Phân biệt lãi suất với một số phạm trù kinh tế khác

Thúc đẩy công nghiệp hóa – hiện đại hoá, đưa đất nước phát triển và hội nhập với cộng đồng quốc tế là tiến trình được ưu tiên hàng đầu của đảng và nhà nước ta hiện nay. Việc mở cửa và tự do hóa thương mại hoàn toàn, tiến tới từng bước tự do hoá tài chính trong khuôn khổ và các chế tài kiểm soát chặt chẽ theo hướng thị trường có sự điều tiết của nhà nước là bước quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, đưa đất nước hoà nhập với sự phát triển chung của khu vực và quốc tế. Do vậy, sử lý bài toán lãi suất và diều hành chính sách lãi suất được xem là vấn đề hết sức nhạy cảm. được hầu hết các nước đang phát triển hết sức quan tâm. Đặc biệt trong bối cảnh nước ta hiện nay, việc sử lý bài toán lãi suất và điều hành chính sách lãi suất đang là vấn đề rất phức tạp, khó khăn và cấp bách nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Lãi suất vừa là công cụ hết sức quan trọng và nhạy cản trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, vừa là giá cả sử dụng vốn trong hoạt động tín dụng. Nó có tác động to lớn đối với việc tăng hay giảm khối lượng tiền trong lưu thông, thu hẹp hay mở rông tín dụng, khích lệ hay hạn chế huy động vốn, kích thích hay cản trở đầu tư, tạo thuận lợi hay khó khăn cho hoạt động ngân hàng. Vai trò đó ngày càng quan trọng và phức tạp cùng với quá trình đổi mới hoạt động ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát triển sâu sắc. Như vậy, lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính chất hai mặt, Nếu xác định lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản suất_lưu thôn7g hàng hoá phát triển và ngược lại. Bởi vậy,lãi suất ngân hàng vừa là công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, vừa là công cụ đièu hành vi mô của các ngân hàng thương mại. Như vậy cần có một chính sách lãi suất phù hợp, có hiệu lực cao và được áp dụng nhất quán trong phạm vi cả nước. Song chính sách lãi suất phải dược ngân hàng nhà nước điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo cho phù hợp với từng thời kỳ, phù hợp với nhu cầu huy động vốn nhàn rỗi trong dân chúng nhằm phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế,đồng thời dảm bảo cho hoạt động của các ngân hàng thương mại thực sự có hiệu quả.

doc20 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2425 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân biệt lãi suất với một số phạm trù kinh tế khác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu Thúc đẩy công nghiệp hóa – hiện đại hoá, đưa đất nước phát triển và hội nhập với cộng đồng quốc tế là tiến trình được ưu tiên hàng đầu của đảng và nhà nước ta hiện nay. Việc mở cửa và tự do hóa thương mại hoàn toàn, tiến tới từng bước tự do hoá tài chính trong khuôn khổ và các chế tài kiểm soát chặt chẽ theo hướng thị trường có sự điều tiết của nhà nước là bước quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, đưa đất nước hoà nhập với sự phát triển chung của khu vực và quốc tế. Do vậy, sử lý bài toán lãi suất và diều hành chính sách lãi suất được xem là vấn đề hết sức nhạy cảm. được hầu hết các nước đang phát triển hết sức quan tâm. Đặc biệt trong bối cảnh nước ta hiện nay, việc sử lý bài toán lãi suất và điều hành chính sách lãi suất đang là vấn đề rất phức tạp, khó khăn và cấp bách nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Lãi suất vừa là công cụ hết sức quan trọng và nhạy cản trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, vừa là giá cả sử dụng vốn trong hoạt động tín dụng. Nó có tác động to lớn đối với việc tăng hay giảm khối lượng tiền trong lưu thông, thu hẹp hay mở rông tín dụng, khích lệ hay hạn chế huy động vốn, kích thích hay cản trở đầu tư, tạo thuận lợi hay khó khăn cho hoạt động ngân hàng. Vai trò đó ngày càng quan trọng và phức tạp cùng với quá trình đổi mới hoạt động ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát triển sâu sắc. Như vậy, lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính chất hai mặt, Nếu xác định lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản suất_lưu thôn7g hàng hoá phát triển và ngược lại. Bởi vậy,lãi suất ngân hàng vừa là công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, vừa là công cụ đièu hành vi mô của các ngân hàng thương mại. Như vậy cần có một chính sách lãi suất phù hợp, có hiệu lực cao và được áp dụng nhất quán trong phạm vi cả nước. Song chính sách lãi suất phải dược ngân hàng nhà nước điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo cho phù hợp với từng thời kỳ, phù hợp với nhu cầu huy động vốn nhàn rỗi trong dân chúng nhằm phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế,đồng thời dảm bảo cho hoạt động của các ngân hàng thương mại thực sự có hiệu quả. Phần I lý luận chung về lãi suất I. lãi suất – khái niệm và bản chất 1. Các lý thuyết kinh tế về bản chất của lãi suất. 1.1. Lý thuyết của J.M.KEYNES về lãi suất. J.M.KEYNES (1883-1964) nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh cho rằng lãi suất không phải là số tiền trả cho công việc tiết kiệm hay nhịn chi tiêu vì khi tích trữ tiền mặt người ta không nhận được một khoản trả công nào, ngay cả trường hợp tích trữ rất nhiều trong một khoảng thời gian nhất định nào đó. Vì vậy, lãi suất chính là sự trả công cho số tiền vay, là phần thưởng cho “cho sở thích chi tiêu tư bản”. Lãi suất do đó còn được gọi là công trả cho sự cha ly với của cải, tiền tệ. Từ sự phân tích trên ta thấy, lượng tiền lưu thông nó phụ thuộc vào lãi suất. Nếu lãi suất cao thì người dân sẽ gửu tiền nhiều hơn dẫn đến lượng tiền trong lưu thông giảm vì lúc này thì chi phí cơ hội của việc giữ tiền tăng lên. Ngược lại, khi lãi suất thấp đồng nghĩa với việc chi phí của việc giữ tiền giảm thì người dân sẽ sữ dụng tiền nhiều hơn vào việc chi tiêu hay đầu tư vào mục đích khác có khả năng sinh lời lớn hơn. 1.2. Lý thuyết của C. Mac về lãi suất. C. Mac đã nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của lãi suất ở trong xã hội tư bản chũ nghĩa và cả trong xã hội chủ nghĩa xã hội và ông đã rút ra những kết luận rất có giá trị. 1.2.1 Lý thuyết của C.Mac về nguồn gốc và bản chất của lãi suất trong nền kinh tế hang hoá Tư Bản Chũ Nghĩa. Qua quá trình nghiên cứu bản chất của xã hội tư bản, C. Mac đã vạch trần qui luật giá trị thặng dư_Tức là giá trị do lao dộng không công của công nhân làm thuê tạo ra. Đây là qui luật kinh tế cơ bản của chũ nghĩa tư bản và nguồn gốc của mọi loại lãi suất đều xuất phát từ giá trị thặng dư. Theo C.Mac khi xã hội phát triển thì tư bản tài sản tách rời tư bản chức năng, tức là quyền sở hữu tư bản tách rời quyền sử dụng tư bản. Nhưng mục đích của tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư thì không thay đổi. Vì vậy khi trong xã hội phát sinh mối quan hệ đi vay và cho vay, đã là tư bản thì sau một thời gian giao cho nhà tư bản đi vay sử dung, tư bản cho vay được hoàn trả lại cho chủ sở hữu của nó kèm theo một giá trị tăng thêm và ông gọi đó là lợi tức Về thực chất lợi tức chỉ là một bộ phận của giá trị thặng dư mà nhà tư bản đi vay trả cho nhà tư bản cho vay. Trong thực tế nó là một bộ phận của lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản công _thương _nghiêp đi vay phải chia cho các nhà tư bản cho vay. 1.2.2 Lý thuyết của C.Mac về lãi suất trong nền kinh tế Xã Hội Chũ Nghĩa Các nhà kinh tế học Mac_Xit nhìn nhận trong nền kinh tế XHCN cùng với tín dụng, sự tồn tại và tác động của nó đã do mục đich khác quyết định, đó là mục đích thoã mãn đầy đủ nhất các yêu cầu của tất cả các thành viên trong xã hội. Lãi suất không chỉ là động lực của tín dụng của nó đói với nền kinh tế phải bám sát các mục tiêu kinh tế. Qua sự phân tich như trên ta có thể đưa ra khái niệm về lãi suất như sau: “Lãi suất là tỷ lệ % giữa khoản tiền người đi vay phải trả thêm cho người cho vay trên tổng số tiền vay sau một thời hạn nhất định đẻ được sử dụng khoản tiền vay đó”. 