Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trong điều kiện tự khai, tự nộp thuế trên địa bàn cục thuế Hà Nội

Đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước là nhiệm vụ trọng tâm của ngành Thuế. Tuy nhiên, làm thế nào để người nộp thuế bỏ ra một đồng tiền thuế một cách tự nguyện là một công việc hết sức khó khăn. Đặc biệt, trong thời đại ngày nay khi hội nhập kinh tế thế giới đang là xu hướng của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã kéo theo nhiều tác động đến nền kinh tế. Số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng, đồng thời quy mô, hình thức, cách thức hoạt động của các doanh nghiệp cũng đa dạng và phức tạp hơn trước thì cơ chế quản lý cũ đã không còn phù hợp, đòi hỏi phải chuyển sang cơ chế quản lý mới, tiên tiến hơn mà đa số các nước trên thế giới đã áp dụng, đó là cơ chế người nộp thuế tự khai, tự nộp thuế. Do đó, để đảm bảo hiệu quả của cơ chế tự khai, tự nộp thuế, phục vụ đắc lực cho công cuộc hiện đại hóa ngành Thuế thì công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế luôn được ngành Thuế đặt lên hàng đầu. Tuyên truyền, hỗ trợ không chỉ nhằm giúp cho cộng đồng hiểu được bản chất tốt đẹp của tiền thuế, hiểu về các chính sách thuế mà còn tạo điều kiện thuận lợi để người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế của mình, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế. Có thể nói bộ phận tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế chính là bộ mặt của ngành Thuế. Công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế theo mô hình quản lý mới là hoạt động khá mới ở Việt Nam, bởi vậy không thể tránh khỏi những tồn tại, hạn chế. Trong quá trình thực tập tại Cục thuế Thành phố Hà Nội, nhận thức được vấn đề trên cùng kiến thức đã học ở trường, sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo và các cán bộ của Cục thuế Thành phố Hà Nội, đặc biệt là các cô chú, anh chị tại phòng Tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế - Cục thuế Hà Nội, em đã đi sâu nghiên cứu và lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trong điều kiện tự khai, tự nộp thuế trên địa bàn cục thuế Hà Nội”. Mục đích của đề tài là nghiên cứu thực trạng công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế ở cục thuế Hà Nội trong giai đoạn từ 2006 - 2010. Từ đó, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội. Bố cục đề tài gồm 3 phần: Chương 1: Cơ chế tự khai, tự nộp thuế và công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế. Chương 2: Thực trạng công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây. Chương 3: Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội.

doc65 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2901 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trong điều kiện tự khai, tự nộp thuế trên địa bàn cục thuế Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước là nhiệm vụ trọng tâm của ngành Thuế. Tuy nhiên, làm thế nào để người nộp thuế bỏ ra một đồng tiền thuế một cách tự nguyện là một công việc hết sức khó khăn. Đặc biệt, trong thời đại ngày nay khi hội nhập kinh tế thế giới đang là xu hướng của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã kéo theo nhiều tác động đến nền kinh tế. Số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng, đồng thời quy mô, hình thức, cách thức hoạt động của các doanh nghiệp cũng đa dạng và phức tạp hơn trước thì cơ chế quản lý cũ đã không còn phù hợp, đòi hỏi phải chuyển sang cơ chế quản lý mới, tiên tiến hơn mà đa số các nước trên thế giới đã áp dụng, đó là cơ chế người nộp thuế tự khai, tự nộp thuế. Do đó, để đảm bảo hiệu quả của cơ chế tự khai, tự nộp thuế, phục vụ đắc lực cho công cuộc hiện đại hóa ngành Thuế thì công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế luôn được ngành Thuế đặt lên hàng đầu. Tuyên truyền, hỗ trợ không chỉ nhằm giúp cho cộng đồng hiểu được bản chất tốt