Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam Vietinbank

Việt Nam (VN) bước vào năm 2010 với một số thành quả kinh tế khá ấn tượng cả trong và ngoài nước. Tăng trưởng kinh tế năm 2009 là 5,3% (so với mức trung bình của thế giới là -0,8% i), lạm phát 6,5% (so với mức 19,9% năm 2008), thâm hụt tài khoản vãng lai 7,8% (so với năm 2008 là 11,9% GDP). Tuy nhiên, các thách thức vĩ mô của VN cũng không phải là nhỏ. Mở cửa, khủng hoảng tài chính toàn cầu và việc theo đuổi các chính sách tài khóa, tiền tệ mở rộng nhằm hỗ trợ nền kinh tế kể từ giữa năm 2008 đã gây áp lực lớn đối với môi trường vĩ mô của VN, thâm hụt tài khóa tăng mạnh, nhập siêu leo thang và ở mức cao, các áp lực lạm phát và giảm giá đồng VN luôn tiềm ẩn. Chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế liên tục suy giảm trong các năm 2007, 2008 Trong bối cảnh đó, Chính phủ đã có những quyết sách về kinh tế vĩ mô trong nước, hướng tới sự ổn định, đồng thời vẫn tiếp tục hỗ trợ các khu vực còn khó khăn của nền kinh tế. Chính sách tiền tệ được điều chỉnh theo hướng thận trọng hơn: chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho cả năm là 25% (so với mức tăng thực tế là gần 40% năm 2009); cung tiền M2 tăng khoảng 20–22% (so với mức tăng là 29% năm 2009); thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn; xoá bỏ hỗ trợ lãi suất ngắn hạn; xoá bỏ trần lãi suất đối với các khoản cho vay trung- dài hạn (vào tháng 2) và toàn bộ các khoản cho vay vào tháng 4; thông tư 13. Chính sách tài khoá: quán triệt quan điểm điều hành chính sách tài khoá thận trọng, giảm bội chi NSNN, lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia; thực hiện dừng các chính sách miễn, giảm thuế cho các doanh nghiệp và cá nhân đã thực hiện trong năm 2009 (chỉ thực hiện giãn thời hạn nộp thuế thu nhập cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khó khăn); đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, đôn đốc thu đúng, thu đủ các khoản thu; tăng cường quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách theo đúng quy định của Luật NSNN và các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu đã ban hành, đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí; giảm dần chi đầu tư Nhà nước, tăng cường huy động đầu tư xã hội.Đẩy mạnh cải cách hành chính theo đề án 30 của Chính phủ nhằm đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong nền kinh tế.

doc44 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 8395 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam Vietinbank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM VIETINBANK PHẦN MỞ ĐẦU- TỔNG QUAN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM: 1. Bối cảnh Việt Nam (VN) bước vào năm 2010 với một số thành quả kinh tế khá ấn tượng cả trong và ngoài nước. Tăng trưởng kinh tế năm 2009 là 5,3% (so với mức trung bình của thế giới là -0,8% i), lạm phát 6,5% (so với mức 19,9% năm 2008), thâm hụt tài khoản vãng lai 7,8% (so với năm 2008 là 11,9% GDP). Tuy nhiên, các thách thức vĩ mô của VN cũng không phải là nhỏ. Mở cửa, khủng hoảng tài chính toàn cầu và việc theo đuổi các chính sách tài khóa, tiền tệ mở rộng nhằm hỗ trợ nền kinh tế kể từ giữa năm 2008 đã gây áp lực lớn đối với môi trường vĩ mô của VN, thâm hụt tài khóa tăng mạnh, nhập siêu leo thang và ở mức