2. Phân loại lãi suất. Trong hoạt động tín dụng thì có nhiều loại lãi suất khac nhau, tùy theo từng nghiệp vụ cụ thể thì có từng loại lãi suất tương ứng với nó. Sau đây là một số loại lai suất cơ bản: 2.1 Lãi suất hoàn vốn. Lãi suất hoàn vốn là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được hôm nay theo một công cụ nợ với giá tri hôm nay của công cụ đó. Ta thấy đây là phép đo lãi suất chính xác nhất. Nguyên lý này chỉ ra rằng lãi suất càng tăng thì giá trị hiện tại của món tiền trong tương lai càng giảm và ngược lại. 2.2 Lãi suất danh nghĩa. Lãi suất danh nghĩa là lãi suất ký kết và công bố trên hợp đồng. Nó cho biết ta sẽ thu được bao nhiêu đồng hiện hành về tiên lãi nếu cho vay 100(đồng) trong một đơn vị thời gian (tháng,năm,...) 2.3 Lãi suất thực. Lãi suất thực là lãi suất danh nghĩa được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự tính về mức giá thể hiện ở mức thay đổi của lãi suất theo số lượng hàng hoá - dich vụ, do đó nó phản ánh chính xác hơn chi phí thật của tiền vay. Theo các nhà kinh tế học hiện đại thì lạm phát là một căn bệnh kinh niên trong nền kinh tế thị trường, mà ta biết khi trong một nền kinh tế mà có lạm phát thì nó dẫn đến làm tăng mức giá chung của các loại hàng hoá-dich vụ. Khi đó phần lãi suất ta thu được từ các khoản cho vay dùng để mua hàng hoá- dich vụ có thể mua được một lượng nhiều hơn hoặc ít đi tuỳ theo sự tăng hay giảm của tỷ lệ lạm phát. Và ta hiểu đây chính là “lãi suất thực tế ”. Theo Irving Fisher ông đưa ra phương trình tính lãi suất danh nghĩa như sau: Lãi suất danh nghĩa= Lãi suất thực tế + Tỷ lệ lạm phát Từ đó ta suy ra: Lãi suất thực tế = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát 3. Phân biệt lãi suất với một số phạm trù kinh tế khác. Để có thể nắm bắt được vấn đề lãi suất một cách sâu sắc nhất, ta nên phân biệt lãi suất với một số phạm trù khác như: 3.1 Phân biệt lãi suất với giá cả. Lãi suất được coi là hình thái bí ẩn của giá cả vốn vay, vì nó trả cho giá trị sử dụng của vốn vay - Đó chính là khả năng đầu tư sinh lời hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Lãi suất cũng biến động theo quan hệ cung cầu trênthị trường vốn như giá cả hàng hoá thông thường. Nhưng lãi suất là hình thái bí ẩn của giá cả vốn vay vì nó trả cho quyền sử dụng chứ không phải là quyền sở hữu, hơn nữu không phải là quyền sử dụng vĩnh viễn mà chỉ trong một thời gian nhất định. Thêm vào đo, lãi suất không phải là biểu hiện bằng tiền giá trị vốn vay như giá cả hàng hoá thông thường, mà nó độc lập tương đối và thường nhỏ hơn nhiều so với giá trị vốn vay. 3.2 Phân biệt gúa cả với lợi tức. Đối với một chứng khoán bất kỳ, lợi tức hay chính xác hơn là tỷ suất lợi tức được điịnh nghĩa là tiền trả cho chủ sở hữu nó công với sự thay đổi về giá trị của chứng khoán đó rồi chia cho giá mua. Để làm rõ khái niệm này ta lấy một ví dụ như sau: Một người mua một trái phiếu chính phủ mệnh giá 10 triệu đồng, thời hạn 5 năm, lãi suất 10%/năm,sau 1 năm người đó bán trái khoán đó với giá 12 triệu đồng, vậy: Lãi suất là: 10.000.000* 10% = 1.000.000 Sự thay đổi của trái khoán là: 12.000.000 – 10.000.000 =2.000.000 Như vậy lợi tức của việc lưu giữ trái khoán này là: (1.000.000+2.000.000)/10.000.000 = 0.3 = 30% Do dó ta thấy lợi tức của trái khoán không nhất thiết bằng lãi suất của trái khoán, nó có thể cao hơn hoặc thấp hơn. II. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. Lãi suất là một phạm trù kinh tế, cho nên trong nền kinh tế nó chịu sự tác động qua lại của các nhân tố sau: 1. Lượng tiền cung ứng. Một sự tăng lên của lượng tiền cung ứng (do sự nới lỏng của chính sách tiền tệ) sẽ làm cho lượng tiền có trong tăng lên, làm cho các cá nhân, các hộ gia đình, các doanh nghiệp... dễ tiếp cận với nguồn vốn hơn từ đó sẽ làm cho giá cả tiền vay giảm xuống hay lãi suất tiền vay giảm xuống (giả sử các biến số kinh tế khác giữ không đổi ). 