Nguyên nhân và một số giải pháp trong vận hành nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam

Tiền tệ là một khái niệm dùng để chỉ những gì được chấp nhận làm môi giới trung gian trong trao đổi và là phương tiện thanh toán các khoản nợ. Từ khi ra đời cho đến nay, tiền tệ đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới. Lịch sử phát triển của tiền tệ đã trải qua nhiều hình thái khác nhau nhưng tựu chung lại chúng có cùng một bản chất. Đi kèm với quá trình hình thành và phát triển của tiền tệ hoạt động tài chính ngân hàng cũng đã ra đời và phát triển không ngững và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu được của hoạt động tiền tệ. Ngày nay hệ thống ngân hàng và đặc biệt là Ngân hàng Trung ương thông qua một cơ chế điều chỉnh tiền tệ gọi là “ chính sách tiền tệ “ đã có khả năng kiểm soát được các vấn đề về tiền tệ. Các nhà kinh tế học cũng chưa đưa ra được một định nghĩa chính xác về thế nào là chính sách tiền tệ, tuy nhiên chính sách tiền tệ cũng có thể được coi là những biện pháp mà Ngân hàng Trung ương, ngân hàng có quyền lực cao nhất trong toàn bộ hoạt động ngân hàng và tài chính, sử dụng để đạt những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô để quản lý và điều tiết lượng tiền cung ứng. Ngân hàng Trung ương thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ để thực hiện chức năng là Ngân hàng quốc gia và quản lý vĩ mô của mình. Chính sách tiền tệ là một hệ thống bao gồm các công cụ trực tiếp và gián tiếp nhằm tác động đến hệ thống mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ đó là ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm đầy đủ. Ở Việt Nam sau hơn 10 năm đổi mới chuyển nền kinh tế từ quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã có những bước tiến vô cùng quan trọng. Nói đến nền kinh tế thị trường tức là nói đến một hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ như thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường công nghệ, thị trường sức lao động, thị trường khoa học kỹ thuật công nghệ . và đặc biệt là thị trường tài chính và tiền tệ, một thị trường có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, nó sẽ liên kết chặt chẽ các thị trường với nhau tạo thành một chỉnh thể hữu cơ, bền vững. Ngân hàng Trung ương và hệ thống các ngân hàng sẽ tham gia vào việc đề ra những mục đích những biện pháp, những công cụ hữu hiệu nhất để tạo điều kiện cho chính sách tiền tệ phát huy hiệu quả. Tiền tệ và lưu thông tiền tệ được coi là những mạch máu của nền kinh tế, đó là một thứ dầu bôi trơn để bộ máy kinh tế hoạt động thật hiệu quả. Chính vì những lý do trên mà chính sách tiền tệ là một chính sách đặc biệt quan trọng. Vậy những công cụ của chính sách tiền tệ là gì? Làm thế nào để đạt được những mục tiêu đã đặt ra?

doc40 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1814 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nguyên nhân và một số giải pháp trong vận hành nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I: Giới thiệu chung I. Chính sách tiền tệ. Tiền tệ là một khái niệm dùng để chỉ những gì được chấp nhận làm môi giới trung gian trong trao đổi và là phương tiện thanh toán các khoản nợ. Từ khi ra đời cho đến nay, tiền tệ đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới. Lịch sử phát triển của tiền tệ đã trải qua nhiều hình thái khác nhau nhưng tựu chung lại chúng có cùng một bản chất. Đi kèm với quá trình hình thành và phát triển của tiền tệ hoạt động tài chính ngân hàng cũng đã ra đời và phát triển không ngững và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu được của hoạt động tiền tệ. Ngày nay hệ thống ngân hàng và đặc biệt là Ngân hàng Trung ương thông qua một cơ chế điều chỉnh tiền tệ gọi là “ chính sách tiền tệ “ đã có khả năng kiểm soát được các vấn đề về tiền tệ. Các nhà kinh tế học cũng chưa đưa ra được một định nghĩa chính xác về thế nào là chính sách tiền tệ, tuy nhiên chính sách