đẹp của tiền thuế, hiểu về các chính sách thuế mà còn tạo điều kiện thuận lợi để người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế của mình, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế. Có thể nói bộ phận tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế chính là bộ mặt của ngành Thuế. Công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế theo mô hình quản lý mới là hoạt động khá mới ở Việt Nam, bởi vậy không thể tránh khỏi những tồn tại, hạn chế. Trong quá trình thực tập tại Cục thuế Thành phố Hà Nội, nhận thức được vấn đề trên cùng kiến thức đã học ở trường, sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo và các cán bộ của Cục thuế Thành phố Hà Nội, đặc biệt là các cô chú, anh chị tại phòng Tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế - Cục thuế Hà Nội, em đã đi sâu nghiên cứu và lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trong điều kiện tự khai, tự nộp thuế trên địa bàn cục thuế Hà Nội”. Mục đích của đề tài là nghiên cứu thực trạng công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế ở cục thuế Hà Nội trong giai đoạn từ 2006 - 2010. Từ đó, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội. Bố cục đề tài gồm 3 phần: Chương 1: Cơ chế tự khai, tự nộp thuế và công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế. Chương 2: Thực trạng công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây. Chương 3: Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội. Với kiến thức lý luận và thực tiễn còn hạn chế nên trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những khiếm khuyết trong nội dung. Em kính mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo, các cán bộ thuế và bạn đọc để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các cô, chú, anh, chị đang công tác tại Phòng tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế - Cục Thuế Hà Nội và sự tận tình chỉ bảo của cô giáo, Ths Nguyễn Thị Minh Hằng tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành bài luận văn này. Hà Nội, tháng 04 năm 2011 Sinh viên Nguyễn Hải Linh Chương 1: CƠ CHẾ TỰ KHAI, TỰ NỘP THUẾ VÀ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN HỖ TRỢ NGƯỜI NỘP THUẾ 1.1. Những vấn đề cơ bản về cơ chế tự khai, tự nộp thuế 1.1.1. Khái niệm về cơ chế tự khai, tự nộp thuế Trong bất cứ xã hội nào thuế luôn là công cụ quan trọng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu vào các mục đích kinh tế - xã hội và chi tiêu cho bộ máy Nhà nước. NNT có trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước theo các quy định của pháp luật, còn cơ quan thuế có trách nhiệm thu tiền thuế vào NSNN. Trên cơ sở này đã hình thành mối quan hệ quản lý, trong đó trách nhiệm, quyền hạn giữa NNT và cơ quan thuế luôn có mối liên hệ chặt chẽ dựa trên cách thức tổ chức thực hiện, hoạt động này gọi là cơ chế quản lý thuế. Trên thế giới có hai cơ chế quản lý thuế chính: cơ chế cơ quan thuế tính thuế (còn gọi là cơ chế thông báo thuế) và cơ chế NNT tự tính thuế hay còn gọi là cơ chế TKTN. Theo cơ chế cơ quan thuế tính thuế, cán bộ thuế phải kiểm tra tất cả các tờ khai thuế, các khoản thu dựa trên những số liệu mà cơ quan thuế có được để xác định số thuế chính thức phải nộp và ra thông báo thuế cho NNT. Cơ chế này thể hiện sự không tin tưởng hoặc ít tin tưởng của cơ quan thuế đối với NNT. Cách thức quản lý này mang tính áp đặt, nặng về sử dụng quyền lực của cơ quan thuế đối với NNT. Việc cơ quan thuế tính thuế thường gây ra nhiều tranh cãi, bất đồng giữa cơ quan quản lý và NNT về cách thức xác định số thuế phải nộp. NNT phải chờ đợi cơ quan thuế tính thuế và ra thông báo thuế mới có thể nộp thuế, làm ảnh hưởng đến tiến độ thu thuế. Việc xác định số thuế phải nộp trở thành trách nhiệm pháp lý của cơ quan thuế. Hơn nữa, với sự gia tăng số lượng của NNT ngày càng nhanh, việc thực hiện quản lý theo cơ chế này đòi hỏi nguồn nhân lực của