Những chính sách cơ bản nhằm nâng cao vai trò chủ đạo và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp

Chúng ta đã biết nền kinh tế nước ta đã và đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường (nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần), vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong quá trình sau hơn 10 năm đổi mới, chúng ta đã gặp không ít nhữmg khó khăn thử thách, song với sự cố gắng của Đảng, Nhà nước và nhân dân chúng ta đã đần vượt qua được thử thách, khó khăn đó và đã vượt được nhiều thành tựu về kinh tế, chính trị. Điều đó đã đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng khoảng kinh tế xã hội, mặc dù vậy, trong giai đoạn hiện nay để phát triển kinh tế chúng ta cũng cần phải vượt qua nhiều khó khăn thử thách. Do vậy là một sinh viên trường kinh tế. Em rất muốn biết cơ chế quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng như thế nào? Các doanh nghiệp trong thởi kỳ đổi mới hiện nay làm thế nào để hoạt động có hiệu quả? Bởi vì trước đây hầu hết các doanh nghiệp nước ta hoạt động theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của Nhà nước - Cơ chế quản lý tập trung. Chính vì vậy việc sản xuất ra cái gì, số lượng bao nhiêu, phân phối sản phẩm dó như thế nào điều do Nhà nước quyết định và sự hoạt động kém hiệu quả của các doanh nghiệp dẫn đến thua lỗ thì Nhà nước bù. Trong giai đoạn hiện nay - kinh tế thị trường điều đó không còn nữa, việc sản xuất ra cái gì, số lượng bao nhiêu, phân phối sản phẩm đó như thế nào đều bắt đầu từ phía doanh nghiệp mà việc đó lại bắt nguồn từ nhu cầu của mọi người (nhu cầu của mọi người được biểu hiện thông qua thị trường ). Song không phải chỉ có vậy, mà vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là làm thế nào để đạt được điều đó? Đồng thời thu được lợi nhuận cao và mở rộng sản xuất. Điều này lại đặt ra vấn đề đối với các doanh nghiệp là vốn, việc huy động vốn và sử dụng vốn thế nào cho có hiệu quả?

doc34 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1573 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những chính sách cơ bản nhằm nâng cao vai trò chủ đạo và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Chúng ta đã biết nền kinh tế nước ta đã và đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường (nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần), vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong quá trình sau hơn 10 năm đổi mới, chúng ta đã gặp không ít nhữmg khó khăn thử thách, song với sự cố gắng của Đảng, Nhà nước và nhân dân chúng ta đã đần vượt qua được thử thách, khó khăn đó và đã vượt được nhiều thành tựu về kinh tế, chính trị. Điều đó đã đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng khoảng kinh tế xã hội, mặc dù vậy, trong giai đoạn hiện nay để phát triển kinh tế chúng ta cũng cần phải vượt qua nhiều khó khăn thử thách. Do vậy là một sinh viên trường kinh tế. Em rất muốn biết cơ chế quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng như thế nào? Các doanh nghiệp trong thởi kỳ đổi mới hiện nay làm thế nào để hoạt động có hiệu quả? Bởi vì trước đây hầu hết các doanh nghiệp nước ta hoạt động theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của Nhà nước - Cơ chế quản lý tập