2. Sự thay đổi của thu nhập. Khi thu nhập tăng lên trong thời kỳ phát đạt của chu kỳ kinh doanh thì con người có nhu cầu cao hơn trong việc thoã mãn đời sống vật chất và tinh thần nên họ cần nắm giữ một lượng tiền lớn hơn để chi tiêu, điều này làm cho lượng cầu tiền sẽ tăng lên,. Nếu trong trường hợp lượng cung tiền và các biến số kinh tế khác không đổi thì nó sẽ làm cho lãi suất tiền vay tăng lên. 3. Sự thay đổi của mức giá. Khi mức giá tăng, thì giá trị của tiền tính theo những gì mà nố có thể mua được so với trước kia sẽ thấp hơn. Để khôi phục tài sản tiền của mình theo mức cũ thì dân chúng sẽ muốn nắm giữ một lượng tiền danh nghĩa lớn hơn. Khi đó, nếu lượng tiền cung ứng và các biến số kinh tế khác không đổi thì giá cả tăng sẽ làm cho lãi suất tăng lên. 4. Mức lạm phát dự tính. Ta biết chi phí thực của tiền vay được đo một cách chính xác bằng lãi suất thực tế. Theo Irving Fisher thì lãi suất thực tế bằng lãi suất danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát dự tính. Do đó với một mức lãi suất cho trước, nếu lạm phát tăng lên thì chi phí của việc vay tiền giảm xuống cho nên lượng cầu tiền sẽ tăng lên. Mặt khác, khi lạm phát dự tính tăng lên thì lợi tức dự tính của những khoản tiền gửi giảm xuống lúc đó người dân sẽ tìm mọi cách để chuyển vốn vào các thị trường khác( như mua vàng, mua ngoại tệ, mua bất động sản,...) làm cho lượng cung tư bản cho vay giảm. Từ đó, ta thấy khi cung giảm, cầu tăng lên sẽ làm cho lãi suất tăng lên. 5. Tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá giảm thì giá trị của đồng nội tệ giảm, điều này làm cho xuất khẩu tăng lên cho nên nguồn thu ngoại tệ tăng lên, điều này cũng có nghĩa là cầu nội tệ tăng lên. Nếu trong trường hợp cung tiền nội tệ và các biến số kinh tế khác giữ không đổi thì khi tỷ giá hối đoái giảm sẽ làm cho lãi suất tăng lên. 6. Khả năng sinh lời của các cơ hội đầu tư. Nếu càng có nhiều cơ hội đầu tư sinh lời mà doanh nghiệp dự tính có thể làm thì doanh nghiệp càng có nhiều ý định vay vốn và tăng số dư vay nợ nhằm tài trợ cho các cuộc đầu tư này. Như vậy lúc này lượng cầu tiền sẽ tăng, nếu trong trường hợp cung tiền và các biến số kinh tế khác giữ không đổi thì lãi suất sẽ tăng. Ngoài ra lãi suất còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác như: của cãi, khả năng sinh lời dự tính của các cơ hội đầu tư, thị trường vốn quốc tế, hoạt động thu chi ngân sách,... Phần II Lãi suất là một trong những công cụ rất quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia. Tuỳ theo nhịp độ phát triển kinh tế, mức độ ổn định tiền tệ của mỗi nước để có nội dung, phương pháp điều hành và quản lý lãi suất ở các mức độ khác nhau. Đối với đất nước ta, đến nay đã tiến một bước dài, rất quan trọng trong cơ chế điều hành và quản lý lãi suất. Bước tiến của việc điều hành công cụ lãi suất như hiện nay đã thể hiện một bước tiến của một nền kinh tế trong việc chuyển mình từ cách quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Sự kiện này được bắt đầu từ khi có nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 và tiếp đến là hai pháp lệnh về ngân hàng 10/1999 từ đố ngành ngân hàng đã trãi qua hơn 10 năm đổi mới, trong thời gian đó cũng là hơn 10 năm không ngừng đổi mới chính sách điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước, theo từng bước tiến dần đến một chính sách lãi suất thị trường khi điều kiện kinh tế và tiền tệ cho phép Sau đây xin điểm qua các bước đổi mới chính sách lãi suất theo giai đoạn để chúng ta có thể hình dung một cách rõ nét nhất cá bước đi trong lộ trình đổi mới chính sách lãi suất của chúng ta trong thời gian qua và từ đó có thể định hướng một chính sách lãi suất mới phù hợp hơn trong giai đoạn mới. I. Quá trình diều hành