Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Hưng Yên

Trong bối cảnh hiện nay, nền kinh tế thế giới đang phải đối mặt với những khó khăn rất lớn. Đó là tình trạng tăng giá năng lượng, vật liệu xây dựng và các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường thế giới cùng với sự giảm giá của đồng Đôla Mỹ và những khó khăn của nền kinh tế Mỹ – một nền kinh tế lớn của thế giới. Những biến động thế giới này đã ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế mới nổi như Việt Nam. Với tốc độ tăng trưởng GDP những năm qua trên 8% thì Việt Nam được đánh giá là đất nước có mức tăng trưởng nóng. Đồng thời, những năm qua dòng tiền từ nước ngoài chảy vào Việt Nam có sự tăng trưởng mạnh. Để giữ nền kinh tế phát triển ổn định tiếp tục hội nhập kinh tế thì một vấn đề cấp bách đối với nước ta là thắt chặt lượng cung tiền thông qua hạn chế tăng tín dụng của hệ thống ngân hàng. Để làm được điều này đòi hỏi các Ngân hàng thương mại phải nâng cao chất lượng tín dụng của mình. Chất lượng tín dụng không chỉ là mối quan tâm của nhà quản lý ngân hàng, mà còn là mối quan tâm của toàn xã hội vì đây là tín hiệu tổng hợp, vừa phản ánh trình độ hoàn thiện pháp luật theo cơ chế thị trường trong quản lý kinh tế nói chung và hoạt động quản lý ngân hàng nói riêng, vừa phản ánh sự lớn mạnh và những mặt còn bất cập trong quản lý điều hành ngân hàng. Như vậy, làm thế nào để củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng, đây là vấn đề luôn thường trực tại mỗi ngân hàng. Nhận thức được điều này, thông qua quá trình thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Hưng Yên, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Hưng Yên” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình.

doc63 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1781 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong bối cảnh hiện nay, nền kinh tế thế giới đang phải đối mặt với những khó khăn rất lớn. Đó là tình trạng tăng giá năng lượng, vật liệu xây dựng và các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường thế giới cùng với sự giảm giá của đồng Đôla Mỹ và những khó khăn của nền kinh tế Mỹ – một nền kinh tế lớn của thế giới. Những biến động thế giới này đã ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế mới nổi như Việt Nam. Với tốc độ tăng trưởng GDP những năm qua trên 8% thì Việt Nam được đánh giá là đất nước có mức tăng trưởng nóng. Đồng thời, những năm qua dòng tiền từ nước ngoài chảy vào Việt Nam có sự tăng trưởng mạnh. Để giữ nền kinh tế phát triển ổn định tiếp tục hội nhập kinh tế thì một vấn đề cấp bách đối với nước ta là thắt chặt lượng cung tiền thông qua hạn chế tăng tín dụng của hệ thống ngân hàng. Để làm được điều này đòi hỏi các Ngân hàng thương mại phải nâng cao chất lượng tín dụng của mình. Chất lượng tín dụng không chỉ là mối quan tâm của nhà quản lý ngân hàng, mà còn là mối quan tâm của toàn xã hội vì đây là tín hiệu tổng hợp, vừa phản ánh trình độ hoàn thiện pháp luật theo cơ chế thị trường trong quản lý kinh tế nói chung và hoạt động quản lý ngân hàng nói riêng, vừa phản ánh sự lớn mạnh và những mặt còn bất cập trong quản lý điều hành ngân hàng. Như vậy, làm thế nào để củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng, đây là vấn đề luôn thường trực tại mỗi ngân hàng. Nhận thức được điều này, thông qua quá trình thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Hưng Yên, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Hưng Yên” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình. Khoá luận gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về Ngân hàng thương mại và chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Hưng Yên. Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Hưng Yên. Chương 1 Những vấn đề chung về ngân hàng thương mại và chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại 1.1. Ngân hàng thương mại và nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng. 1.1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động ngân hàng thương mại. 1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính không thể thiếu trong nền kinh tế. Nó liên quan đến hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề và xuất hiện ở tất cả các quốc gia, lãnh thổ. Cũng chính vì thế mà đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về NHTM. Theo pháp luật nước Mỹ: "Ngân hàng là bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại ". Theo Luật tổ chức tín dụng sửa đổi 2004 của Việt Nam, định nghĩa như sau: "NHTM là tổ chức được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước". 