trung. Chính vì vậy việc sản xuất ra cái gì, số lượng bao nhiêu, phân phối sản phẩm dó như thế nào điều do Nhà nước quyết định và sự hoạt động kém hiệu quả của các doanh nghiệp dẫn đến thua lỗ thì Nhà nước bù. Trong giai đoạn hiện nay - kinh tế thị trường điều đó không còn nữa, việc sản xuất ra cái gì, số lượng bao nhiêu, phân phối sản phẩm đó như thế nào đều bắt đầu từ phía doanh nghiệp mà việc đó lại bắt nguồn từ nhu cầu của mọi người (nhu cầu của mọi người được biểu hiện thông qua thị trường ). Song không phải chỉ có vậy, mà vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là làm thế nào để đạt được điều đó? Đồng thời thu được lợi nhuận cao và mở rộng sản xuất. Điều này lại đặt ra vấn đề đối với các doanh nghiệp là vốn, việc huy động vốn và sử dụng vốn thế nào cho có hiệu quả? Nội dung I. Tuần hoàn tư bản. 1.Ba giai đoạn vận động và sự biến hoá hình thái của tư bản trong quá trình vận động của nó. Chúng ta đã biết tư bản luôn luôn vận động và trong quá trình vận động của nó lớn lên không ngừng. Quá trình vận động tuần hoàn của tư bản diễn ra qua 3 giai đoạn và tương ứng với nó là 3 hình thái của tư bản tronmg quá trình vận động. a- Giai đoạn thứ nhất T- H Trong giai đoạn này tư bản tư bản tiền tệ biến thành hàng hoá T-H. Đối với người mua đó là biến tiền thành hàng, đối với người bán thì đó là biến hàng thành tiền, ở đây hàng hoá mua bán không phải chỉ là hàng hoá thông thường, mà là hàng hoá phục vụ cho quá trình sản xuất. Tiền ở giai đoạn này được sử dụng để mua các yếu tố sản xuất được thực hiện thì nhà tư bản trút bỏ hình thức tiền tệ và mang hình thức hiện vật tức là tư bản sản xuất, với hình thức hiện vật nó không thể tiếp tục quá trình lưu thông được bởi vì nhà tư bản không ter đem bán công nhân như hàng hoá được do công nhân chỉ bán sức lao động trong một thời gian chứ không là nô lệ của nhà tư bản. Chính vì vậy tư liệu sản xuất và sức lao động phải được tiêu dùng sản xuất. Tư liệu sản xuất và sức lao động chính là hình thái tồn tại của tư bản và là yếu tố hợp thành cơ bản của quá trình sản xuất xã hội. sản xuất là sự kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động. Trong chủ nghĩa tư bản thì tư liệu sản xuất và sức lao động chỉ kết hợp với nhau khi mà tư bản mua về trở thành hình thái tồn tại của tư bản, trở thành tư bản sản xuất. Như vậy sự kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động của nhà tư bản đã tạo cho họ có được một hàng hoá mới mà giá trị của chúng lớn hơn giá trị của những nhân tố dùng đẻ sản xuất ra số hàng hoá đó H' = H + h. Trong giai đoạn này tư bản trút bỏ hình thái tư bản sản xuất để chuyển sang tư bản hàng hoá . b- Giai đoạn thứ hai: H.... SX ....H' Giai đoạn thứ nhất được thực hiện thì qua trình mua các yếu tố sản xuất được thực hiện thì nhà tư bản trút bỏ hình thức tiền tệ và mang hình thức hiện vật tức là tư bản sản xuất, với hình thức hiện vật đó nó không thể tiếp tục quá trình lưu thông được bởi vì nhà tư bản không thể đem bán công nhân như hàng hoá được do công nhân chỉ bán sức lao động trong một thời gian chứ không là nô lệ của nhà tư bản. Chính vì vậy tư liệu sản xuất và sức lao động phải được tiêu dùng sản xuất. Tư liệu sản xuất và sức lao động chính là hình thái tồn tại và tư bản và là yếu tố hợp thành cơ bản của quá trình sản xuất xã hội. sản xuất là sự kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động. Trong chủ nghĩa tư bản thì tư liệu sản xuất và sức lao động chỉ kết hợp với nhau khi nhà tư bản mua về, trở thành hình thái tồn tại của tư bản, trở thành tư bản sản xuất. Như vậy sự kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động của nhà tư bản đã tạo cho họ có được một hàng hoá mới mà giá trị của chúng lơn hơn, giá trị của những nhân tố dùng để sản xuất ra số hàng hoá đó H' = H + h Trong giai đoạn này tư bản trút bỏ hình thái tư bản sản xuất để chuyển sang tư bản hàng hoá. b- Giai đoạn thứ ba H' - T'. Hàng hoá được tạo ra ở giai đoạn không phải chỉ có giá trị tư bản ứng trước mà do nó còn chứa đựng cả giá trị thặng dư ở trong đó H' = H + h. Khi hàng hoá, khi nó được bán đi tức là đã chuyển hoá thành tiền (H' - T'). Trong giai đoạn này tư bản lại xuất hiện trên thị trường với tư cách là người bán nhưng khác với giai đoạn thứ nhất tư bản chỉ xuất hiện trên một thị trường duy nhất đó là thị trường hàng hoá thông thường. Bán H' lấy T' tức là T' đã tăng lên vì nó đã mang thêm giá trị thặng dư: T' = T + t Như vậy giai đoạn III là giai đoạn biến tư bản hàng hoá thành tư bản tiền tệ toàn bộ quá trình vận động của tư bản có thể tóm lại như sau. Sau vận động của tư bản T - H..... SX ... H' - T' là sự vận động có tính chất tuần hoàn. Từ hình thái tiền ban đầu tuần hoàn quy lại hình thái tiền cuối tuần hoàn, quá trình đó được lập đi lặp lại và không ngừng được đẩy nhanh tốc độ tuần hoàn. Quá trình tuần hoàn của tư bản trải qua ba giai đoạn và trong mỗi giai đoạn tư bản tồn tại dưới một hình thức và thực hiện một số chức năng nhất định. ở giai đoạn I: Tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản tiền tệ và chức năng của nó là mua hàng. ở giai đoạn II: Tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản sản xuất và chức năng của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư. ở giai đoạn III: Tư bản tồn tại dưới hình thức hàng hoá và chức năng của nó là thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. Vận động của tư bản là một chuỗi biến hoá hình thái của tư bản. Điều đó cho ta thấy rõ ràng: tư bản không phải là một vật mà là một quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất. Trong quá trình vận động nó tồn tại dưới hình thức là vật. Hơn nữa tư bản là một quan hệ sản xuất khác với quan hệ sản xuất hàng hoá. Nó chỉ lấy các phạm trù của kinh tế hàng hoá, lấy hàng hoá và tiền làm hình thái tồn tại của mình. Về tuần hoàn của tư bản là sự biến chuyển liên tiếp của tư bản qua ba giai đoạn, trải qua ba hình thái, thực hiện ba chức năng tương ứng để trở về hình thái ban đầu với lượng lớn hơn. Trong ba giai đoạn vận động tuần t\hoàn của tư bản thì giai đoạn I và giai đoạn III diễn ra trong quá trình lưu thông thực hiện chức năng mua các yếu tố sản xuất và bán hàng hoá có chứa đựng giá trị thặng dư, giai đoạn II diễn ra trong quá trình sản xuất, thực hiện chức năng sản xuất giá trị và giá trị thặng dư. Do vậy giai đoạn II có tính chất quyết định vì chỉ trong giai đoạn đó mới sáng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, tuy nhiên quá trình lưu thông thì không thể có lái sản xuất tư bản chủ nghĩa, do đó tư bản cũng