Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của doanh nghiệp vào các dự án Thủy điện và áp dụng cho Công ty Cổ phần Thủy điện Hồ Núi Cốc

Bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để tiến hành một quá trình sản xuất kinh doanh đều cần phải có vốn, vốn là điều kiện tiên quyết có ý nghĩa quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bởi vì khi tiến hành hoạt động sản xuất thì các doanh nghiệp cần có một số tiền nhất định để chuẩn bị các yếu tố cơ bản cho quá trình kinh doanh như: sức lao động, đối tượng lao động, tư liệu lao động. Dưới sự kết hợp của các yếu tố này mà các loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đã được tạo ra. Khi hàng hóa, dịch vụ được xác định là tiêu thụ, doanh nghiệp sẽ có doanh thu tiêu thụ. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm ngoài bù đắp chi phí đã bỏ ra còn phải có lãi. Như vậy số tiền ứng ra ban đầu không chỉ được bảo tồn mà còn phải được tăng thêm do hoạt động kinh doanh mang lại. Toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và ứng ra cho các quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo được gọi là vốn. Vốn là một phạm trù kinh tế, nó tồn tại dưới cả hình thái vật chất cụ thể và không có hình thái vật chất cụ thể. Tuy nhiên đứng trên góc độ xã hội thì hiện nay quan niệm về vốn vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất

pdf91 trang | Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 785 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của doanh nghiệp vào các dự án Thủy điện và áp dụng cho Công ty Cổ phần Thủy điện Hồ Núi Cốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chuyên ngành Kinh tế TNTN và MT Học viên: Nguyễn Trọng Khương Lớp CH 17KT 1 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VỐN KINH DOANH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP 1.1. Khái niệm về vốn trong doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm về vốn trong doanh nghiệp Bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để tiến hành một quá trình sản xuất kinh doanh đều cần phải có vốn, vốn là điều kiện tiên quyết có ý nghĩa quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bởi vì khi tiến hành hoạt động sản xuất thì các doanh nghiệp cần có một số tiền nhất định để chuẩn bị các yếu tố cơ bản cho quá trình kinh doanh như: sức lao động, đối tượng lao động, tư liệu lao động. Dưới sự kết hợp của các yếu tố này mà các loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đã được tạo ra. Khi hàng hóa, dịch vụ được xác định là tiêu thụ, doanh nghiệp sẽ có doanh thu tiêu thụ. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm ngoài bù đắp chi phí đã bỏ ra còn phải có lãi. Như vậy số tiền ứng ra ban đầu không chỉ được bảo tồn mà còn phải được tăng thêm do hoạt động kinh doanh mang lại. Toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và ứng ra cho các quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo được gọi là vốn. Vốn là một phạm trù kinh tế, nó tồn tại dưới cả hình thái vật chất cụ thể và không có hình thái vật chất cụ thể. Tuy nhiên đứng trên góc độ xã hội thì hiện nay quan niệm về vốn vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất, ví dụ như: - Theo từ điển Tiếng Việt thì vốn là tài sản bỏ ra lúc đầu thường biểu hiện bằng tiền dùng cho sản xuất kinh doanh, trong các hoạt động sinh hoạt. - Trong dân gian lâu nay vẫn tồn tại quan niệm: “có vốn có lợi” – nghĩa là vốn phải sinh ra lãi, tuy nhiên do hạn chế về trình độ phảt triển của nền kinh tế xã hội nên quan niệm về vốn vẫn còn hạn hẹp, trong quan niệm về vốn và lãi ở trên thì hình thái biểu hiện của vốn và lãi chỉ dừng