cao, các áp lực lạm phát và giảm giá đồng VN luôn tiềm ẩn... Chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế liên tục suy giảm trong các năm 2007, 2008  Trong bối cảnh đó, Chính phủ đã có những quyết sách về  kinh tế vĩ mô trong nước, hướng tới sự ổn định, đồng thời vẫn tiếp tục hỗ trợ các khu vực còn khó khăn của nền kinh tế. Chính sách tiền tệ được điều chỉnh theo hướng thận trọng hơn: chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho cả năm là 25% (so với mức tăng thực tế là gần 40% năm 2009); cung tiền M2 tăng khoảng 20–22% (so với mức tăng là 29% năm 2009); thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn; xoá bỏ hỗ trợ lãi suất ngắn hạn; xoá bỏ trần lãi suất đối với các khoản cho vay trung- dài hạn (vào tháng 2) và toàn bộ các khoản cho vay vào tháng 4; thông tư 13... Chính sách tài khoá: quán triệt quan điểm điều hành chính sách tài khoá thận trọng, giảm bội chi NSNN, lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia; thực hiện dừng các chính sách miễn, giảm thuế cho các doanh nghiệp và cá nhân đã thực hiện trong năm 2009 (chỉ thực hiện giãn thời hạn nộp thuế thu nhập cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khó khăn); đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, đôn đốc thu đúng, thu đủ các khoản thu; tăng cường quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách theo đúng quy định của Luật NSNN và các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu đã ban hành, đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí; giảm dần chi đầu tư Nhà nước, tăng cường huy động đầu tư xã hội.Đẩy mạnh cải cách hành chính theo đề án 30 của Chính phủ nhằm đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong nền kinh tế. Tình hình thu NSNN 2005-2009 ( tỷ đồng)  2005  2006  2007  2008  2009  2010 (DT)   Tổng Thu  228287  279472  315915  416783  309650  461500   ( UB Tài Chính Ngân Sách QH và Cục QL Nợ & TCĐN Bộ TC ) Trong giai đoạn 2005-2008, thu NSNN năm sau luôn cao hơn năm trước. Đến GĐ 2009 thu NSNN sụt giảm do suy thoái kinh tế, nhưng hiện đang trên đà phục hồi với dự toán thu NSNN 2010 vượt 17,71% so với 2008. Sáu tháng đầu năm 2010 Tổng thu ngân sách Nhà nước ước tính bằng 47,8% dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 47,4%; thu từ dầu thô bằng 41,3%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 53,6%. Tổng thu ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm ước tính tăng 21,6% so với cùng kỳ năm 2009 và bằng 52,5% dự toán năm. Tình hình chi NSNN 2005-2009 (tỷ đồng)  2005  2006  2007  2008  2009  2010 (DT)   Tổng chi  262697  308058  399402  494600  533000  582200   Chi đầu tư phát triển  79199  88341  112160  135911  112800    Chi PT sự nghiệp KTXH  132327  161852  211940  258493  269300    Chi trả nợ và viện trợ  36700  40800  49160  51200  58800  70250   ( UB Tài Chính Ngân Sách QH và Cục QLN & TCĐN Bộ TC ) VN luôn bội chi ngân sách qua các năm, mức tăng chi và bội chi năm sau cao hơn năm trước. Trong gđ khủng hoảng kinh tế vừa qua Thu NSNN sụt giảm nhưng Chi NSNN vẫn tăng : 2008 tăng 23,8% năm, 2009 tăng 7,77% trong khi thu NSNN 2009 giảm 25.7% so với 2008.Năm 2010 Chi NSNN tiếp tục tăng theo dự toán của QH là 582200 tỉ đồng. Tổng chi ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm ước tính tăng 21,3% so với cùng