi ra để có được TSCĐ và đưa vào hoạt động. Thời gian sử dụng TSCĐ là thời gian dự kiến sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp, được xác định căn cứ vào tuổi thọ kỹ thuật và tuổi thọ kinh tế của TSCĐ. Tuổi thọ kỹ thuật là khoảng thời gian có thể sử dụng TSCĐ được tính theo các thông số về mặt kỹ thuật khi chế tạo chúng. Tuổi thọ kinh tế được xác định căn cứ vào thời gian sử dụng có hiệu quả của TSCĐ nhằm loại trừ những ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình. Ưu điểm chung của phương pháp khấu hao này là cách tính toán đơn giản, dễ hiểu. Mức khấu hao được tính vào giá thành ổn định tạo điều kiện ổn định giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, nhược điểm cơ bản của phương pháp khấu hao bình quân là không phản ánh chính xác mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ và giá thành sản phẩm trong các thời kỳ sử dụng khác nhau của TSCĐ. Mặt khác, do tính bình quân nên khả năng thu hồi vốn đầu tư chậm, TSCĐ của doanh nghiệp dễ bị ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình nên doanh nghiệp sẽ không có điều kiện để trang bị TSCĐ mới. b.2 Phương pháp khấu hao giảm dần. Thực chất của phương pháp kháu hao giảm dần là đẩy nhanh mức khấu hao TSCĐ trong những năm đầu sử dụng và giảm dần mức khấu hao theo thời gian sử dụng. Phương pháp khấu hao này có hai cách tính tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao hàng năm, đó là phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần hoặc khấu hao theo tổng số năm sử dụng. â Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần: Thực chất của phương pháp này là số tiền khấu hao hàng năm được tính bằng cách lấy giá trị còn lại của TSCĐ theo thời gian sử dụng nhân với tỷ lệ khấu hao không đổi. Tỷ lệ khấu hao hàng năm được tính theo công thức: t GC Tkh = 1 - NG Tkh: Tỷ lệ khấu hao hàng năm GC: Giá trị còn lại của TSCĐ NG: Nguyên giá TSCĐ t : thời điểm của năm tính khấu hao u Phương pháp khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng: Theo phương pháp này số tiền khấu hao hàng năm được tính bằng cách nhân giá trị ban đầu của TSCĐ với tỷ lệ khấu hao giảm dần qua các năm. Tỷ lệ khấu hao được xác định bằng cách lấy số năm sử dụng còn lại chia cho tổng số thứ tự năm sử dụng : Công thức được xác định: 2*(T- t+ 1) Tkh = T*(T+ 1) T: thời gian dự kiến sử dụng TSCĐ t: thứ tự năm cần tính tỷ lệ khấu hao Phương pháp khấu hao giảm dần có những ưu điểm cơ bản: phản ánh chính xác hơn mức hao mòn của TSCĐ vào giá trị thành phẩm, nhanh chóng thu hồi được vốn đầu tư trong những năm đầu, hạn chế được ảnh hưởng của hao mòn vô hình. Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là việc tính toán tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao hàng năm sẽ phức tạp hơn nhiều so với phương pháp khấu hao bình quân, và đến hết thời gian sử dụng cũng chưa bù đắp toàn bộ giá trị đầu tư ban đầu của TSCĐ. b.3.Phương pháp khấu hao giảm dần kết hợp với khấu hao bình quân Để khắc phục những nhược điểm của phương pháp khấu hao giảm dần và phương pháp khấu hao bình quân, người ta có thể sử dụng kết hợp cả 2 phương pháp trên. Đăc điểm của phương pháp này, trong những năm đầu sử dụng TSCĐ người ta sử dụng phương pháp khấu hao giảm dần, còn những năm cuối còn lại người ta sử dụng phương pháp khấu hao bình quân. b.4 Phương pháp tính khấu hao theo sản lượng Ngoài cách tính khấu hao theo thời gian, một số doanh nghiệp còn tính khấu hao theo sản lượng. Cách tính này cố định mức khấu hao trên một đơn vị sản