không thể tồn tại được. Trong quá trình vận động tuần hoàn của tư bản thời kỳ lưu thông và thời kỳ sản xuất không dung hoà nhau, trong thời kỳ lưu thông, tư bản không làm chức năng tư bản sản xuất do đó không sản xuất ra hàng hoá mà cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư. Trong quá trình tuần hoàn của tư bản thì chừng nào quá trình lưu thông còn kéo dài thì chừng đó quá trình sản xuất còn bị ngừng lại và do đó sự tăng thêm giá trị của tư bản cũng được ngừng lại. Thời kỳ lưu thông dài hay ngắn sẽ làm cho quá trình sản xuất lặp đi lặp lại nhanh hay chậm và ngược lại, sự thu hẹp hay kéo dài thời gian tư bản nằm lại ở mỗi giai đoạn đều ảnh hưởng tới hậu quả của tư bản. Sự vận động của tư bản tiến hành được bình thường khi các giai đoạn của nó diễn ra liên tục, các hình thác của tư bản cũng tồn tại và được chuyển hoá hình thái một cách đều đặn, mỗi một sự ách tắc, giãn đoạn ở một giai đoạn nào đó đều gây rối loạn hay ngừng trệ cho sự vận động tư bản. Nếu ngừng trệ ở giai đoạn I thì tiền tệ không thể chuyển thành hàng hoá và sẽ không có các điều kiện để sản xuất hàng hoá. Nếu ngưng trệ ở giai đoạn II thì hàng hoá sẽ không bán được, lưu thông sẽ bế tắc. Trong các loại tư bản chỉ có tư bản công nghiệp (với nghĩa các ngành sản xuất vật chất) mới có hình thái "tuần hoàn đầy đủ gồm 3 giai đoạn trong cùng một lúc: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất là tư bản hàng hoá. Tư bản lần lượt mang lấy và trút bỏ ba hình thái của nó. Tư bản công nghiệp là hình thái tư bản duy nhất không chỉ chiếm đoạt giá trị thặng dư mà còn tạo ra giá trị thặng dư. 2- Các hình thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Trong sự vận động liên tục của tư bản công nghiệp, mỗi hình thái của tư bản đều có thể làm điểm mở đầu và kết thúc của tuần hoàn, tạo nên các hình thái tuần hoàn khác nhau của tư bản chủ nghĩa. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ: T - H ..... SX ... H' - T' Tuần hoàn của tư bản tiền tệ: SX ... H'... T' - H... sản xuất Tuần hoàn của tư bản hàng hoá : H' - T' ... SX ... H" 2.1. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ: T - H ... SX ... H' - T' 2.1.1. Giai đoạn 1: T - H ở phần trước ta đã biết nhà tư bản đem tiền của mình dến thị trường sức lao động để mua sức lao động, đến thị trường hàng hoá thông thường để mua tư liệu sản xuất: SLD T TLSX Như vậy T - H TLSX không chỉ biểu thị một quan hệ về vật chất tiêu biểu cho sự chuyển hoá của một số tiền nhất định thành tư liệu sản xuất và sức lao động thích ứng với nhau mà còn biểu thị một quan hệ về lượng giữa cái phần tiền bỏ ra mua tư liệu sản xuất và cái phần tiền bỏ ra mua sức lao động quan hệ về lượng này đã được quyết định trước bởi tổng số lao động thặng dư tức là lao động làm đôi ra mà một số công nhân nhất định phải bỏ ra. Đối với hành vi T - TLSX: căn cứ vào kinh doanh cụ thể phải tính toán thể nào để mua tư liệu sản xuất để sử dụng hết số công nhân thuê được nếu thiều thì không có công nhân làm quyền sủ dụng lao động thặng dư trở thành vô ích đối với nhà tư bản, ngược lại nếu thiếu công nhân thì tư liệu sản xuất sẽ không biến thành sản phẩm được. Yếu tố đặc trưng trong sự chuyển hoá từ tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất đó chính là T - SLD