kỳ năm trước và bằng 46,9% dự toán năm. 2. Kinh tế VN 9 tháng đầu năm: Tăng trưởng kinh tế đã có bước bứt phá đáng ghi nhận. Tốc độ tăng trưởng kinh tế theo quí (so với cùng kỳ năm trước) liên tục tăng và ở mức cao hơn đáng kể so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng đầu năm, tăng trưởng kinh tế của VN đạt 6,52%, cao hơn gần 2 điểm % so với mức 4,6% cùng kỳ năm 2009. Tăng trưởng GDP kinh tế theo quí (so với cùng kỳ năm trước)  Chỉ số CPI giai đoạn 2006-2010 theo tháng        Nguồn: Tổng cục Thống kê, online. Tốc độ tăng giá (chỉ số giá tiêu dùng) cũng được kiểm soát chặt chẽ. Từ mức tương đối cao trong các tháng 1, 2 (tháng xung quanh dịp Tết của VN), tương ứng là 1,2% và 2%, chỉ thấp hơn tốc độ tăng chỉ số giá của năm 2008 (năm lạm phát của VN lên tới trên 20%), thì chỉ số giá tiêu dùng đã được kéo xuống mức khá thấp và ổn định trong các tháng tiếp theo - ở mức thấp nhất so với các tháng cùng kỳ các năm 2006 – 2009, trước khi vọt lên mức 1,31% vào tháng 10. Vốn đầu tư nền kinh tế của tất cả các khu vực kinh tế đều tăng  so với cùng kỳ năm 2009 (trong khi các kỳ tương ứng của năm 2009, vốn đầu tư của nước ngoài luôn giảm so với cùng kỳ năm 2008). Tuy nhiên, tốc độ tăng của các nguồn vốn đầu tư là rất khác nhau giữa các khu vực và thậm chí ngay trong một khu vực khi so sánh theo các thời điểm khác nhau. So với tốc độ tăng đầu tư quí 1 của các khu vực vào năm 2009, thì tốc độ đầu tư Nhà nước quí 1/2010 có mức tăng khiêm tốn hơn hai khu vực còn lại. Tốc độ tăng vốn đầu tư khu vực Nhà nước giảm thể hiện chủ trương điều hành chính sách tài khoá thận trong trong năm 2010. Tốc độ tăng vốn đầu tư của các khu vực kinh tế năm 2009-2010    Khu vực đầu tư nước ngoài có cải thiện vượt bậc, từ tốc độ tăng là -30% vào quí 1/2009, đã đạt mức tăng trưởng +20% vào quí 1/2010. Tốc độ tăng đầu tư khu vực ngoài nhà nước quí 1/2010 (48,4%)  cũng cao hơn đáng kể tốc độ tăng 30% cùng kỳ năm 2009. Tuy nhiên sang quí 2/2010, tốc độ tăng đầu tư của các khu vực lại thấp hơn đáng kể so với cùng kỳ năm 2009, ngoài trừ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể đây là thời điểm thể hiện đầy đủ các tác động của việc điều chỉnh chính sách tài khoá, tiền tệ ( với độ trễ là khoảng 1 quí). Tốc độ tăng vốn đầu tư khu vực Nhà nước 6 tháng chỉ bằng ½ tốc độ tăng cùng kỳ năm 2009, trong khi tốc độ tăng  đầu tư khu vực ngoài Nhà nước chỉ trên ¼ tốc độ tăng cùng kỳ của nguồn vốn này năm 2009. Tuy nhiên, với việc kiểm sóat được lạm phát ở mức thấp, áp lực trên thị trường ngoại tệ dịu đi (sau 2 lần điều chỉnh tỷ giá vào tháng 2, giảm giá VND 3,4%; và vào tháng 8, giảm giá VND 2,1% năm 2010), các điều kiện tiền tệ, tín dụng đã được nói lỏng. Đầu tư khu vực ngoài nhà nước đã có những cải thiện vào quí 3, với tốc độ tăng nguồn vốn đầu tư khu vực này trong 9 tháng đầu năm đã vượt lên so với tốc độ tăng cùng kỳ năm 2009, với các con số tương ứng là 17% so với mức 12,6%. Tốc độ tăng vốn đầu tư khu vực Nhà nước 9 tháng năm 2010 là 14%, so với mức tăng cùng kỳ là 20%. Cơ cấu đầu tư, do vậy, đã có những cải thiện nhất định, theo hướng giảm đầu tư khu vực Nhà nước, tăng huy động vốn trong nền kinh tế và từ bên ngoài. Xuất khẩu hàng hoá năm 2010 đã đảo ngược trạng thái, từ chỗ kim ngạch xuất khẩu luôn giảm năm 2009 (so với cùng kỳ năm 2008), sang