lượng nên muốn thu hồi vốn nhanh, khắc phục được hao mòn vô hình đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng năng suất lao động, tăng ca để sản xuất ra nhiều sản phẩm. Mức khấu hao Sản lượng Mức khấu hao phải trích = hoàn thành * bình quân trong tháng trong tháng trên một đơn vị sp Trong đó, Mức khấu hao bình quân Nguyên giá trên một đơn vị sản phẩm Sản lượng tính theo công suất thiết kế Việc nghiên cứu các phương pháp khấu hao TSCĐ sẽ giúp cho doanh nghiệp có căn cứ để lựa chọn phương pháp khấu hao phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp mình, đảm bảo cho việc thu hồi, bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Tuy nhiên, việc trích khấu hao trong các doanh nghiệp nhà nước phải tuân theo quy định của Nhà nước về chế độ quản lý tài sản và tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Mức khấu hao chính là cơ sở để xác định thu nhập của doanh nghiệp để tính thuế thu nhập. Việc trích khấu hao hiện nay trong các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo Quyết định số 166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.Theo Quyết định này: mọi TSCĐ của doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động kinh doanh đều phải trích khấu hao, mức trích khấu hao TSCĐ được hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ. Phương pháp trích khấu hao trong các doanh nghiệp là phương pháp khấu hao đường thẳng. Nhà nước quy định khung sử dụng đối với từng loại, từng nhóm TSCĐ, doanh nghiệp phải dựa trên khung thời gian này để xác định thời gian sử dụng TSCĐ cho phù hợp. Đối với các TSCĐ tăng, giảm trong kỳ thì việc trích hoặc thôi trích khấu hao TSCĐ được thực hiện theo nguyên tắc tròn tháng. Mức khấu hao trung bình hàng năm được xác định theo công thức của phương pháp khấu hao bình quân. Mức trích khấu hao hàng tháng được xác định: Khấu hao TSCĐ Số khấu hao Số khấu hao Số khấu hao phải tính trong = đã tính + tăng trong + giảm trong tháng tháng trước tháng tháng Về mức khấu hao khi nguyên giá thay đổi, doanh nghiệp phải xác định lại mức trích khấu hao trung bình của TSCĐ bằng cách lấy giá trị còn lại trên sổ kế toán chia cho thời gian sử dụng còn lại được xác định của TSCĐ. Việc tính và phân bổ khấu hao TSCĐ được thực hiện trên bảng tính và phân bổ khấu hao tscđ ( Bảng phân bổ số 3 - Hệ thống kế toán doanh nghiệp) Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhà nước không bắt buộc thực hiện khung thời gian sử dụng của từng loại TSCĐ để tính khấu hao mà chỉ khuyến khích. Nhà nước sử dụng nó trong việc xác định chi phí hợp lý để tính thuế đối với doanh nghiệp. Hạch toán khấu hao TSCĐ. Các tài khoản sử dụng: kTK 214-Hao mòn TSCĐ : Tài khoản này dùng để theo dõi tình hình hiện có, biến động tăng, giảm khấu hao. Kết cấu: Bên Nợ: Giá trị hao mòn TSCĐ giảm do TSCĐ giảm Bên Có: Giá trị hao mòn TSCĐ tăng do trích khấu hao TSCĐ,do đánh giá lại TSCĐ. Số dư bên Có: Giá trị hao của TSCĐ hiện có tại đơn vị. kTK009-Nguồn vốn khấu hao cơ bản: Tài khoản này dùng để phản ánh sự hình thành, tăng, giảm và sử dụng nguồn vốn khấu hao cơ bản của doanh nghiệp . Kết cấu: Bên Nợ: Nguồn vốn khấu hao cơ bản tăng, do: trích khấu hao TSCĐ; thu hồi vốn khấu hao cơ bản đã điều chuyển hoặc cho vay... Bên Có: Nguồn vốn khấu hao cơ bản giảm, do: đầu tư, đổi mới TSCĐ; trả nợ vay đầu tư TSCĐ; điều chuyển vốn khấu hao cho đơn vị khác hoặc cho vay... Số dư bên Nợ: Nguồn vốn khấu hao cơ bản hiện còn Kế toán khấu hao và hao mòn TSCĐ có thể được tóm tắt theo sơ đồ sau:. TK 211,212,213 TK 214 TK 627,641,642 Giảm TSCĐ đã khấu hao Trích khấu TK 821,138 hao TSCĐ TK 241(2412) TK 222,228 TK 142,335 Tk 431 TK 412 Tk 412 Đánh giá lại TSCĐ Đánh giá lại TSCĐ TK 111,112,338 TK 411 TK 211 Nhận TSCĐ nội bộ Khấu hao cơ bản nộp cấp trên đã khấu hao II. Đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ trong các doanh nghiệp sản xuất . Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ. TSCĐ là cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp, phản ánh năng lực sản xuất hiện có, trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật của doanh nghiệp. TSCĐ, đặc biệt là máy móc thiết bị sản xuất là điều kiện quan trọng và cần thiết ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng, năng suất lao động, chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm. Bởi vậy, việc đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ để đưa ra các quyết định tài chính, như điều chỉnh qui mô và cơ cấu TSCĐ, đầu tư mới TSCĐ, về các biện pháp nhằm khai thác năng lực sản xuất hiện có, nhờ đó nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ là một nội dung quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. ZĐể tiến hành đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ, thông thường sử dụng một số chỉ tiêu : Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp: phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa giá trị từng nhóm, từng loại TSCĐ trong tổng số giá trị TSCĐ của doanh nghiệp ở thời điểm đánh giá. Chỉ tiêu này giúp doanh nghiệp đánh giá mức độ hợp lý trong cơ cấu TSCĐ trang bị tại doanh nghiệp. Để phân tích tình trạng kỹ thuật của TSCĐ, sử dụng chỉ tiêu hệ số hao mòn TSCĐ: Tổng mức khấu hao TSCĐ Hệ số hao mòn = TSCĐ Nguyên giá TSCĐ Nếu hệ số hao mòn càng tiến gần tới 1, chứng tỏ TSCĐ càng cũ và doanh nghiệp phải chú trọng đến việc đổi mới và hiện đại hoá TSCĐ. Ngược lại, nếu hệ số hao mòn càng nhỏ hơn 1, chứng tỏ TSCĐ của doanh nghiệp đã được đổi mới. Phân tích hiệu quả sử dụng TSCĐ: Hiệu quả sử dụng TSCĐ là mục đích trang bị TSCĐ cho doanh nghiệp. Sử dụng có hiệu quả TSCĐ hiện có là biện pháp tốt nhất sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả. Giá trị sản lượng sản phẩm Hiệu suất sử dụng = TSCĐ Nguyên giá bình quân của TSCĐ Chỉ tiêu này phản ánh, cứ một đồng nguyên giá bình quân của TSCĐ tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị sản lượng sản phẩm. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ việc quản lý và sử dụng TSCĐ càng tốt. Phân tích tình hình trang bị TSCĐ: là đánh giá mức độ bảo đảm TSCĐ, đặc biệt là máy móc thiết bị sản xuất cho lao động. Trên cơ sở đó có kế hoạch trang bị thêm TSCĐ, máy móc thiết bị sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, tăng sản lượng. Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ Hệ số trang bị TSCĐ = Số lượng công nhân trực tiếp sản xuất Chỉ tiêu này phản ánh chung trình độ trang bị TSCĐ cho công nhân, chứng tỏ trình độ cơ giới hoá của doanh nghiệp. Nguyên giá thiết bị sản xuất Hệ số trang bị = thiết bị sản xuất Số lượng công nhân trực tiếp sản xuất Chỉ tiêu này phán ánh trình độ trang bị kỹ thuật cho công nhân. Xu hướng chung, hệ số trang bị kỹ thuật sản xuất tăng với tốc độ nhanh hơn hệ số trang bị TSCĐ mới tăng nhanh quy mô năng lực sản xuất, tăng năng suất lao động. Z Máy móc thiết bị sản xuất là một bộ phận quan trọng trong TSCĐ của doanh nghiệp sản xuất, chứng tỏ trình độ trang bị kỹ thuật của doanh nghiệp. Do đó việc phân tích hiệu quả sử dụng thiết bị máy móc kỹ thuật hiện có có ý nghĩa rất quan trọng. Phân tích mối quan hệ giữa thiết bị sản xuất và TSCĐ của doanh nghiệp: Tính phù hợp của cơ cấu tỷ lệ này phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng ngành, từng doanh nghiệp. Xem xét tỷ lệ này để tìm kiếm tỷ lệ thích hợp là yêu cầu quan trọng đối với doanh nghiệp . Tình hình sử dụng thiết bị sản xuất: Số thiết bị làm việc thực tế Số thiết bị làm việc thực tế = Số thiết bị sản xuất hiện có Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sử dụng các thiết bị sản xuất hiện có, từ đó xác định rõ nguyên nhân ảnh hưởng đến mức độ huy động thiết bị sản xuất vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tình hình sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị sản xuất: Thời gian làm việc thực tế của thiết bị Hệ số sử dụng = thời gian chế độ Thời gian làm việc theo chế độ của thiết bị Thời gian làm việc có ích của thiết bị Hệ số sử dụng = thời gian làm việc Thời gian làm việc thực tế của thiết bị Thời gian làm việc theo chế độ của thiết bị là thời gian làm việc của máy theo thiết kế kỹ thuật. Thời gian làm việc thực tế của thiết bị là thờigian máy tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm, bao gồm cả thời gian chuẩn bị cho máy làm việc. Thời gian làm việc có ích của thiết bị là thời gian sử dụng máy cho ra những sản phẩm hợp cách. Như vậy, chỉ có thời gian làm việc có ích của thiết bị là đưa lại doanh thu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vậy, việc phân tích sẽ giúp cho doanh nghiệp thấy được thực trạng sử dụng máy móc sản xuất trong doanh nghiệp để có những biện pháp nâng cao hiệu suất làm việc của thiết bị. Tình hình sử dụng năng lực sản xuất của máy móc thiết bị sản xuất: Khối lượng sản phẩm sản xuất ra không chỉ phụ thuộc vào thời gian làm việc của thiết bị mà còn chịu ảnh hưởng bởi năng suất của thiết bị. Q U = Tm U: mức năng suất thiết bị Q: Khối lượng sản phẩm do thiết bị sản xuất ra Tm: Thời gian máy hao phí để sản xuất ra khối lượng sản phẩm Q. Để tiến hành phân tích, cần so sánh chỉ tiêu mức năng suất thiết bị thực tế với kế hoạch, với kỳ gốc hoặc với công suất thiết kế của thiết bị. Qua việc phân tích phát hiện thực trạng sử dụng thiết bị để có những biện pháp cải tiến và tận dụng năng lực sản xuất của máy móc thiết bị. Trên cơ sở các chỉ tiêu sử dụng máy móc sản xuất về số lượng, thời gian, năng suất có thể phân tích hệ số sử dụng tổng hợp máy móc thiết bị sản xuất theo công thức: Hệ số sử dụng Hệ số sử dụng Hệ số sử dụng Hệ số sử dụng tổng hợp thiết bị = năng suất * thời gian của * số lượng sản xuất thiết bị thiết bị thiết bị Quản lý sử dụng TSCĐ. Đối với doanh nghiệp sản xuất, TSCĐ là một bộ phận quan trọng chủ yếu của nguồn vốn cố định. Để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cố định trong hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên, doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp không chỉ bảo toàn mà còn phát triển được vốn cố định của doanh nghiệp sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Nghĩa là phải luôn đảm bảo duy trì một lượng vốn tiền tệ để khi kết thúc một vòng tuần hoàn bằng số vốn này doanh nghiệp có thể thu hồi hoặc mở rộng được số vốn mà doanh nghiệp đã bỏ ra ban đầu để đầu tư, mua sắm các TSCĐ tính theo thời giá hiện tại. Do đặc điểm của TSCĐ là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh song vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu, còn giá trị lại chuyển dịch từng phần vào giá trị sản phẩm.
Luận văn liên quan