cơ quan thuế phải tăng lên tương ứng, dẫn đến chi phí quản lý rất cao. Do vậy, hầu hết các nước trên thế giới không còn áp dụng cơ chế cơ quan thuế tính thuế mà chuyển sang cơ chế TKTN thuế. Cơ chế TKTN thuế là cơ chế quản lý trong đó NNT tự giác tuân thủ thực hiện các nghĩa vụ thuế: NNT căn cứ các quy định tại các Luật thuế để xác định nghĩa vụ thuế của mình, kê khai chính xác, nộp tờ khai thuế và nộp thuế đúng thời hạn. Cơ quan thuế không can thiệp vào việc thực hiện nghĩa vụ của NNT nếu NNT tự giác tuân thủ nghĩa vụ. Cơ quan thuế có trách nhiệm tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để NNT hiểu rõ và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế, đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của NNT và thông qua công tác thanh tra, kiểm tra chủ yếu dựa trên kỹ thuật quản lý rủi ro để phát hiện, xử lý kịp thời, đúng đắn các hành vi gian lận, trốn thuế của NNT. Như vậy, thực hiện cơ chế TKTN thuế không có nghĩa là cơ quan thuế buông lỏng quản lý, giám sát NNT mà cơ quan thuế thực hiện giám sát chặt chẽ hơn với phương pháp hiệu quả hơn. Cơ chế này giúp tạo được sự cân bằng giữa hai chức năng của cơ quan thuế là chức năng phục vụ và chức năng giám sát, kiểm tra hoạt động tuân thủ nghĩa vụ thuế đối với NNT. Nói cách khác, cơ chế này giúp tạo nên sự kết hợp hài hoà vai trò của cơ quan thuế như một cơ quan công quyền thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về thuế với vai trò của một cơ quan cung cấp dịch vụ thuế cho cộng đồng doanh nghiệp và xã hội. 1.1.2. Các điều kiện cần thiết để thực hiện cơ chế tự khai tự nộp thuế Cơ chế TKTN thuế là cơ chế quản lý thuế được thực hiện trên nền tảng sự tuân thủ tự giác về nghĩa vụ thuế của NNT. Nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan thuế lúc này là tập trung nguồn lực để hỗ trợ, hướng dẫn và giám sát NNT trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế thông qua công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Như vậy, có thể thấy việc chuyển sang áp dụng cơ chế TKTN thuế ở các nước trên thế giới là đều nhằm mục tiêu quản lý thuế hiệu quả. Tuy nhiên, để có thể mang lại hiệu quả trong việc thực hiện cơ chế này thì đòi hỏi phải có đầy đủ và đồng bộ nhiều yếu tố về xã hội, NNT và cơ quan thuế. Trong đó phải kể đến những điều kiện tiên quyết sau: * Về phía người nộp thuế NNT phải có được hiểu biết cơ bản về nghĩa vụ thuế và có ý thức tự giác tuân thủ nghĩa vụ thuế. Để có thể tự tính thuế, tự thực hiện nghĩa vụ kê khai và nộp thuế thì trước hết NNT phải nắm được là mình phải nộp những loại thuế nào, tính toán ra sao, rồi thời hạn kê khai và nộp thuế. Muốn vậy, NNT phải nắm được các quy định pháp lý về thuế và phải thường xuyên cập nhật về những thay đổi trong chính sách thuế. Trên cơ sở đó, NNT tự giác chấp hành các quy định trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mình và lên án những hành vi gian lận, trốn thuế góp phần vào thành công của việc thực hiện cơ chế TKTN. Bên cạnh đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác những thông tin có liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế của NNT. Có như thế, cơ quan thuế và NNT mới giảm thiểu được chi phí trong việc quản lý cũng như trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội. * Về phía cơ quan thuế Cơ quan thuế cùng với các cơ quan chức năng khác sửa đổi, bổ sung và ban hành các chính sách thuế phải rõ ràng, dễ hiểu và dễ thực hiện như: giảm bớt mức thuế suất thuế giá trị gia tăng, giảm các trường hợp miễn giảm trong thuế thu nhập doanh nghiệp, các quy định về kê khai, nộp thuế thuận lợi, phù hợp với điều kiện kinh doanh của NNT. Đồng thời, đơn giản hoá các thủ tục về thuế như thủ tục đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế, hoàn thuế nhằm mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi tối đa và giảm chi phí tuân thủ cho NNT góp phần khuyến khích NNT