lại ở hình thái tiền  Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chuyên ngành Kinh tế TNTN và MT Học viên: Nguyễn Trọng Khương Lớp CH 17KT 2 (tiền vốn là tiền lãi) mà chưa biết đến các hình thái biểu hiện khác của vốn như nguồn tài nguyên, nguồn sức lao động hay các biểu hiện hình thái tài chính khác. Còn phổ biến quan niệm vốn – hòa hoặc là vốn – lỗ tức là vốn bỏ ra có thể không sinh lãi mà chỉ dừng lại ở điểm hòa vốn, có trường hợp lỗ vốn, điều này chứng tỏ là chưa thực sự quán triệt tư tưởng bỏ vốn là phải có lãi còn không sinh ra lãi thì không phải là vốn Cả hai quan niệm trên thì chỉ dừng lại ở việc coi vốn chính là tiền bỏ ra ban đầu, tuy nhiên tiền chỉ được coi là vốn kinh doanh khi nó được đảm bảo điều kiện sau: thứ nhất tiền phải đại diện cho một lực lượng hàng hóa nhất định (phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực); thứ hai tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định, đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh; thứ ba khi đã đủ về số lượng tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lợi - Trong các tài liệu kinh tế học của phương Tây thì quan niệm về vốn chính là quan niệm về Tư Bản – Tư Bản tức là phải sinh lợi nhuận. Lúc này chúng ta phải trừu tượng hóa mối quan hệ của Tư Bản – quan hệ bóc lột, chúng ta chỉ nhìn tư bản trên phương diện là Tư Bản sinh ra giá trị thặng dự Như vậy, từ các phân tích trên có thể kết luận: “Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời” Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn của doanh nghiệp luôn vận động và không ngừng thay đổi hình thái, tạo thành quá trình luân chuyển vốn; Quá trình luân chuyển vốn trải qua các giai đoạn sau: + Giai đoạn dự trữ sản xuất: Trong giai đoạn này doanh nghiệp ứng ra vốn tiền tệ để mua sắm các yếu tố sản xuất như tài sản cố định, nguyên nhiên vật liệu, công cụ dụng cụ và các yếu tố khác  Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chuyên ngành Kinh tế TNTN và MT Học viên: Nguyễn Trọng Khương Lớp CH 17KT 3 + Giai đoạn sản xuất : Trong giai đoạn này các yếu tố sản xuất được kết hợp với nhau tạo ra sản phẩm mới. Trong quá trình sản xuất vốn tồn tại dưới hình thái như chi phí chờ phân bổ, sản phẩm đang chế tạo + Giai đoạn lưu thông : Trong giai đoạn này, doanh nghiệp bán sản phẩm và thu tiền về. Vốn từ hình thái hàng hóa chuyển lại hình thái tiền tệ ban đầu (H’ – T’) và kết thúc quá trình luân chuyển vốn và quá trình luân chuyển vốn tiếp theo lại bắt đầu Như vậy có thể nhận thấy vốn được đề cập đền trên nhiều phương diện khác nhau như: vốn phản ánh các quan hệ kinh tế trong xã hội, vốn là một phạm trù hạch toán thể hiện các quan hệ so sánh, vốn là một phạm trù của cơ chế và có nhiều hình thái biểu hiện khác nhau trong quá trình vận động. Và quá trình vận động thì vốn được đảm bảo rằng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn vốn là giá trị, là tiền, tuy nhiên đồng tiền ở điểm cuối cùng phải có giá trị lớn hơn đồng tiền ở điểm xuất phát, đây là nguyên lý của vấn đề đầu tư, sử dụng và bảo toàn vốn kinh doanh. 1.1.2. Phân loại vốn kinh doanh trong doanh nghiệp Để tiến hành quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả cần tiến hành phân loại vốn kinh doanh của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau, tùy theo mục tiêu quản lý vốn. Tùy theo từng loại hình doanh nghiệp mà quy mô vốn kinh doanh, cơ cấu, thành phần của chúng cũng khác nhau. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại vốn trong doanh nghiệp, thông thường có các cách phân loại sau: 1.1.2.1. Căn cứ vào nguồn hình thành vốn kinh doanh Căn cứ vào nguồn hình thành, vốn kinh doanh bao gồm các loại sau: + Vốn chủ sở hữu : là vốn mà chủ sở hữu doanh nghiệp phải ứng ra để mua sắm, xây dựng các tài sản cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi doanh nghiệp thành lập thì vốn chủ sở hữu hình thành vốn điều lệ của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đi vào hoạt động thì ngoài vốn điều lệ còn có  Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chuyên ngành Kinh tế TNTN và MT Học viên: Nguyễn Trọng Khương Lớp CH 17KT 4 một lượng vốn khác cũng thuộc vốn chủ sở hữu như: lợi nhuận không chia, quỹ đầu tư phát triển...và vốn do nhà nước đầu tư (nếu có) + Vốn vay : là khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán cho các tác nhân kinh tế như bao gồm các khoản vay ngắn hạn, dài hạn của ngân hàng và các tổ chức tín dụng; các khoản phải trả khách hàng; các khoản phải nộp ngân sách, các khoản phải trả công nhân viên và các khoản phải trả khác Việc phân chia vốn theo tiêu thức này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu nguồn tài trợ từ góc độ sở hữu của vốn kinh doanh. Vốn chủ sở hữu giúp cho doanh nghiệp tăng khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp mình, còn các khoản vốn vay một mặt nó có thể đáp ứng các nhu cầu về vốn trong ngắn hạn hoặc trong dài hạn, có thể huy động được một lượng vốn lớn, tức thời cho doanh nhưng một mặt nó lại có ảnh hưởng ngược lại đến khả năng tự chủ của doanh nghiệp, không những thế nó còn tăng thêm gánh nặng cho doanh nghiệp vì phải trả lãi vay, nhất là trong điều kiện kinh doanh khó khăn. Vì vậy doanh nghiệp cần phải xem xét nguồn tài trợ tối ưu để tăng hiệu quả sử dụng vốn của mình. 1.1.2.2. Căn cứ theo vai trò đặc điểm luân chuyển của vốn Căn cứ theo tính chất luân chuyển, vốn trong doanh nghiệp được phân thành 2 loại: + Vốn cố định của doanh nghiệp : Vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp Tài sản cố định của doanh nghiệp là các tư liệu lao động chủ yếu có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, còn giá trị của nó được chuyển dần từng phần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Tài sản cố định được chia thành hai loại là tài sản cố định hữu hình (nhà xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải...., trực tiếp phục vụ cho quá  Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chuyên ngành Kinh tế TNTN và MT Học viên: Nguyễn Trọng Khương Lớp CH 17KT 5 trình sản xuất kinh doanh) và tài sản cố định vô hình (bằng sáng chế, phát minh, bản quyền....) Như vậy có thể nói vốn cố định là số vốn đầu tư ứng trước của tài sản cố định, do vậy quy mô của vốn cố định lớn hay nhỏ sẽ quyết định tới quy mô của tài sản cố định cũng như trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật và năng lực sản xuất của doanh nghiệp và ngược lại đặc điểm kinh tế kỹ thuật của tài sản cố định trong quá trình tham gia hoạt động kinh doanh lại có ảnh hưởng chi phối đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định. Do vậy số vốn này cần phải được quản lý và thu hồi một cách đầy đủ thông qua việc xác định giá trị hao mòn hay khấu hao tài sản cố định. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể đầu tư đổi mới máy móc thiết bị để phục vụ cho các quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường + Vốn lưu động của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản lưu động của doanh nghiệp phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên liên tục Tài sản lưu động của doanh nghiệp là những đối tượng lao động được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Tài sản lưu động của doanh nghiệp được chia thành hai loại là tài sản lưu động sản xuất (nguyên vật liệu, bán thành phẩm, sản phẩm dang dở...) và tài sản lưu động lưu thông (sản phẩm thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, chi phí trả trước) trong quá trình sản xuất kinh doanh thì các tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn vận động thay thế và chuyển hóa lẫn nhau phải đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục có thể mô tả một cách khái quát quá trình sản xuất kinh doanh như sau: TSLĐ LT – TSLĐ SX – TSLĐ LT – TSLĐ SX T – H......SX........H’ – T’ – H”......  Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chuyên ngành Kinh tế TNTN và MT Học viên: Nguyễn Trọng Khương Lớp CH 17KT 6 Vì vốn lưu động hình thành nên tài sản lưu động nên bản thân vốn lưu động mang một số đặc điểm cơ bản như: vốn lưu động luôn chuyển hóa qua nhiều hình thái khác nhau bắt đầu tư tiền tệ chuyển sang hình thái vật tư, hàng hóa đưa vào sản xuất lưu thông và cuối cùng trở về hình thái tiền tệ ban đầu, vốn lưu động chuyển dịch toàn bộ giá trị một lần vào giá trị sản phẩm sản xuất. Quá trình vận động của vốn lưu động diễn ra thường xuyên liên tục và có chu kỳ. Từ những đặc điểm đó của vốn lưu động thì đòi hỏi công tác quản lý vốn phải được quản tâm từ việc dự đoán nhu cầu, huy động và sử dụng vốn phải phù hợp, sát thực với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời phải áp dụng các biện pháp thích ứng nhằm tổ chức quản lý và sử dụng vốn đạt hiệu quả cao, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn rút ngắn chu kỳ sản xuất kinh doanh Việc phân chia vốn thành vốn cố định và vốn lưu động có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quản lý và sử dụng vốn đối với mỗi loại, hơn nữa cách phân chia này cho phép nghiên cứu vai trò của mỗi loại vốn. Nếu như vốn cố định phản ánh trình độ năng lực sản xuất của doanh nghiệp thì vốn lưu động là điều kiện để đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra một cách liên tục và ổn định. Do đó doanh nghiệp cần phải xác định cơ cấu và quy mô của mỗi loại một cách chính xác và khoa học dựa trên những định mức kinh tế kỹ thuật tiên tiến mới có thể chủ động bảo toàn và phát triển vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh. 1.1.2.3. Căn cứ vào phạm vi huy động vốn + Vốn bên trong doanh nghiệp + Vốn bên ngoài doanh nghiệp Với cách phân loại này doanh nghiệp phải lựa chọn sao cho hiệu quả kinh tế là lớn nhất, chi phí sử dụng vốn là thấp nhất. Việc huy động vốn bên trong có ưu điểm là giúp doanh nghiệp tự chủ về sử dụng vốn, không phải bỏ chi phí cho việc sử dụng vốn, mặt khác nó làm gia tăng mức độ độc lập về tài  Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chuyên ngành Kinh tế TNTN và MT Học viên: Nguyễn Trọng Khương Lớp CH 17KT 7 chính cho doanh nghiệp. Còn huy động vốn từ bên ngoài tạo cho doanh nghiệp một cơ cấu tài chính linh hoạt hơn, mặt khác có thể làm tăng doanh lợi vốn chủ sở hữu rất nhanh nếu mức doanh lợi đạt được cao hơn chi phí sử dụng vốn và ngược lại. Đây là một đặc điểm tiêu biểu khi huy động vốn từ bên ngoài, nếu nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp được huy động một cách hợp lý thì sẽ tạo ra đòn bẩy tài chính thúc đẩy doanh nghiệp phát triển rất cao. 1.1.2.4. Căn cứ vào thời gian huy động vốn + Vốn thường xuyên : có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có thể sử dụng dài hạn vào hoạt động sản xuất kinh doanh Nguồn vốn thường xuyên = vốn chủ sở hữu + nợ dài hạn = giá trị tổng tài sản của doanh nghiệp – nợ ngắn hạn + Vốn tạm thời : có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu tạm thời về vốn phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh Nguồn vốn