1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM. a. Huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế và cá nhân. Tiền gửi là đầu vào sống còn trong hoạt động của ngân hàng. Đây là nguồn vốn cơ bản dùng để tài trợ cho các khoản vay, đầu tư tạo lợi nhuận để đảm bảo sự phát triển vững mạnh của ngân hàng. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. NHTM hoạt động bằng cách "đi vay để cho vay", khoản chênh lệch lãi suất sau khi đã trừ đi những chi phí khác là lợi nhuận của ngân hàng, hiện nay ở Việt Nam đây là khoản thu nhập chính của các ngân hàng. NHTM có thể huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân với các hình thức cũng như lãi suất khác nhau như: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm.... Ngoài ra, khi cần thêm vốn ngân hàng có thể huy động bằng cách phát hành các chứng chỉ tiền gửi hay vay vốn của Ngân hàng Trung Ương hoặc các tổ chức tín dụng khác. b. Nghiệp vụ tín dụng. Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Vốn mà NHTM sử dụng để cho vay xuất phát từ nguồn vốn mà ngân hàng huy động được từ các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế. Trong việc tạo ra khả năng tín dụng, các NHTM đã và đang thực hiện các chức năng xã hội của mình làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó dẫn đến lợi nhuận nhiều hơn, đời sống kinh tế của nhân dân được nâng cao. Rõ ràng tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của nền kinh tế. Nó tạo ra khả năng tài trợ cho hoạt động công - nông - thương nghiệp của đất nước. c. Cung cấp các khoản giao dịch và thanh toán. Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng thì các Ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến Ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng, khách hàng mang giấy đó đến Ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi Ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi thanh toán qua ngân hàng được mở rộng, càng tạo nhiều tiện ích hơn. Điều này đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhờ thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các thể thức thanh toán như: séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu đã phát triển thì các hình thức thanh toán mới bằng thẻ cũng dần phổ biến. d. Mua bán ngoại tệ. Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua, bán) ngoại tệ. Tức là mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và qua đó ngân hàng hưởng phí dịch vụ. Khi giao thương buôn bán giữa các quốc gia ngày càng phát triển thì hoạt động này như một nhu cầu tất yếu không thể thiếu. e. Bảo quản tài sản hộ và bảo lãnh. Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài sản khác cho khách hàng trong két. Ngân hàng nắm giữ những tài sản tài chính này dựa trên nguyên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện. Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho khách hàng rất lớn và họ nắm giữ tiền gửi của khách hàng nên ngân hàng thường tạo được uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. f. Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn. Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư.... Nhiều khách hàng coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, quản lý tài chính, thành lập, mua bán, sát nhập doanh nghiệp.... g. Cung cấp các dịch vụ đại lý. Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc phòng giao dịch ở khắp mọi nơi. Vì vậy các ngân hàng lớn cung cấp dịch vụ đại lý cho ngân hàng khác như: Thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ. Ngoài các nghiệp vụ chủ yếu ở trên các NHTM còn thực hiện nghiệp vụ: Tài trợ các hoạt động của Chính phủ, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, cung cấp dịch vụ bảo hiểm và môi giới đầu tư chứng khoán. 1.1.2. Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại. 1.1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi theo một thời gian nhất định, giữa một bên là ngân hàng và một bên là các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và dân cư. Xét về bản chất, tín dụng ngân hàng cũng có đặc trưng chung của quan hệ tín dụng. Nó thể hiện mối quan hệ tin cậy lẫn nhau trong việc vay và cho vay giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân trên nguyên tắc hoàn trả và có lãi. Tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế, đã mở rộng mối quan hệ cá nhân – cá nhân thành các mối quan hệ: cá nhân – tổ chức, tổ chức – tổ chức, cao nhất là quan hệ tín dụng quốc tế, tạo ra nguồn tài trợ cho các hoạt động công nghiệp, thương nghiệp và nông nghiệp của đất nước. Đồng thời nó cũng thể hiện rõ ưu thế của mình so với các hình thức tín dụng khác, đó là: - Nguồn vốn cho vay rất lớn, vì đó là toàn bộ nguồn vốn trong nền kinh tế mà ngân hàng có thể tập trung và huy động được. - Đây là hình thức tín dụng linh hoạt vì đối tượng vay mượn là tiền tệ. Chính vì vậy mà tín dụng ngân hàng đã trở thành hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường và nó luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt và kịp thời. 1.1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng. a. Đối với nền kinh tế. Trong xã hội luôn tồn tại tình trạng thừa và thiếu vốn tạm thời. Những cá nhân, tổ chức có tiền nhàn rỗi thì muốn bảo quản số tiền một cách an toàn và có hiệu quả nhất. Trong khi đó những cá nhân, tổ chức có nhu cầu về vốn thì muốn vay được những khoản vốn nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Như vậy hoạt động tín dụng là cầu nối giữa cung và cầu vốn, nhờ có hoạt động tín dụng mà các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế. Từ đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. b. Đối với doanh nghiệp. Tín dụng là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường. Những cá nhân, tổ chức đã giảm được các khoản chi phí trong việc tìm kiếm các nguồn vốn để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh. Vay vốn từ ngân hàng của các doanh nghiệp đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải có phương án sản xuất tối ưu, có hiệu quả kinh tế thì mới có thể trả lãi và vốn cho ngân hàng. Việc lập phương án sản xuất tối ưu cho doanh nghiệp phải qua sự kiểm tra, thẩm định kỹ lưỡng của ngân hàng nhằm hạn chế mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra làm phương hại đến cả doanh nghiệp và ngân hàng. c. Đối với Nhà nước. Thông qua hoạt động tín dụng Nhà nước có thể điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng có hiệu quả thông qua các hoạt động kinh doanh của mình sẽ thực sự là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế, góp phần thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia như ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, tạo công ăn việc làm và tăng trưởng kinh tế. 1.1.2.3. Phân loại hình thức tín dụng ngân hàng. a. Căn cứ vào thời hạn của tín dụng. - Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn vay vốn dưới 12 tháng. Tín dụng này chủ yếu cho vay bổ sung vốn lưu động của các doanh nghiệp. - Tín dụng trung hạn: Thời hạn vay vốn từ 1 đến 5 năm. Tín dụng này chủ yếu cho vay đầu tư theo chiều sâu, mở rộng sản xuất đối với các doanh nghiệp. - Tín dụng trung dài hạn: Thời hạn vay vốn trên 5 năm. Tín dụng này chủ yếu cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản như: đầu tư xí nghiệp mới, xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở, các công trình có quy mô lớn. b. Căn cứ vào đối tượng tín dụng. - Tín dụng vốn lưu động: Là loại tín dụng được cấp để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế và thường được sử dụng để bù đắp mức vốn lưu động tạm thời thiếu hụt. - Tín dụng vốn cố định: Là loại tín dụng được cấp để hình thành vốn cố định và thường được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định. c. Căn cứ vào mục đích sử dụng. - Tín dụng cho vay đầu tư dự án: Đây là hình thức cấp tín dụng dựa trên cơ sở dự án sau khi đã xem xét khẳng định tính hiệu quả, khả thi của dự án. - Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: Đây là loại tín dụng cấp cho nhà sản xuất để tiến hành sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá. - Tín dụng thuê mua(Leasing): Đây là một kiểu thuê tài sản để sử dụng chuyên môn theo hợp đồng. d. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm. - Tín dụng có bảo đảm: Việc cấp tín dụng phải có tài sản bảo đảm, có thể là tài sản hình thành từ vốn vay, từ tài sản của người vay hoặc tài sản của bên thứ 3 đứng ra bảo lãnh. - Tín dụng không có bảo đảm: Việc cấp tín dụng dựa vào uy tín của người vay, vào tình hình tài chính hoặc chỉ định, uy tín của bên thứ 3. 1.2. Chất lượng tín dụng của ngân hàng. 1.2.1. Khái niệm. Chất lượng tín dụng được hiểu là vốn vay ngân hàng đáp ứng kịp thời, đầy đủ cho doanh nghiệp và được doanh nghiệp đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả nhất, nhằm tạo một lượng tiền lớn hơn để trang trải đủ chi phí, có lợi nhuận và hoàn trả nợ cho ngân hàng đầy đủ cả gốc và lãi. Chất lượng tín dụng được thể hiện: - Đối với NHTM: Chất lượng tín dụng được thể hiện ở hiệu quả của việc cho vay phù hợp với năng lực của ngân hàng và đảm bảo tính cạnh tranh, ở khả năng thu hồi gốc và lãi cho vay đầy đủ và đúng hạn. Hiệu quả và khả năng thu nợ càng cao thì chất lượng cho vay càng cao và ngược lại. - Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng là thể hiện các khoản vay được đáp ứng kịp thời, đầy đủ với lãi suất hợp lý và có sức cạnh tranh. - Đối với nền kinh tế: Nếu chất lượng tín dụng tốt thì tốc độ phát triển của nền kinh tế sẽ tăng vì hoạt động của ngân hàng nhằm mục đích thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Nếu chất lượng tín dụng kém có nghĩa là doanh nghiệp sử dụng vốn vay ngân hàng không có hiệu quả, hàng hoá sản xuất không tiêu thụ được gây ứ đọng, tín dụng không có khả năng hoàn trả đúng kỳ hạn hoặc mất khả năng hoàn trả. Như vậy, chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng, đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng và phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội. 1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng. 1.2.2.1. Chỉ tiêu doanh số cho vay. Doanh số cho vay là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín dụng của ngân hàng đối với nền kinh tế. Đây là chỉ tiêu phản ánh chính xác, tuyệt đối về hoạt động cho vay trong một thời gian dài, thấy được khả năng hoạt động tín dụng qua các năm. Do đó, nếu kết hợp được doanh số cho vay của nhiều thời kỳ thì ta sẽ thấy được một phần nào về xu hướng hoạt động tín dụng. 1.2.2.2. Chỉ tiêu tổng dư nợ. Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm. Chỉ tiêu này được đo bằng số tuyệt đối, nó phản ánh thực tế cho vay của ngân hàng trong một thời kỳ (một năm) là bao nhiêu. Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động tín dụng của ngân hàng yếu kém, không có khả năng mở rộng, khả năng tiếp thị của ngân hàng không tốt, trình độ cán bộ công nhân viên chưa cao.... Tuy nhiên, khi xét chỉ tiêu này, chúng ta không nên xét chúng theo từng thời kỳ riêng rẽ mà phải xem xét chúng trong cả một quá trình trên cơ sở phân tích các yếu tố tác động bên ngoài để chỉ số này phản ánh một cách tốt nhất. Mặc dù vậy, tổng dư nợ cao chưa chắc đã phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng là cao. Vì vậy chỉ tiêu này còn cần kết hợp với Hệ số sử dụng vốn huy động. Tổng dư nợ Hệ số sử dụng vốn huy động = Tổng nguồn vốn huy động Hệ số này phản ánh kết quả sử dụng vốn để đầu tư của ngân hàng thương mại. Nếu hệ số sử dụng vốn gần bằng 1 thì ngân hàng phải chú ý tăng trưởng nguồn vốn để đề phòng mất khả năng thanh toán. Nếu hệ số sử dụng vốn thấp cần phải tăng trưởng dư nợ hoặc giảm nguồn vốn huy động bằng cách hạ lãi suất huy động hạn chế rủi ro nguồn vốn tác động đến chất lượng tín dụng. 1.2.2.3. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng. Đây là chỉ tiêu được tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Doanh số thu nợ Vòng quay vốn tín dụng = Dư nợ tín dụng bình quân Chỉ tiêu này phản ánh số vòng quay vốn tín dụng trong một thời gian nhất định. Vòng quay vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản suất và lưu thông hàng hoá. Với một số vốn nhất định, nhưng do vòng quay vốn tín dụng nhanh, nên các ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, mặt khác, ngân hàng có vốn để tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực khác. Vòng quay tín dụng tăng, phản ánh chất lượng tín dụng ngân hàng tốt, khách hàng sử dụng vốn vay có hiệu quả thường trả nợ đúng hạn và trước hạn. 1.2.2.4. Chỉ tiêu nợ quá hạn. Nợ quá hạn là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ của mình cho ngân hàng đúng hạn. Chỉ tiêu này có thể nói là quan trọng nhất khi xem xét chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100 Tổng dư nợ Chỉ tiêu này phản ánh rõ nhất về chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nó phản ánh với 100 đơn vị tiền tệ cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ ngân hàng không thể thu hồi đúng tại thời điểm xác định. Nếu tỷ lệ này cao, chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng thấp, rủi ro cao vì với một số lớn các khoản nợ không được hoàn trả đúng hạn thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc quay vòng tiền trong kinh doanh. Với việc không thu được nợ thì ngân hàng sẽ phải đối mặt với việc mất khả năng thanh toán và xấu hơn nữa là nguy cơ phá sản. Nếu tỷ lệ nợ quá hạn thấp, biểu hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng là tốt, mức độ an toàn cao hay rủi ro thấp, vì nó nói lên trong các khoản cho vay của ngân hàng chỉ có một số ít các khoản vay không được trả đúng hạn. Mức mong muốn đối với các nhà quản trị ngân hàng về tỷ lệ nợ quá hạn thường dưới 5%. Ngoài ra để đánh giá chính xác hơn chất lượng tín dụng người ta còn xem xét trên các khía cạnh sau: - Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế. - Nợ quá hạn có khả năng thu hồi hay không có khả năng thu hồi. - Nợ quá hạn theo nhóm: nhóm 3- Nợ dưới tiêu chuẩn, nhóm 4- Nợ nghi ngờ, nhóm 5- Nợ có khả năng mất vốn. 1.2.2.5. Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động tín dụng. Ngân hàng hoạt động với mục đích quan trọng là lợi nhuận. Chỉ tiêu này nói lên mức độ đóng góp của hoạt động tín dụng vào toàn bộ kết quả kinh doanh của ngân hàng. Lãi từ hoạt động tín dụng % Thu nhập từ hoạt động tín dụng = x 100 Tổng thu nhập Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ lợi nhuận từ hoạt động tín dụng mang lại càng lớn, đồng thời nó phản ánh chất lượng tín dụng tốt. Như vậy, có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng, có chỉ tiêu mang tính định tính, có chỉ tiêu mang tính định lượng. Dựa vào các chỉ tiêu này ta có thể nhận định được chất lượng tín dụng ngân hàng cao hay thấp. Tuy nhiên ta cần xem xét trong cả một thời kỳ dài để thấy khuynh hướng biến động của nó có phù hợp với thực tiễn không nhằm giúp các đánh giá được chính xác hơn. 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng nhưng chủ yếu tập trung vào những nhân tố sau đây: 1.2.3.1. Từ phía môi trường kinh doanh. * Môi trường kinh tế: Ngân hàng là chủ thể trung gian của nền kinh tế, hoạt động của ngân hàng có thể được coi là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy, sự ổn định hay mất ổn định của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ đến hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Môi trường kinh tế phát triển mạnh, chủ thể tham gia nền kinh tế hoạt động có hiệu quả sẽ thúc đẩy mở rộng quy mô tín dụng, tăng chất lượng tín dụng. Nhưng môi trường kinh tế có những thay đổi bất ngờ, như lạm phát cao, lãi suất thực tế sẽ giảm và nếu ngân hàng không cân đối giữa các khoản mục bên nguồn vốn và tài sản nhạy cảm với lãi suất thì các khoản tín dụng đó không mang lại hiệu quả. Do đó, chất lượng tín dụng của ngân hàng chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế mà nó hoạt động, các ngân hàng cần làm tốt công tác dự báo và khả năng thích ứng nhanh khi có biến động nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng. * Môi trường pháp lý: Một ngân hàng hoạt động phải tuân thủ đầy đủ các quy định về luật pháp của Nhà nước và của NHNN. Một hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ và ổn định giúp ngân hàng dễ dàng hơn trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Một mặt, nó giúp người vay vốn cũng như ngân hàng dễ dàng trong giao dịch và tránh sự lợi dụng khe hở pháp luật của những đối tượng làm ăn không chân chính.
Luận văn liên quan