vì nó là điều kiện căn bản để cho giá trị ứng ra dưới hình thái tiền được thực tế chuyển hoá thành tư bản, thành giá trị để gia giá trị thặng dư T - TLSX chỉ cần thiết để thực hiện khối lượng đã mua được do hành vi T - SLĐ T - SLĐ được coi là đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vì hình thái của nó, vì dưới hình thái tiền công, lao động được mua bằng tiền, cái đặc trưng không phải ở chỗ hàng hoá - sức lao động là để bán là ở chỗ sức lao động sản xuất hiện thành hàng hoá. Vậy có thể nói điều kiện thứ nhất để công thức tuần hoàn của tư bản tiền tệ thực hiện là sự tồn tại thường xuyên của giai cấp công nhân làm thuê, nên công thức đó giả thiết có hình thái tuần hoàn của tư bản sản xuất. 2.1.2. Giai đoạn H: H... SX ... H'. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ bắt đầu bằng hành vi T - H tức là sự chuyển hoá tiền thành hàng, do đó hành vi này cần được bổ sung bằng sự biến hoá hình thái ngược lại H - T là sự chuyển hoá hàng thành tiền nhưng kết quả hành vi. T - H SLD TLSX Như vậy T - H -TLSX không chỉ biểu thị một quan hệ về vật chất tiêu biểu cho sự chuyển hoá của một số tiền nhất định thành tư liệu sản xuất và sức lao động thích ứng với nhau mà còn biểu thị một quan hệ về lượng giữa cái phần tiền bỏ ra mua tư liệu sản xuất và cái phần tiền bỏ ra mua sức lao động quan hệ về lượng này đã được quyết định trước bởi tổng số lao động thặng dư tức là lao động làm dôi ra mà một số công nhân nhất định phải bỏ ra. Đối với hành vi T - TLSX: căn cứ vào kinh doanh cụ thể phải tính toán thế nào để mua tư liệu sản xuất để sử dụng hết số công nhân thuê được nếu thiếu thì không có công nhân làm quyền sử dụng lao động thặng dư trở thành vô ích đối với nhà tư bản, ngược lại nếu thiếu công nhân thì tư liệu sản xuất sẽ không biến thành được. Yếu tố đặc trưng trong sự chuyển hoá từ tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất đó chính là T - SLĐvì nó là điều kiện căn bản để cho giá trị để ra giá trị thặng dư T - TLSX chỉ cần thiết để thực hiện khối lượng đã mua được do hành vi T - SLĐ T - SLĐ được coi là đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vì hình thái của nó, vì dưới hình thái tiền công, lao động được mua bằng tiền, cái đặc trưng không phải ở chỗ hàng hoá - sức lao động là để bán mà là ở chõ sức lao động xuất hiện thành hàng hoá. Vậy có thể nói điều kiện thứ nhất để công thức tuần hoàn của tư bản tiền tệ thực hiện được là sự tồn tại thường xuyên của gia cấp công nhân làm thuê, nên công thức đó giả thiết có hình thái tuần hoàn của tư bản tiền tệ thực hiện được là sự tồn tại thường xuyên của giai cấp công nhân làm thuê, nên công thức đó giả thiết có hình thái tuần hoàn của tư bản sản xuất. 2.1.2. Giai đoạn II: H - SX ... H' Tuần hoàn của tư bản tiền tệ bắt đầu bằng hành vi T - H tức là sự chuyển hoá tiền thành hàng, do đó hành vi này cần được bổ sung bàng sự chuyển biến hoá hình thái ngược lại H - T tức là sự chuyển hoá hàng thành tiền nhưng kết quả của hành vi T - H SLĐ và LSX là làm cho lưu thông của giá trị tư bản ứng ra dưới hình thức tiền bị đứt quãng. Do sự chuyển hoá tư bản thành tư bản sản xuất giá trị tư bản mang hình thái hiện vật dưới hình thái này nó không thể tiếp tục lưu thông được nữa mà phải đi vào sự tiêu dùng sản