tiền tệ cũng có thể được coi là những biện pháp mà Ngân hàng Trung ương, ngân hàng có quyền lực cao nhất trong toàn bộ hoạt động ngân hàng và tài chính, sử dụng để đạt những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô để quản lý và điều tiết lượng tiền cung ứng. Ngân hàng Trung ương thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ để thực hiện chức năng là Ngân hàng quốc gia và quản lý vĩ mô của mình. Chính sách tiền tệ là một hệ thống bao gồm các công cụ trực tiếp và gián tiếp nhằm tác động đến hệ thống mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ đó là ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm đầy đủ. ở Việt Nam sau hơn 10 năm đổi mới chuyển nền kinh tế từ quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã có những bước tiến vô cùng quan trọng. Nói đến nền kinh tế thị trường tức là nói đến một hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ như thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường công nghệ, thị trường sức lao động, thị trường khoa học kỹ thuật công nghệ ... và đặc biệt là thị trường tài chính và tiền tệ, một thị trường có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, nó sẽ liên kết chặt chẽ các thị trường với nhau tạo thành một chỉnh thể hữu cơ, bền vững. Ngân hàng Trung ương và hệ thống các ngân hàng sẽ tham gia vào việc đề ra những mục đích những biện pháp, những công cụ hữu hiệu nhất để tạo điều kiện cho chính sách tiền tệ phát huy hiệu quả. Tiền tệ và lưu thông tiền tệ được coi là những mạch máu của nền kinh tế, đó là một thứ dầu bôi trơn để bộ máy kinh tế hoạt động thật hiệu quả. Chính vì những lý do trên mà chính sách tiền tệ là một chính sách đặc biệt quan trọng. Vậy những công cụ của chính sách tiền tệ là gì? Làm thế nào để đạt được những mục tiêu đã đặt ra? Để đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ những mục tiêu trung gian được coi là những nấc thang đưa dần dần tác động của Ngân hàng Trung ương thông quan hàng loạt các công cụ của chính sách này. Công cụ của chính sách tiền tệ được phân ra làm hai loại: Công cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp. Cả hai công cụ này đều có đặc điểm chung đó là có thể tác động đến mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ. Đó là lãi suất, đó là khối lượng tiền cung ứng, đó là khối lượng dự trữ bắt buộc đó là lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng tất cả các mục tiêu đó đều được lựa chọn vì chúng có ưu điểm là có thể đo lượng được, có thể kiểm soát được và quan trọng hơn đó là chúng đều có mối liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng. Hệ thống mục tiêu này bao gồm nhiều chỉ tiêu khác nhau. Vì vậy để đạt được nó cần có những công cụ hỗ trợ đắc lực và hiệu quả. Trong từng giai đoạn khác nhau của nền kinh tế có thể các mục tiêu này sẽ tạm thời thay thế cho nhau. Vì vậy việc linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ sao cho phù hợp nhất với các mục tiêu là vô cùng quan trọng và Ngân hàng Trung ương sẽ là người ra quyết định cuối cùng đối với các công cụ này. Hiện nay, công cụ trực tiếp và gián tiếp của chính sách tiền tệ đó là: Hạn mức tín dụng, nghiệp vụ lãi chiết khấu, dự trữ bắt buộc và hoạt động của Ngân hàng Trung ương trên thị trường tự do này còn gọi là nghiệp vụ thị trường mở. Trong điều kiện thế giới khi nền kinh tế thị trường đã phát triển đa số các nước tiên tiến thường sử dụng các công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, Việt Nam là một nước mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, sự phát triển của hệ thống thị trường chưa được đầy đủ và hoàn thiện vì vậy việc sử dụng các công cụ này trong điều hành chính sách tiền tệ gặp nhiều khó khăn về khách quan cũng như chủ quan đặc biệt là trong giai đoạn giao thời như hiện nay. II. Công cụ của chính sách tiền tệ 1. Công cụ trực tiếp – Hạn mức tín dụng Công cụ của chính sách tiền tệ là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi Ngân hàng Trung ương nhằm tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất. Hạn mức tín dụng là một loại công cụ trực tiếp đó là lãi suất dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương bắt buộc các tổ chư chính sách tín dụng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế đây là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông với công cụ này Ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát được khối lượng tiền trong thời kỳ hoạt động tài chính được điều tiết chặt chẽ, khi đó các công cụ gián tiếp chưa có điều kiện để áp dụng. Trong trường hợp khẩn cấp với sức ép lạm phát tăng cao, lượng tiền cung ứng cần được khống chế trực tiếp và ngay lập tức, Ngân hàng Trung ương kiểm soát tất cả các khoản cho vay lớn của các ngân hàng trung gian, hạn chế cho vay tiêu dùng, cho vay trả chậm, cho vay cầm cố... Tuy nhiên, hạn mức tín dụng chỉ là một giải pháp mang tính chất đối phó tình thế trước những biến động trước mắt. Hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi tính chất hành chính và thiếu linh hoạt của nó. Bên cạnh đó việc qui định hạn mức tín dụng đối với từng loại Ngân hàng trung gian là không giống nhau, điều này tuỳ thuộc vào định hướng phát triển và mục tiêu điều hành của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ vì vậy đôi khi tác dụng của nó lại đi ngược lại với chiếu hướng của thị trường tín dụng làm cho mức lãi suất biến động bất lợi cho hoạt động kinh tế, giảm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trung gian và các tổ chức tín dụng trong thị trường. Với những hạn chế như vậy, Hạn mức tín dụng chỉ được các Ngân hàng Trung ương sử dụng khi chưa có điều kiện để sử dụng các công cụ khác như các công cụ gián tiếp. ở Việt Nam hệ thống thị trường tài chính tiền tệ chưa phát triển vai trò của các Ngân hàng Trung ương vẫn còn bị hạn chế, mặt khác việc tự do hoá tài chính tiền tệ luôn luôn vấp phải sự can thiệp và điều tiết của Chỉnh phủ. Vì vậy hạn mức tín dụng đã từng là công cụ điều tiết có hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời kỳ lạm phát. Trong điều kiện phát triển hiện nay, công cụ này ngày càng tỏ rõ những mặt yếu kém do mức tín dụng được Ngân hàng Trung ương đưa ra là không có căn cứ và sự lỏng lẻo trong công tác quản lý hạn mức này. Do đó, công cụ trực tiếp sẽ dần dần được thay thế bằng các công cụ gián tiếp để chính sách tiền tệ được thực thi một cách có hiệu quả. 2. Công cụ gián tiếp. a. Dự trữ bắt buộc. Như chúng ta đã biết, hoạt động tài chính ngân hàng là một hoạt động vô cùng cần thiết và quan trọng, đặc biệt trong nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển như ngày nay. An toàn trong kinh doanh tiền tệ sẽ bảo đảm cho hoạt động này được thông suốt. Để đảm bảo cho khả năng thanh khoản bảo đảm cho những rủi ro bất thường trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng Trung ương đã qui định bắt buộc với toàn bộ ngân hàng trung gian một khoản dự trữ gọi là dự trữ bắt buộc dưới dạng tiền gửi hoặc tiền mặt ở Ngân hàng Trung ương. Mỗi ngân hàng trung gian sẽ mở một tài khoản ở Ngân hàng Trung ương, điều này có thể giúp cho việc thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau giữa ngân hàng trung gian và Ngân hàng Trung ương, việc chi trả các khoản phí giao dịch ... Dự trữ bắt buộc bị tác động trực tiếp bởi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đây là tỷ lệ phần trăm tính trên tổng sốdư tiền các loại tại một thời gian nào đó. Dự trữ bắt buộc được sử dụng lần đầu tiên ở Mỹ vào năm 1913, sau những cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài vào những năm 30, nó dần dần được sử dụng phổ biến ở những nước khác và lúc này Ngân hàng Trung ương đã nhận ra rằng dự trữ bắt buộc không chỉ có thể đảm bảo khả năng thanh toán và an toàn cho các ngân hàng trung gian mà nó còn có thể là công cụ để điều tiết trong nền kinh tế. Thông qua việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc Ngân hàng Trung ương có thể tác động vào nguồn dự trữ, vốn khả dụng của các ngân hàng và do vậy nó sẽ làm tăng hay giảm lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Mặc dù lịch sử ra đời của dự trữ bắt buộc là từ những năm đầu của thế kỷ 20, nhưng ở nhiệm vụ mới chỉ bắt đầu làm quen với khái niệm này vào năm 1990. Tháng 5/1990, sau khi hai Pháp lệnh ngân hàng được ban hành thì các ngân hàng bắt đầu thực hiện qui chế dự trữ bắt buộc. Theo Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tính trên số dư tiền gửi của các tổ chức, các cá nhân ở các ngân hàng, tuỳ theo từng thời kỳ khác nhau mà tỷ lệ này sẽ được qui định khác nhau trong phạm vi từ 10 – 35%. Trong giới hạn này dự trữ bắt buộc không được trả lãi, còn nếu vì một lý do nào đó và nhằm một mục đích nhất định, thống đốc Ngân hàng nhà nước có thể ra quyết định nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên cao hơn 35%, phần chênh lệch lớn hơn 35% sẽ được ngân hàng nhà nước trả lãi. Trên thực tế tỷ lệ này thường là 10%, tuy nhiên việc áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng khác nhau trong từng thời kỳ và với từng loại tiền gửi khác nhau. Ví dụ như từ tháng 5/1990 đến tháng 3/1994 tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% cho tất cả các loại tiền gửi nhưng theo Quyết định 261 – QĐ/NH1 ngày 19/09/1995, tỷ lệ 10% chỉ áp dụng cho loại tiền gửi 12 tháng trở xuống. Giữa 2 thời kỳ này từ tháng 5/1994 đến tháng 9/1995 tỷ lệ dự trữ bắt buộc có sự phân biệt cho 2 loại tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở xuống và tiền gửi không kỳ hạn (1). Hay giả như năm 1999 là năm vô cùng khó khăn đối với nền kinh tế nước ta, mặc dù sau 1 Tạp chí KH và đào tạo Ngân hàng số 3 ( 5+ 6/2000 ) cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á ( từ năm 1997) các nước này đã có những dấu hiệu hồi phục nhanh chóng, nhưng Việt Nam lại rơi vào tình trạng kinh tế suy thoái. Để thực hiện mục tiêu nới lỏng tiền tệ nhằm kích cầu tạo đà phát triển kinh tế, ngân hàng nhà nước đã thực hiện việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng – 1999 (2 ) Tổ chức tín dụng Tỷ lệ dự trữ bắt buộc (%) 1/1/99 1/3/99 1/6/99 1/7/99 1/10/99 1. NHTM quốc doanh, NHTMCP đô thị 10 7 6 6 5 Chi nhánh NH nước ngoài, NH liên doanh và công ty tài chính NHNN và phát triển nông thôn Việt Nam 10 7 6 5 3 2. NHTMCP nông thôn, Ngân hàng hợp tác, QTND trung ương, QTDND khu vực 0 5 4 1 1 3. KTD có số dư tiền gửi phải tính DTBB dưới 500 triệu đồng, QTDN cơ sở, HTX tín dụng, NH phục vụ người nghèo 0 0 0 0 0 Như vậy rõ ràng công cụ dự trữ bắt buộc là công cụ ảnh hưởng rất mạnh đến lượng tiền cung ứng do vậy việc qui định tỷ lệ dự trữ bắt buộc dựa trên những cơ sở và yếu tố nào để bảo đảm rằng tỷ lệ đó là thích hợp nhất. Trước tiên điều đó phải xuất phát từ mục tiêu của chính sách tiền tệ. Mục tiêu của chính sách tiền tệ sẽ qui định mức độ cung ứng tiền, quy định cách quản lý điều tiết tiền, đây là yếu tố quyết định nhất đến việc qui định này. Mục tiêu của chính sách tiền tệ trước tiên sẽ là điều chỉnh cơ cấu và khối lượng tiền trong lưu thông sao cho hợp lý nhất và từ đó cách quản lý tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tỷ lệ đó sẽ được xác định một cách tối ưu và hiệu quả. Thứ đến đó là qui mô hoạt động của các tổ chức tín dụng khi sử dụng dự trữ bắt buộc trong điều tiết của Ngân hàng Trung ương người ta coi đây là một thứ thuế đánh vào các tổ chức tín dụng. Xét trên một khía cạnh nào đó dự trữ bắt buộc được coi như một khoản thuế là quan niệm có thể chấp nhận được, vì hầu hết các khoản dự trữ bắt buộc đều không được trả lãi. Vì vậy nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng nhỏ giảm mức độ gánh nặng của dự trữ bắt buộc, người ta thường căn cứ vào qui mô tiền gửi của các ngân hàng để định ra tỷ lệ dự trữ cho từng loại hình tổ chức tín dụng. Hiện nay các tổ chức tín dụng thực hiện dự trữ bắt buộc theo Quyết định