tạm thời = tổng tài sản lưu động – nguồn vốn lưu động thường xuyên Việc phân loại này giúp cho nhà quản lý xem xét huy động vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời cho sản xuất kinh doanh mà lại tiết kiệm tối đa chi phí sử dụng vốn cho doanh nghiệp và có cơ sở để lập kế hoạch tài chính trong những khoảng thời gian tiếp theo. 1.2. Đặc trưng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp Các yếu tố tác động khách quan của nền kinh tế tác động lên mỗi doanh nghiệp là như nhau song ảnh hưởng của các tác động này đối với mỗi doanh nghiệp là khác nhau do mỗi loại hình doanh nghiệp nói chung và mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế nói riêng có những đặc thù riêng, có những yếu tố của nền kinh tế có sức ảnh hưởng nhiều đối với loại hình kinh tế này đối với doanh nghiệp này nhưng lại ít ảnh hưởng tới loại hình kinh tế khác, doanh  Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chuyên ngành Kinh tế TNTN và MT Học viên: Nguyễn Trọng Khương Lớp CH 17KT 8 nghiệp khác. Tính đặc thù của mỗi doanh nghiệp dẫn tới vốn kinh doanh của mỗi doanh nghiệp ngoài những đặc trưng chung của vốn kinh doanh trong nền kinh tế còn mang những đặc trưng riêng vốn có của từng doanh nghiệp. Nhìn chung vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp trong nền kinh tế có một số đặc điểm chung như sau: Thứ nhất : Vốn phải được thể hiện bằng một lượng tài sản có giá trị thực được sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra một lượng giá trị sản phẩm khác. Điều này có nghĩa là không phải tất cả các tài sản đều là vốn mà chỉ có các tài sản hoạt động mới được gọi là vốn, còn những tài sản tĩnh thì gọi là vốn tiềm năng. Vốn phải đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản hữu hình và tài sản cố định vô hình như nhà xưởng, thiết bị, đất đai, chất xám... Nếu một lượng tiền thoát ly khỏi giá trị thực của hàng hóa thì không gọi là vồn đầu tư. Nhận thức được điều này thì các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để huy động được nhiều tài sàn vào quá trình sản xuất kinh doanh, biến vốn tiềm năng thành vốn hoạt động. Thứ hai : Vốn phải được vận động sinh lời tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị ban đầu. Vốn là biểu hiệu của tiền, nhưng tiền chỉ là một dạng tiềm năng của vốn, để biến thành vốn thì đồng tiền đó phải được vận động sinh lời; Trong một vòng tuần hoàn của vốn thì phải theo công thức sau: T - ....... - T’ với điều kiện T’>T. Vốn của một doanh nghiệp bỏ ra để đầu tư một dự án Thủy điện thì cũng phải tuân theo quy luật của vòng tuần hoàn trên. Việc đẩy nhanh chu kỳ tuần hoàn của vốn đối với loại hình doanh nghiệp này sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng thêm lợi nhuận. Thứ ba : Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới có thể đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Một lượng vốn chưa đủ lớn để trang trải những chi phí đầu tư ban đầu thì không thể tiến hành sản xuất kinh doanh được. Do đó, các doanh nghiệp không chỉ khai thác tiềm  Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chuyên ngành Kinh tế TNTN và MT Học viên: Nguyễn Trọng Khương Lớp CH 17KT 9 năng về vốn của doanh nghiệp mà còn phải tìm cách thu hút nguồn vốn như góp vốn, hùn vốn, phát hành cổ phiếu, nhận vốn liên doanh.... Thứ tư : Vốn luôn có giá trị về mặt thời gian. Điều này có nghĩa là phải xem xét yếu tố thời gian của đồng vốn. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, đặc trưng này không được xem xét kỹ lưỡng vì nhà nước tạo ra sự ổn định của đồng tiền một cách giả tạo trong nền kinh tế lúc đó. Nhưng trong nền kinh tế thị trường phải xem xét giá trị của thời gian bởi sức mua của đồng tiền ở các thời điểm khác nhau là khác nhau do ảnh hưởng của giá cả lạm phát. Nhận thức được đặc trưng này của vốn để tránh được việc so sánh đơn thuần là thu nhập bù đắp chi phí có lãi, một việc làm khá phổ biến diễn ra lâu nay tạo ra hiện tượng “lãi giả, lỗ thật” trong các doanh nghiệp nhà nước trước cổ phần hóa. Đặc trưng này phục vụ cho việc tính toán các phương pháp bảo toàn vốn là phải đưa vốn về cùng một thời điểm để so sánh. Như vậy, trong những doanh nghiệp có vốn đầu tư khi bỏ đồng vốn ra đầu tư thì cần phải xem xét lợi ích tại thời điểm bỏ ra và thu về được bao nhiêu. Bởi nền kinh tế xã hội luôn biến động ở các thời điểm khác nhau đồng tiền có thể trượt giá khác nhau nên cần phải tính toán vấn đề lỗ, lãi trong khi đầu tư. Thứ năm : Vốn được quan niệm như một thứ hàng hóa đặc biệt và cũng như mọi thứ hàng hóa khác nó có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của “hàng hóa vốn” là ở chỗ khi sử dụng hàng hóa đó sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn. Như mọi hàng hóa khác, “hàng hóa vốn” được mua bán trên thị trường dưới hình thức mua bán quyền sử dụng vốn. Giá mua chính là lãi suất mà người vay vốn phải trả cho người cho vay vốn (chủ sở hữu) để có được quyền sử dụng lượng vốn đó. Giá cả này tăng, giảm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là quan hệ cung cầu trên thị trường. Người vay vốn có quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Việc mua bán được diễn ra trên thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, giá mua bán vốn cũng tuân theo quy luật cung cầu trên thị trường vốn.  Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chuyên ngành Kinh tế TNTN và MT Học viên: Nguyễn Trọng Khương Lớp CH 17KT 10 Thứ sáu : Vốn bao giờ cũng gắn với một chủ sở hữu nhất định, rõ ràng là không thể có những đồng vốn vô chủ. Chỉ khi nào xác định rõ đích thực chủ sở hữu thì đồng vốn mới nhận thức được đầy đủ, chi tiêu mới tiết kiệm và có hiệu quả. Nhưng cũng có thể người sử dụng vốn để thực hiện kinh doanh không phải là người chủ sở hữu đồng vốn đó, nhưng nó vẫn có chủ sở hữu nhất định, người chủ sở hữu này được ưu tiên đảm bảo quyền lợi và được tôn trọng quyền sở hữu của mình. Đặc trưng này có ý nghĩa lớn đối với các doanh nghiệp, các doanh nghiệp bỏ vốn ra đầu tư, như vậy họ đã trở thành chủ sở hữu của đồng vốn và họ cần phải biết việc vốn của mình bỏ ra có thu được hiệu quả cao hay không. Thứ bảy : Trong quá trình sản xuất kinh doanh cùng một lúc vốn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền giá trị của các tài sản hữu hình mà nó còn biểu hiện bằng tiền giá trị của các tài sản vô hình như vị trí địa lý, lợi thế thương mại, nhãn mác sản phẩm, bằng phát minh sáng chế. Chính vì lẽ đó cần phân biệt vốn và tài sản của các doanh nghiệp để từ đó có sự quản lý cho sát sao. Vốn là một lượng tiền tệ mà các chủ doanh nghiệp đầu tư vào các hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận, còn tài sản là biểu hiện hình thái vật chất của vốn như TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình, hàng hóa, vật tư, nợ phải thu, các khoản đầu tư khác của doanh nghiệp. Đặc trưng này có ý nghĩa quan trọng vì nó cho thấy công dụng đa dạng của các loại vốn mà doanh nghiệp đầu tư, buộc các nhà quản lý phải xem xét đến quá trình sử dụng vốn như thế nào sao cho hiệu quả Với những đặc điểm như trên, vốn kinh doanh còn thể hiện vai trò của mình đó là: + Vốn đảm bảo sự hoạt động của doanh nghiệp được thường xuyên, liên tục. Trong doanh nghiệp, vốn là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển củ
Luận văn liên quan