xuất, việc dùng sức lao động chỉ có thể thực được trong quá trình lao động. Như vậy kết quả của giai đoạn thứ nhất là bước đầu của giai đoạn thứ hai đường chấm trong công thức này chỉ ra rằng lưu thông của tư bản bị gián đoạn nhưng quá trình tuần hoàn của tư bản vẫn tiếp tục vì nó đi từ lĩnh vực lưu thông vào lĩnh vực sản xuất. Do đó giai đoạn thứ nhất, sự chuyển hoá từ tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất chỉ là cái đi trước và là giai đoạn mở đầu cho giai đoạn thứ hai, tức là cho sự hoạt động của tư bản sản xuất. Sản phẩm mà các nàh tư bản thu được không phải chỉ là hàng hoá mà còn là hàng hoá đã mang trong mình giá trị thặng dư. 2.1.3. Giai đoạn III: H - T" ở giai đoạn này tư bản trút bỏ hình thức tư bản sản xuất để chuyển sang hình thác hàng hoá, hàng hoá được tạo ra ở giai đoạn này lớn hơn lượng hàng hoá đã ứng trước vì nó đã có giá trị thặng dư ở trong đó, do đó H' = H + h nếu dùng t để chỉ hiểu hiện bằng tiền của h thì tuần hoàn T - H ... SX ... H' sẽ mang hình thái đầy đủ là: TLSX T - H ... SX ... (H + h) - (T + t) SLĐ ở giai đoạn I mà tư bản mua những yếu tố của quá trình sản xuất ở trên hai thị trường đó là thị trường hàng hoá thông thường và thị trường sức lao động. Còn ở trong giai III nhà tư bản ném hàng hoá trở lại thị trường nhưng chỉ ném vào một thị trường duy nhất đó là thị trường hàng hoá thông thường và lượng hàng hoá mà nhà tư bản ném ra thị trường có giá trị lớn hơn giá trị mà như nhà tư bản đã rút ở thị trường ra. Sở dĩ nhà tư bản ném được vào thị trường cái giá trị đã tăng lên ấy chỉ là vì trong quá trình sản xuất nhờ bóc lột sức lao động mà như nhà tư bản đã tạo ta giá trị thặng dư, chỉ khi nào là sản phẩm của quá trình ấy khối lượng hàng hoá mới là tư bản hàng hoá. Kết luận: T mở đầu hành vi lưu thông đầu tiên của nó với tư cách là tư bản tiền tệ và mở lại cũng dưới hình thái ấy bằng hành vi H - T. Như thế là nó đã thông qua 2 giai đoạn lưu thông đối lập đó là T - H và H - T và một lần nữa lại quay về hình thái làm cho nó có thể bắt đầu lại cũng một quá trình tuần hoàn ấy. Như vậy tuần hoàn của tư bản tiền tệ có thể viết gọn là T - T'. Mở đầu và kết thúc tuần hoàn đều là tiền. Hàng hoá hay sản xuất chỉ là những yếu tố trung gian để tiền đẻ ra tiền. Trong T - T' mọi quá trình trung gian đều biến mất, quan hệ bóc lột của tư bản với lao động làm thuê bị che dấu. Trở lại với công thức vận động của tư bản tiền tệ ta thấy bản thân công thức đã nói lên rằng: Tiền không bị tiêu đi như tiêu tiền mà chỉ được ứng trước, thành như tiền chỉ là hình thái của tư bản tức là tư bản tiền tệ. Công thức đó còn nói lên rằng mục đích quyết địn cuộc vận động là giá trị trao đổi chứ không phải là giá trị sử dụng. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ chính là hình thái phiến diện nhất và chính do đó mà nó là hình thái nổi bật nhất, đặc trưng nhất của tuần hoàn của tư bản công nghiệp mà mục tiêu và động cơ là làm tăng giá trị, làm đem lại giá trị thặng dư. Hơn nữa, giá trị thặng dư lại biểu hiện dưới hình thái chói lọi nhất của nó là hình thái tiền. Bởi vậy T - T' là hình thái biểu hiện phiến diện nhất nhưng cũng đặc trưng nhất cho sự vận động của tư bản. 2.2. Tuần hoàn của tư bản sản xuất ... H' - T' - T ... SX. Mở đầu và kết thúc tuần