tự giác chấp hành nghĩa vụ thuế. Việc chuyển sang cơ chế TKTN cũng có nghĩa là phải chuyển đổi bộ máy quản lý thuế ở các cấp từ việc quản lý theo sắc thuế sang tổ chức tập trung theo các chức năng: tuyên truyền, hỗ trợ NNT; theo dõi, xử lý tờ khai thuế; đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thuế; kiểm tra, thanh tra thuế. Để có thể thực hiện tốt cơ chế TKTN thì đòi hỏi từng bộ phận, từng phòng, ban trong cơ quan thuế các cấp phải thực hiện tốt các chức năng trên. - Chức năng tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế Sự thành công của cơ chế TKTN gắn liền với việc NNT nhận được đầy đủ thông tin cần thiết để thực hiện nghĩa vụ thuế hay hệ thống dịch vụ hỗ trợ NNT toàn diện, có chất lượng. Do vậy, cơ quan thuế phải thay đổi quan điểm quản lý, phải coi NNT là khách hàng mà mình phục vụ, chủ động khảo sát nhu cầu của NNT và chủ động cung cấp thông tin về pháp luật thuế với mục tiêu để NNT làm đúng ngay từ đầu. Muốn thế, công tác tuyên truyền, hỗ trợ phải đảm bảo sự thống nhất về nội dung, cách thức hỗ trợ trong cả nước. Việc cung cấp thông tin cho NNT phải đáp ứng được yêu cầu: chính xác, dễ hiểu, công bằng, đúng lúc, thuận tiện nhất cho NNT. Cơ quan thuế thực hiện việc phát miễn phí các tài liệu, sách hướng dẫn về các thủ tục kê khai, nộp thuế giúp cho NNT có thể tự tính toán, tự kê khai và nộp thuế đúng theo các quy định trong pháp luật về thuế. Đồng thời, để tăng cường công tác hỗ trợ, cần phải xây dựng được các tiêu chuẩn phục vụ NNT ví dụ như tiêu chuẩn về thời gian trả lời điện thoại, thời gian trả lời bằng văn bản. - Công tác xử lý tờ khai, kế toán thuế Trong cơ chế TKTN, công tác xử lý tờ khai, chứng từ nộp thuế và kế toán thuế phải đáp ứng được các yêu cầu sau: + Cơ quan thuế phải tổ chức tiếp nhận và xử lý các tờ khai thuế nhanh chóng, chính xác với sự trợ giúp hiệu quả của hệ thống công nghệ thông tin, đảm bảo chi phí nguồn lực thấp nhất, không gây phiền hà cho NNT. + Thu thập được dữ liệu để theo dõi tình hình thực hiện và cung cấp thông tin cho các khâu quản lý tiếp theo: phải theo dõi được tờ khai thuế của NNT từ tờ khai đầu tiên, qua các tờ khai điều chỉnh (nếu có) đến các tờ khai cuối cùng, các lỗi NNT đã mắc. Qua đó, cơ quan thuế đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp như: hướng dẫn NNT tránh các lỗi đã mắc trong kê khai nếu việc mắc lỗi là do chưa hiểu rõ phải kê khai như thế nào; hoặc đó là một dấu hiệu để xem xét, lựa chọn các trường hợp để thanh tra nếu việc mắc lỗi có tính chất nghiêm trọng và lặp đi, lặp lại một cách cố ý. + Hạch toán đầy đủ, trung thực, chính xác, kịp thời nghĩa vụ thuế của NNT và theo dõi thanh toán thuế nhằm tăng cường đôn đốc NNT kê khai, nộp thuế vào NSNN, đảm bảo tính nợ thuế của NNT theo từng khoản phải nộp. - Chức năng thu nợ và cưỡng chế thuế Một trong những tiêu thức để đánh giá hiệu quả của bộ máy quản lý là đánh giá thông qua số nợ thuế thu hồi được. Cơ quan thuế phải được đảm bảo về cơ sở pháp lý: có đủ thẩm quyền và sự phối hợp của các cơ quan có liên quan để thực hiện chức năng cưỡng chế thuế và phải có bộ máy chuyên trách để thực hiện chức năng cưỡng chế thu nợ thuế. Cơ quan thuế phải luôn theo dõi, nắm sát tình hình nợ thuế của từng NNT, phân tích nguyên nhân và khả năng thu hồi nợ để áp dụng biện pháp thu nợ phù hợp, hiệu quả. Các biện pháp thu nợ có thể từ các biện pháp ban đầu đơn giản như: gọi điện thoại, gửi thông báo nhắc nhở, làm việc trực tiếp với NNT cho đến các biện pháp cưỡng chế như: khấu trừ từ tiền gửi ngân hàng, phong toả tài khoản, thông báo yêu cầu các khách hàng hoặc bên thứ ba trích từ tiền thanh toán cho doanh nghiệp để nộp thuế, yêu cầu cơ quan hải quan phong toả hàng hoá xuất nhập khẩu, kê biên và bán đấu giá tài sản, truy tố trước pháp luật… Để đảm bảo hiệu quả trong công tác thu nợ, tiết kiệm nguồn lực, cơ quan thuế thực hiện công tác thu nợ trên cơ sở đánh giá rủi ro của các khoản nợ, các đối tượng nợ thuế, từ đó ưu tiên nguồn lực vào quản lý thu nợ những trường hợp nợ có mức độ rủi ro cao. - Chức năng kiểm tra, thanh tra thuế Trong cơ chế TKTN thuế, bên cạnh trách nhiệm TTHT, hướng dẫn NNT hiểu rõ nghĩa vụ thuế thì cơ quan còn phải tăng cường giám sát việc chấp hành nghĩa vụ thuế của NNT thông qua công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Đây là một trong những trọng tâm của quản lý thuế với mục tiêu chính là kiểm soát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật thuế của NNT. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thủ đô, số lượng NNT ngày càng cao và quy mô, tính chất sản xuất kinh doanh ngày càng phức tạp, trong khi đó nguồn lực của cục Thuế luôn có giới hạn và thấp hơn rất nhiều so với mức cần thiết để đảm bảo mức độ tuân thủ đầy đủ của tất cả NNT khi phát sinh nghĩa vụ thuế. Do vậy, trong nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra, cơ quan thuế tiến hành thanh tra, kiểm tra trên cơ sở thu thập được đủ các thông tin cần thiết về NNT để phân tích, đánh giá rủi ro. Việc áp dụng quản lý thuế theo kỹ thuật quản lý rủi ro là phương pháp quản lý mới nhưng hiệu quả của nó mang lại là rất lớn. Thông qua việc thực hiện theo cơ chế quản lý rủi ro, toàn bộ NNT được đánh giá theo các tiêu thức rủi ro để phân loại thành các cấp độ tuân thủ khác nhau (nhóm rủi ro cao, vừa, thấp). Trên cơ sở đó, cơ quan thuế tập trung nguồn lực để thanh tra, kiểm tra có trọng tâm hơn, chuyên sâu hơn đối với nhóm NNT có mức độ rủi ro cao về không tuân thủ nghĩa vụ thuế. Bên cạnh đó, để tiết kiệm thời gian và chi phí quản lý cho cơ quan thuế góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thuế thì việc tin học hoá quy trình quản lý là việc làm cần thiết. Nhờ sự hỗ trợ của hệ thống tin học mà việc tập hợp, khai thác và sử dụng thông tin về NNT cũng như việc sử dụng các dịch vụ hỗ trợ của cơ quan thuế được nhanh chóng và thuận tiện hơn. Trong các chức năng quản lý thuế, chức năng tuyên truyền, hỗ trợ được coi là chức năng quan trọng hàng đầu, được cơ quan thuế tập trung nguồn lực để thực hiện tốt chức năng này, vì nếu làm tốt công tác tuyên truyền, hỗ trợ sẽ giảm thiểu được các công việc phải làm trong công tác xử lý tờ khai và kế toán thuế; công tác thu nợ và cưỡng chế thuế; công tác thanh tra, kiểm tra thuế. 1.2. Công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trong cơ chế tự khai tự nộp thuế 1.2.1. Khái niệm, các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ NNT 1.2.1.1. Khái niệm Công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT được xem là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược cải cách và hiện đại hoá ngành Thuế cho phù hợp với tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế. Tuyên truyền thuế là việc cơ quan thuế sử dụng các hình thức thông tin liên lạc để truyền tải đến cho NNT và cộng đồng các thông tin về thuế nhằm nâng cao hiểu biết và trách nhiệm của họ đối với nghĩa vụ thuế với Nhà nước. Hỗ trợ NNT là việc cơ quan thuế cung cấp các dịch vụ tư vấn, giải đáp các vướng mắc của NNT để họ có thể hiểu được các quy định về chính sách, pháp luật thuế đối với trường hợp của mình và các nghĩa vụ mình phải thực hiện. Cùng với quá trình phát triển, hiện đại hoá ngành Thuế, công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT ngày càng được coi trọng. 