số 51/1999/QĐ-NHNN1 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam ngày 10/02/1999. Nhóm các Ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh và công ty tài chính được áp dụng tỷ lệ 5% trên tổng số dư tiền gửi dưới 12 tháng. Cũng với loại tiền gửi này tỷ lệ áp dụng cho các tổ chức tín dụng còn lạ là 1% và 0% (1).1 Tạp chí Khoa học và đào tạo Ngân hàng số 3 ( 5 + 6/2000 ) Ngày nay các công cụ điều hành chính sách tiền tệ đã được củng cố và mở rộng, hoàn thiện và phát huy vai trò kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng nhà nước. Vì vậy dự trữ bắt buộc không còn là công cụ mang lại hoạt động cao nhất, trong việc điều hành chính sách tiền tệ từ đó việc qui định tỷ lệ dự trữ bắt buộc thực chất đó là việc xác lập một tỷ lệ sao cho nó có thể kết hợp với các khác thật nhịp nhàng trong điều tiết lượng tiền cung ứng và mức lãi suất hợp lý trên thị trường. Ngoài ra chúng ta cũng cần xét đến tính ổn dịnh của các loại tiền gửi. Vì sao? Vì rằng mặc dù dự trữ bắt buộc được sử dụng với mục tiêu chính là công cụ của chính sách tiền tệ song ở một chừng mực nào đó nó vẫn mang một ý nghĩa về thanh khoản. Do cách tính dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm qui định trên số dư tiền gửi bình quân ngày trong một thời kỳ nào đó cho nên khi cần thiết các ngân hàng có nhu cầu sử dụng tiền thì họ vẫn có thể để số dự trữ bắt buộc của mình trên tài khoản ở Ngân hàng Trung ương bằng 0. Tiền gửi của khách hàng với hệ thống ngân hàng trung gian có thể coi là có thể rút bất kỳ lúc nào. Vì vậy không thể tách rời giữa dự trữ và khả năng bảo đảm thanh khoản của các ngân hàng và cũng vì vậy tính ổn định của các loại tiền gửi cũng là yếu tố cần xem xét khi các định mức dự trữ cần thiết. Trên đây là một số căn cứ cần thiết để các Ngân hàng Trung ương có thể dựa vào đó để đưa ra tỷ lệ dự trữ áp dụng cho cả hệ thống ngân hàng. Từ khi dự trữ bắt buộc được đưa vào sử dụng Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều quyết định, chính sách về vấn đề này. Cách quản lý dự trữ bắt buộc trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng có những đổi thay đáng ghi nhận. Từ chỗ việc quản lý một cách cứng nhắc khoản dự trữ bắt buộc trên tài khoản riêng tại Ngân hàng nhà nước, các tổ chức tín dụng không được phép sử dụng kể cả những khi cần đến nay cách quản lý của chúng ta đã linh hoạt hơn nhiều. Các tổ chức tín dụng có quyền sử dụng dự trữ bắt buộc vào hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng nhà nước quản lý dự trữ theo đơn vị thời gian. Do đó công cụ dự trữ bắt buộc là công cụ của chính sách tiền tệ được Ngân hàng nhà nước Việt Nam sử dụng có hiệu quả. Tuy nhiên, khi xã hội ngày càng phát triển càng có nhiều loại công cụ mới ra đời nhằm đáp ứng những điều kiện hiện nay tốt hơn. Tuy rằng những công cụ đó không thể thay thế hoàn toàn được dự trữ bắt buộc nhưng nó cũng đã phần nào khắc phục được những hạn chế của công cụ này như tác động của công cụ dự trữ bắt buộc đến khối lượng tiền cung ứng là rất mạnh, chỉ cần một phần trăm thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tính trên tổng số dư tiền gửi bình quân ngày mức dự trữ sẽ thay đổi đáng kể và dẫn đến sự thay đổi theo cấp số nhân của lượng tiền cung ứng. Điều này làm cho công cụ dự trữ bắt buộc trở nên thiếu linh hoạt vì nếu cứ thay đổi thường xuyên sẽ gây nên sự rối loạn mới ổn định cho hoạt động của các Ngân hàng. Đi kèm theo đó là khoản chi phí cho các biến động cũng tăng theo. Vì vậy công cụ này thường được sử dụng kết hợp với các công cụ khác nhằm điều chỉnh lượng vốn khả dụng của ngân hàng khi cần thiết. b. Chính sách tái chiết khấu Về thực chất chính sách tái chiết khấu là toàn bộ các qui định và điều kiện cho vay của Ngân hàng Trung ương đối với các ngân hàng thương mại là một hệ thống có hoạt động cung cấp một lượng vốn lớn đáp ứng nhu cầu của xã hội bằng cách đi huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư. Họ sẽ nhận tiền gửi và lấy khoản tiền đó cho người có nhu cầu cần vay người ta gọi đó là hoạt động tín dụng đối với nền kinh tế. Tuy nhiên khi tiến hành kinh doanh trong điều kiện cơ chế thị trường không phải ngân hàng nào cũng có thể hoạt động một cách trôi chảy do điều kiện cạnh tranh giữa ngân hàng này và ngân hàng khác. Nhiều khi có những biến động bất thường mà các ngân hàng chưa hoặc không thể xoay sở kịp vốn hoặc dự trữ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng lúc đó các ngân hàng này buộc phải đi tìm nguồn vốn bổ sung từ các ngân hàng khác hoặc từ Ngân hàng Trung ương để bảo đảm kinh doanh. Trên cơ sở các ngân hàng thương mại yêu cầu mình cho vay khoản tiền nào đó, ngân hàng trung ương sẽ xem xét và đưa ra quyết định có cho các Ngân hàng thương mại vay hay không. ở Mỹ, quỹ dự trữ liên bang (Fed) cấp cho các ngân hàng 3 loại cho vay chiết khấu. Tín dụng điều chỉnh, tín dụng thời vụ và tín dụng mở rộng. Cho vay tín dụng điều chỉnh, một loại thông dụng nhất nhằm giúp các ngân hàng giải quyết vấn đề khả năng hoàn trả ngắn hạn do tiền gửi bị tạm thời rút ra. Tín dụng điều chỉnh được cấp bằng một cú điện thoại sẽ được hoàn trả khá nhanh chóng – vào cuối ngày làm việc sau đối với các ngân hàng lớn. Tín dụng thời vụ được cấp để đáp ứng các nhu cầu thời vụ của một số ít ngân hàng đang nghỉ và của những vùng nông nghiệp hoạt động theo thời vụ. Tín dụng mở được cấp cho các ngân hàng bị khó khăn nghiêm trọng về khả năng hoàn trả do tiền gửi bị rút ra thì kh1 Tiền tệ, ngân hàng, thị trường tài chính – Federic – S.Mishkin ông yêu cầu phải hoàn trả nhanh chóng ngay (1). Chính sách tái chiết khấu do Ngân hàng Trung ương qui định với mục đích kiểm soát được vốn mình cho vay, tránh cho khoản vốn vay đó không để bị sử dụng sai mục đích. Vì mỗi một khoản vay sẽ làm cho lượng vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại tăng lên và tương ứng là mức cung tiền trong lưu thông cũng sẽ tăng lên. Như vậy khả năng kiểm soát tiền tệ sẽ gặp khó khăn nếu Ngân hàng Trung ương không hạn chế các khoản vay đó. Ngoài ra chính sách này cũng có hiệu ứng thông báo đối với các ngân hàng khi Ngân hàng Trung ương đưa ra mức lãi suất tái chiết khấu của mình. Nhìn vào mức lãi suất và điều kiện tái chiết khấu, các ngân hàng có thể dự đoán được mục tiêu sắp tới, hướng điều hành của chính sách tiền tệ trong thời gian tới, nó sẽ tự điều chỉnh hoạt động của mình để tránh những khó khăn có thể vấp phải trong tương lai. Chính sách tái chiết khấu không những thể hiện được vai trò của Ngân hàng Trung ương trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng mà nó còn thể hiện vị trí không thể thiếu được của Ngân hàng Trung ương trong hệ thống ngân hàng đó là cứu cánh cho vay cuối cùng. Khi cho vay thông qua tái chiết khấu Ngân hàng Trung ương là người cuối cùng có thể cung cấp dự trữ cho hệ thống ngân hàng khi các sự phá sản của ngân hàng đe doạ thoát khỏi sự kiểm soát do đó mà ngăn chặn xảy ra những cuộc sụp đổ ngân hàng và tài chính. ở Việt Nam chính sách tái chiết khấu cũng đã được sử dụng trong điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên nó không được sử dụng như là một công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ mặc dù pháp luật về ngân hàng và các tổ chức tín dụng đã có những qui định hướng dẫn trong điều 57 về chiết khấu tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Nguyên nhân chủ chốt của vấn đề này đó là ở Việt Nam chưa hội đủ những điều kiện để có thể tiến hành hoạt động này. Trước tiên đó là hoạt động chiết khấu thương phiếu của các ngân hàng thương mại còn hạn hẹp từ khi có quyết định số 198/QĐ-NH5 ngày 16/09/1994 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành thể lệ tín dụng ngắn hạn cũng đã có quy định về “ chiết khấu chứng từ có giá” nhưng cho đến nay nghiệp vụ này của ngân hàng thương mại hầu như không đáng kể, chủ yếu chỉ là mua các tín phiếu, trái phiếu ngắn hạn c
Luận văn liên quan