hoàn là sản xuất, vận động của tư bản biển hiện ra là sự vận động không ngừng của sản xuất. Công thức chung của tuần hoàn của tư bản sản xuất nói lên sự hoạt động lặp đi lặp lại một cách chu lỳ của tư bản sản xuất tức là tái sản xuất gắn liền với việc tăng thêm gá trị: đó không những chỉ là sản xuất mà còn là tái sản xuất một cách chu kỳ ra giá trị thặng dư, đó là cức năng của tư bản công nghiệp nằm dưới hình thái sản xuất của nó, chức năng này khônhg phải là chức năng chỉ làm có một lần mà là chức năng lặp đi lặp lại một cách có chu kỳ. Do đó mà sự bắt đầu trở lại đã do chính điểm kết thúc quy định. Trong hình thái tuần hoàn này, hàng hoá và tiền tệ chỉ là những yếu tố trung gian, toàn bộ quá trình lưu thông H' - T' - H chỉ là những điều kiện cho sản xuất. Tuần hoàn của tư bản sản xuất không chỉ ra được động cơ, mục đích vận động cư tư bản nhưng lại làm rõ được nguồn gốc của tư bản. Nguồn gốc đó là lao động của công phân tích luỹ lại. 2.2.1. Tái sản xuất giản đơn. Tái sản xuất giản đơn tư bản chủ nghĩa là thực hiện quá trình tái sản xuất theo quy mô như cũ trong đó nhà tư bản dùng toàn bộ giá tri thặng dư cho tiêu dùng cá nhân. Trước hết chúng ta hãy lấy tái sản xuất giản đơn của tư bản sản xuất và giả định rằng mọi hình thình khác không thay đổi và hàng hoá được mua và bán theo đúng giá trị của nó. Giả định như thế thì toàn bộ giá trị thặng dư sẽ đi vào tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản. Một khi tư bản - hàng hoá H' đã chuyển hoá thành tiền thì bộ phận của tổng số tiền đại biểu cho giá trị tư bản vẫn tiếp tục lưu thông trong tuần hoàn của tư bản công nghiệp; còn bộ phận kia tức giá trị thặng dư đã đổi thành tiền thì đi vào lưu thông chung của hàng hoá và mặc dù lưu thông đó là lưu thông tiền tệ xuất phát từ tay nhà tư bản nhưng nó lại diễn ra ở ngoài lưu thông của tư bản cá nhân cuả tư bản. TLSX T - H SLĐ Khi T - H hoàn thành thì T đã được chuyển hoá trở lại thành tư bản sản xuất, tức là sản xuất và tuần hoàn lại bắt đầu trở lại. Do đó hình thái đầy đủ của sản xuất Sx ... H' - T" - II ... SX là H -- T -- HT SLĐ X ... H - TLSX .... SX h -- t -- h t - h là một hoạt động những việc mua vào bằng tiền mà nhà đầu tư ban chi ra để phục vụ cho tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản và gia đình của nhà tư bản. những việc mua ấy được chia ra làm nhiều lần và tiến hành vào những thời gian khác nhau. Do đó tiền tồn tại một thời gian nhất định dưới hình thái tiền dự trữ, vì tiền mà ngừng lại không lưu thông được thì ở vào hình thái tích trữ. Chức năng của tiền làm phương tiện lưu thông bao gồm cả hình thái tích trữ tạm thời của nó không đi vào lưu thông của tư bản dưới hình thái tiền. Tiền đó không được đem ứng trước mà bị tiêu đi. Việc chuyển hoá tư bản tệ thành tư bản sản xuất là việc mua hàng hoá để sản xuất ra hàng hoá. Chỉ khi nào sự tiêu dùng trở thành tiêu dùng sản xuất như thế thì nó mới rơi vào tuần hoàn của tư bản. 2.2.2. Tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa là quá trình tái sản xuất mà quy mô sản xuất sau lớn hơn năm trước và điều kiện đẻ có tái sản xuất mở rộng là giá trị thặng dư không được tiêu dùng hết mà một phần trong số đó phải được dùng để tích luỹ tức là được tiến hành tư bản phụ thê
Luận văn liên quan