tăng với tốc độ khá cao qua các quí năm 2010 (quí 1 tăng 3,8%, nếu loại vàng, giảm 1,6%; quí 2 tăng 22,4%, loại vàng thì tăng 15,7%; quí 3 tháng 24,4%, loại vàng thì tăng 23,2%). Nhập khẩu phục hồi mạnh mẽ hơn nhiều. Tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu các quí năm 2010 ở mức rất cao ( quí 1 là 37,6%, quí 2 là 29,4%, quí 3 là 22,7% ) so với mức giảm sâu cùng kỳ năm 2009 (quí 1 là -46,7%, quí 2 là -34,1%, quí 3 là -25,2%). Tuy nhiên, tương quan tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu đã được cải thiện dần, trong đó tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu có xu hướng tăng, trong khi tốc độ tăng trường kim ngạch nhập khẩu được kiềm chế giảm. Cộng với những cải thiện về kiều hối, doanh thu du lịch, thâm hụt tài khoản vãng lai đã thu hẹp. Tăng trưởng xuất nhập khẩu (% so với cùng kỳ)  Cơ cấu hàng nhập khẩu (%)        Nguồn: Tổng cục thống kê, online, Thời báo kinh tế năm 2010 Cán cân vốn đã dần lấy lại được trạng thái trước khi khủng hoảng, đạt thặng dư vào quí 2/2010 nhờ sự quay trở lại của các luồng vốn nước ngoài, sau khi rơi vào thâm hụt từ đầu năm 2009 do tác động của khủng hoảng với sự sụt giảm xuất khẩu và sự tụt dốc nguồn vốn đầu tư nước ngoài.  Dự trữ ngoại hối, do vậy, cũng đã có những cải thiện nhất định. Ảnh hưởng củaThông tư 13 Sau một quá trình soạn thảo khá dài, ngày 20/05/1010, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chính thức ban hành Thông tư 13/2010/TT-NHNN Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD. Thông tư này sẽ có hiệu lực từ 01/10/2010. Tính tích cực được thể hiện ở chỗ: một mặt, dần dần hoàn thiện các tỷ lệ an toàn của NHTM theo thông lệ quốc tế. Mặt khác, đảm bảo vai trò quản lý của NHNN. Tuy nhiên, lộ trình thực hiện các quy định của thông tư này đồng thời với quá trình tăng vốn lên 3000 tỷ đồng đang tạo ra những khó khăn nhất định cho các NHTM cũng như tác động đến tâm lý đầu tư trên thị trường chứng khoán. Thông tư 13 là một thông tư dài và nhiều nội dung, chủ yếu liên quan tới Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD. Trong đó, có một số nét chính: • Nâng hệ số an toàn vốn CAR từ 8% lên 9% • Tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động (Đáng chú ý vốn huy động theo quy định mới này sẽ không còn bao gồm: Vốn tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức, vốn tự có của NHTM, vốn đầu tư của tổ chức) Đây là một chủ trương đúng đắn trong việc đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống NHTM nói riêng và hệ thống tài chính tiền tệ nói chung theo tiêu chuẩn quốc tế. Lộ trình chuẩn bị thực hiện cũng là một lộ trình tương đối dài. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, việc thực hiện quy định của Thông tư 13 sẽ gây nên những tác động theo chiều hướng không thuận lợi trong ngắn hạn: Là một trong những nguyên nhân chính cản đà giảm của lãi suất • Nhìn chung, Thông tư 13 là một chính sách về chủ trường thì đúng song chứa đựng rất nhiều điểm chưa hợp lý, và là một nguyên nhân chính cản đà giảm của lãi suất. Tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động trong đó nguồn vốn để cung ứng tín dụng tín dụng không bao gồm tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức, vốn tự có của NHTM, đầu tư của tổ chức sẽ càng làm giảm khả năng mở rộng tín dụng. Chưa tính đến việc các khoản này chiếm khoảng 15% vốn huy động, khiến cho quy định này thực chất đã giảm tỷ lệ cho vay so với vốn huy động tổng thể xuống còn khoảng 60-65%, mà chỉ nói đến quy định tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động, thì riêng điều này đã tạo thêm một cái khóa nữa cho ngân hàng trong nỗ lực tăng trưởng tín dụng. Theo tìm hiểu, quy định này cũng chưa từng có trong thông lệ quốc tế, và nó có thể chồng chéo với các quy định về quản lý nợ có, dự trữ bắt buộc v.v… Đây là một điểm có lẽ còn chưa thật hợp lý nếu ban hành quy định này vào thời điểm này. Tác động ngắn hạn của nó sẽ làm giảm đà tăng của tín dụng, và lãi suất sẽ khó giảm trong ngắn hạn. • Cùng lúc với việc thực hiện thông tư 13/TT-NHNN, các NH lại bị điều chỉnh bởi quy định chỉ được huy động trên thị trường 2 tối đa 20% số vốn huy động thị trường 1. Các Ngân hàng buộc phải tăng huy động từ dân nếu muốn tăng vay trên thị trường 2, điều này khiến các ngân hàng phải cạnh tranh gay gắt trong việc lấy thị phần và nguồn huy động từ các chi nhánh mới. Do đó, lãi suất vẫn chưa thể hạ nhiệt trong khi cung vốn tín dụng từ NHTM lại đang bị hạn chế. Khó khăn cho việc tăng khả năng tạo tiền • Quy định tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động là quy định chưa có thông lệ trên thế giới. Có thể chỉ áp dụng trong những trường hợp đặc biệt trong các giai đoạn mất an toàn. Quy định này làm giảm khả năng tạo tiền và số nhân tiền tệ của hệ thống ngân hàng, vì một khoản tiền lớn huy động được sẽ không dành để cho vay mà có thể nằm “chết” tại các NHTM. • Đồng thời làm giảm hiệu quả can thiệp giảm lãi suất của NHNN qua thị trường mở, cho vay liên ngân hàng theo định hướng của NHNN. Thực chất, sự cạnh tranh tăng lãi suất tiết kiệm vẫn lấn át định hướng giảm của lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và OMO nên sự hạ nhiệt chưa truyền tải tới lãi suất tín dụng doanh nghiệp. Vì vậy, mặt bằng lãi suất chưa thể hạ ngay và khả năng cung cấp tín dụng của ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế cũng bị hạn chế. Có khả năng gây những tác động không tích cực đến khả năng hồi phục của thị trường chứng khoán • Thời điểm thực hiện chưa hợp lý: Mặc dù chủ trương đúng đắn, song trong bối cảnh các điều kiện vĩ mô và hệ thống ngân hàng đang ở mức tốt: lạm phát thấp, vấn đề nợ xấu ngân hàng không quá biến động, các NHTM không gặp vấn đề về thanh khoản hay thiếu vốn… , vấn đề thắt chặt các quy định an toàn trong thời điểm đang gây nên những bất hợp lý. Với thời điểm hiệu lực là 1/10/2010, bắt đầu quý cuối cùng của năm, vì lý do an toàn hoặc làm đẹp bảng cân đối, sẽ có một làn sóng các ngân hàng nỗ lực tăng vốn và bán chứng khoán (giảm tài sản rủi ro tăng tiền mặt). Điều này sẽ tác động tiêu cực lên thị trường nhất là tại thời điểm khá nhạy cảm hiện tại khi khả năng hồi phục của thị trường chưa chắc chắn. • Việc nâng hệ số an toàn vốn CAR từ 8-9% là chủ trương đúng về dài hạn. Tuy nhiên tác động chính trong ngắn hạn là khiến lãi suất khó có thể hạ và tác động tiêu cực lên TTCK – Điều mà các nhà đầu tư và thị trường đang mong đợi để khích lệ niềm tin và thanh khoản • Áp lực rất lớn cho TTCK: Cùng với áp lực tăng vốn lên 3000 tỷ của các NHTM, lượng tiền lớn bị hút mạnh vào các NHTM trong khi nguồn cung niêm yết trên thị