1.2.1.2. Các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ NNT Trên thế giới hiện nay hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ NNT được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Tuỳ theo phương thức tiếp cận với NNT có thể phân chia công tác TTHT trong cơ quan thuế thành 2 hình thức, đó là: hình thức TTHT gián tiếp và hình thức TTHT trực tiếp. * Các hình thức TTHT gián tiếp - Tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền hình, báo, tạp chí, các gameshow với chủ đề thuế… để đưa hình ảnh của cơ quan thuế tiếp xúc rộng rãi với công chúng. Tuyên truyền các khẩu hiệu trên các panô, áp phích được đặt ở các khu trung tâm, đường giao thông lớn, phát hành các ấn phẩm tuyên truyền, các tài liệu, sách hướng dẫn về thuế cũng là một trong những hình thức tuyên truyền được áp dụng rộng rãi. Thông thường các ấn phẩm tuyên truyền này được biên soạn và in ấn dưới dạng các tờ rơi quảng cáo với những nội dung đơn giản, gần gũi với NNT. - Một trong những hình thức TTHT tiện ích khá phổ biến hiện nay, đó là việc cung cấp thông tin qua mạng Internet. Để sử dụng dịch vụ hỗ trợ này thì NNT cần đăng ký sử dụng với cơ quan thuế để được cấp tên truy cập và mật khẩu sau đó sẽ phải tự chịu trách nhiệm trong việc giữ gìn tài khoản thông tin của mình. Qua hình thức hỗ trợ này, những vướng mắc của NNT liên quan đến tình hình thu nhập, tình hình kê khai, thanh toán nợ… có liên quan đến bí quyết kinh doanh sẽ được cơ quan bảo đảm bí mật. Ngoài ra, NNT có thể tra cứu các thông tin hiểu biểu biết chung về chính sách, thủ tục, các sắc thuế thông qua trang web của Tổng cục Thuế, qua các diễn đàn trên mạng về thuế. - Sử dụng hệ thống hộp thư điện thoại trả lời tự động: là hệ thống điện thoại trong đó đã cài đặt những thông tin cơ bản về các sắc thuế, giải đáp các vấn đề mà NNT thường mắc phải để khi NNT cần có thể tìm hiểu qua kênh này. - Cán bộ thuế trực tiếp trả lời điện thoại: bằng việc cung cấp những số điện thoại tư vấn cho NNT, khi có những vướng mắc về thuế NNT gọi tới những số đó, tại cơ quan thuế sẽ có cán bộ thuế trực. Cán bộ thuế nghe những vướng mắc của NNT sau đó trả lời ngay cho NNT nếu có thể và nằm trong phạm vi cho phép của họ. - Hướng dẫn, giải đáp cho NNT bằng văn bản: NNT gửi cho cơ quan thuế công văn, trong đó nêu ra những vấn đề thắc mắc yêu cầu cơ quan thuế giải đáp. Sau khi tiếp nhận công văn của NNT, cơ quan thuế xem xét kỹ các vấn đề mà NNT thắc mắc sau đó trả lời NNT cũng bằng công văn. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, các hình thức thông tin liên lạc ngày càng phát triển thì các hình thức hỗ trợ NNT sẽ càng đa dạng hơn và thuận tiện hơn cho NNT. Tuy nhiên, để có thể thực hiện tốt các hình thức này ngoài yêu cầu cao về trình độ chuyên môn của cán bộ làm công tác này để hỗ trợ một cách hiệu quả nhất cho NNT thì cũng yêu cầu về hệ thống trang thiết bị, các ứng dụng hiện đại để có thể trợ giúp cho cán bộ làm tốt công tác này. * Các hình thức TTHT trực tiếp - Tổ chức tiếp và trả lời NNT tại trụ sở của cơ quan thuế : Hình thức này đòi hỏi cán bộ tiếp và trả lời NNT không những phải vững về chuyên môn mà còn phải có thái độ phục vụ nhiệt tình, niềm nở. Có như thế NNT mới thấy thoải mái và có cảm tình hơn với cán bộ thuế, đồng thời cũng có ý thức hơn trong nghĩa vụ thuế của mình. Theo hình thức hỗ trợ này, tất cả những vướng mắc về cơ chế chính sách, thủ tục đăng ký, kê khai, khiếu nại, tố cáo… sẽ được giải đáp (trừ những trường hợp quá phức tạp thì NNT sẽ được hẹn trả lời vào hôm sau hoặc được cơ quan thuế gửi trả lời bằng văn bản). - Tổ chức các buổi hội thảo, hội nghị đối thoại giữa cơ quan thuế với NNT : Tuỳ từng đối tượng khác nhau để tổ chức các buổi hội thảo phù hợp với những loại hình đối tượng đó nhằm nâng cao chất lượng của các buổi hội thảo, hội nghị. Thông qua các buổi hội thảo, hội nghị đối thoại không những NNT hiểu rõ hơn về quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với nhà nước, hiểu rõ hơn về việc áp dụng chính sách thuế đối với doanh nghiệp mình; bên cạnh đó cơ quan thuế có thể nắm bắt được nhu cầu của từng đối tượng khác nhau để có hình thức hỗ trợ phù hợp. - Tổ chức tập huấn cho NNT về chính sách thuế, các văn bản pháp luật thuế, đặc biệt là các văn bản, chính sách mới. Việc tập huấn cho NNT có thể kết hợp cùng với các buổi hội thảo, hội nghị đối thoại. Thông thường các cơ quan thuế chủ động
Luận văn liên quan