trường cũng tăng mạnh và hút thêm vốn từ TTCK Kết luận: • Thông tư 13 về dài hạn là chủ trương đúng, song ngắn hạn sẽ gây tiêu cực đốivới các NHTM, TTCK và khả năng điều tiết của NHNN. Cùng với việc tăng vốn sẽ là sự giảm sút của việc nắm giữ cổ phiếu, danh mục đầu tư tài chính của các ngân hàng sẽ giảm sút để đảm bảo hệ số CAR. Mặc dù khuyến khích tăng huy động vốn từ dân cư song dư địa tăng cung tiền qua thị trường mở OMO, thị trường liên ngân hàng lại giảm khi khả năng và công suất khai thác huy động từ dân cư đang có dấu hiệu cạn kiệt. Cùng với một vài quy định bất hợp lý trong TT này đang cản nỗ lực hạ lãi suất của Việt Nam. • Khó khăn trong việc hạ lãi suất và sự ngặt nghèo hơn trong quy định hoạt động của NHTM dẫn đến nguồn tiền và tính đột phá của thị trường chứng khoán trở nên rất khó khăn, tình trạng khó khăn có thể kéo dài đến giữa quý IV/2010. 3. Triển vọng nền kinh tế trong thời gian tới Kết quả kinh tế 9 tháng đầu năm 2010 trên đây thể hiện rõ những biến chuyển tích cực của nền kinh tế. Không chỉ các chỉ số vĩ mô được cải thiện, tâm lý khu vực hộ gia đình cũng rất lạc quan. Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ luôn tăng mạnh, bền vững, ở mức cao hơn  nhiều so với năm 2009, ngay cả khi đã loại bỏ yếu tố giá. Tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ    Nguồn: Tổng cục thống kê, online Các chính sách tài khoá, tiền tệ đều còn dư địa đáng kể. Chi NSNN đến 15/9/2010 là 69,6% dự toán, còn trên 30% dự toán cho 3 tháng cuối năm. Nguồn NSNN được đảm bảo, vì tính đến 15/9, thu NSNN đã đạt 78,2% dự toán thu (chỉ còn trên 20% dự toán thu cho 3 tháng cuối năm). Tăng trưởng tín dụng ngân hàng đến hết tháng 9/2010, đạt 17,8% so với thời điểm cuối năm 2009, còn trên ¼ dung lượng của cả năm cho quí cuối của năm.Tháng 10/2010, thông tư 13 được chỉnh sửa bởi thong tư 19 đã được áp dụng, các NHTM trong xu hướng sẽ tăng cường huy động tiền gởi, đồng thời hạn chế cho vay (giảm dư nợ) để đảm bảo tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động không vượt quá 80%. Như vậy, cảc điều kiện chính sách cho nền kinh tế là rất thuận lợi. Các điều kiện kinh tế bên ngoài cũng có nhiều điểm tích cực. Dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới vào khoảng 3,9% (so với mức -0,8% năm 2009) và tiếp tục tăng ở mức 4,3% năm 2011 iii. Với một  nền kinh tế có độ mở lớn như VN, các điều kiện kinh tế thế giới có ảnh hưởng quan trọng đối với triển vọng của VN.  Tuy nhiên, có hai vấn đề đáng quan tâm đó là vấn đề lạm phát và nhập siêu. Mặc dù có những dấu hiện tích cực, song tính bền vững còn hạn chế. Việc Chính phủ đặt trọng tâm vào việc tái cơ cấu nền kinh tế, xử lý các nút thắt hiện nay về cơ sở hạ tầng, về vấn đề thể chế, về nguồn nhân lực và các ngành công nghịêp phụ trợ… sẽ tạo nền móng để VN tiếp tục phát triển ổn định trong thời gian tới ***** PHẦN I GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 1.1/ Tổng quan về Ngân hàng Công Thương Việt Nam 1.1.1/ Lịch sử hình thành Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank), tiền thân là Ngân hàng Công thương Việt Nam, được thành lập dưới tên gọi Ngân hàng chuyên doanh Công thương Việt Nam theo Nghị định số 53/NĐ-HĐBT ngày 26 tháng 03 năm 1988 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức bộ máy NHNNVN và chính thức được đổi tên thành “Ngân hàng Công thương Việt Nam” theo quyết định số 402/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ngày 14 tháng 11 năm 1990. Ngày 27 tháng 03 năm 1993, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 67/QĐ-NH5 về việc thành lập NHCTVN thuộc NHNNVN. Ngày 21 tháng 09 năm 1996, được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính Phủ, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 285/QĐ-NH5 về việc thành lập lại NHCTVN theo mô hình Tổng Công ty Nhà nước được quy định tại Quyết định số 90/QĐ-TTG ngày 07 tháng 03 năm 1994 của Thủ tướng Chính Phủ. Ngày 23 tháng 09 năm 2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký quyết định 1354/QĐ-TTG phê duyệt phương án cổ phần hóa Ngân hàng Công thương Việt Nam. Ngày 02 tháng 11 năm 2008, Ngân hàng Nhà nước ký quyết định số 2604/QĐ-NHNN về việc công bố giá trị doanh nghiệp Ngân hàng Công thương Việt Nam. Ngày 25 tháng 12 năm 2008, Ngân hàng Công thương tổ chức bán đấu giá cổ phần ra công chúng thành công và thực hiện chuyển đổi thành doanh nghiệp cổ phần. Ngày 03/07/2009, Ngân hàng Nhà nước ký quyết định số 14/GP-NHNN thành lập và hoạt động Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam. NHTMCP Công thương Việt Nam chính thức hoạt động theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần đầu số 0103038874 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Tp Hà Nội cấp ngày 03/07/2009. Trải qua hơn 20 năm xây dựng và phát triển đến nay, VietinBank đã phát triển theo mô hình ngân hàng đa năng với mạng lưới hoạt động được phân bố rộng khắp trên 56 tỉnh, thành phố trong cả nước, bao gồm 1 Hội sở chính; 3 Sở Giao dịch; 145 chi nhánh; 527 phòng giao dịch; 116 quỹ tiết kiệm; 1042 máy rút tiền tự động (ATM); 5 Văn phòng đại diện; và 4 Công ty con bao gồm Công ty cho thuê tài chính, Công ty cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Công thương (VietinBankSC) và Công ty Bất động sản và đầu tư tài chính Ngân hàng Công thương Việt Nam và Công ty Bảo hiểm Ngân hàng công thương Việt Nam; 3 đơn vị sự nghiệp bao gồm Trung tâm thẻ, Trung tâm Công nghệ thông tin, Trường Đào tạo và Phát triển nguồn nhân lực. Ngoài ra, NHCT còn góp vốn liên doanh vào Ngân hàng Indovina, góp vốn vào 8 công ty trong đó có Công ty cổ phần Chuyển mạch Tài chính quốc gia Việt Nam, Công ty cổ phần Xi măng Hà Tiên, Công ty cổ phần cao su Phước Hòa, Ngân hàng thương mại cổ phần Gia Định, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Công Thương v.v. Ngân hàng hiện tại có quan hệ đại lý với trên 800 ngân hàng, định chế tài chính tại trên 90 quốc gia, vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Theo báo cáo tài chính kiểm toán 2008 của VietinBank, tổng tài sản và lợi nhuận sau thuế của Ngân hàng tương ứng là 193.590 tỷ đồng và 1.804 tỷ đồng. 1.1.2/ Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý (Nguồn: Sơ đồ 1.1: Hệ thống tổ chức của Ngân hàng Công thương  Sơ đồ 1.2: Cơ cấu tổ chức bộ máy và điều hành của Trụ sở chính Sơ đồ 1.3: Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành của Sở giao dịch, Chi nhánh cấp 1, Chi nhánh cấp 2 1.1.3/ Phạm vi lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng bao gồm Huy động vốn: Hoạt động huy động vốn bao gồm nhận tiền gửi của khách hàng bằng nội và ngoại tệ, phát hành
Luận văn liên quan