lãi suất trong thời gian qua. 1. Giai đoạn 1988-1992- Là thời kỳ lãi suất âm. Khi đất nước đang đi vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, để cho công cuộc này được thắng lợi thì hệ thống ngân hàng có vai trò rất quan trọng. Trong giai đoạn này nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực kinh doanh thì chính phủ đã ban hành nghị định 53/HĐBT và hai pháp lệnh về ngân hàng để tách hệ thống ngân hàng một cấp thành hai cấp, từng bước chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên trong giai đoạn này lạm phát đang ở mức cao nên chính sách lãi suất chưa thực hiện được lãi suất dương mà vẫn theo lãi suất âm. Ngân hàng nhà nước (NHNN) chỉ qui định lãi suất tiền gửi và tiền vay để các ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện. Ta thấy lãi suất âm có các đặc điểm như sau: + Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát. + Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động. Xuất phát từ những đặc điểm này, nó đã gây ra cho hệ thống lãi suất âm này rất nhiều tiêu cực, cụ thể: + Khả năng huy động vốn đi đôi với yêu cầu rút bớt tiền trong lưu thông đã gây áp lực lên giá cả hàng hoá. + Nhu cầu vay vốn phát triển lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo cho ngân hàng. + Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng tạo lỗ không đáng có cho ngân hàng, làm cho ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ một cách bình thường theo cơ chế thị trường. 2. Giai đoạn cuối năm 1992 - Chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương. Khi mà lạm phát đã đươc kìm chế và đã bị đẩy lùi tương đối thấp thì mới có điều kiện thực hiện lãi suất dương, tức là lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động và lãi suất tiền gửi cao hơn lạm phát. Tháng 10/1992 NHNN bắt đầu từng bước thực hiện lãi suất dương và đến tháng 3/1993 thì thực hiện lãi suất dương hoàn toàn, nhưng NHNN vẫn qui định các mức lãi suất tiền gửi, tiền lãi cho vay cụ thể và có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế như: cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước thấp hơn doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn, lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi tiền gửi các tổ chức kinh tế. Từ đó gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. 3. Giai đoạn vừa qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho vay theo lãi suất thõa thuận. Ngày 01/10/1993 NHNN qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể. Theo đó NHNN cho phép các tổ chức tín dụng(TCTD) cho vay theo lãi suất thõa thuận vượt mức cho vay cụ thể (Quyết Định 184/QĐ ngày 28/09/93): + Lãi suất cho vay đối với dóanh nghiệp nhà nước là 1,8%/tháng, lãi suất cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cao nhất là 2,1%/tháng. + Lãi suất cho vay thõa thuận giữa ngân hàng và khách hàng: Nếu vốn huy động tiền tiết kiệm và tiền gửi theo các mức lãi suất qui định mà không đủ để cho vay thì các tổ chức tín dụng được phép phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn tối đa là 0,2%/tháng và cho vay với mức lãi suất cao hơn mức 2,1%/tháng trên cơ sở thõa thuận với khách hàng theo phương châm: ngân hàng kinh doanh được và người vay chấp nhận được. Cơ chế lãi suất cho vay thõa thuận có người gọi đó là ” Tự do hoá lãi suất một nữa” Trong lãi suất thõa thuận, mức chênh lệch giữa sàn (tiền gửi) và trần (cho vay) rất lớn khoảng từ 0,7%-1,0%/tháng, làm cho các ngân hàng thương mại có mức lợi nhuận quá cao trong khi doanh nghiệp và hộ nông dân (chiếm khoảng 30-60% tổng dư nợ) gặp nhiều khó khăn. Từ thực tế này, tại kỳ họp lần thứ 8, Quốc hội khoá IX (08/95) đã đi đến thống nhất cùng với việc bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng, đã yêu cầu ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lêch giữa lãi suất huy đọng vốn và lãi suất cho vay bình quân là 0,35%/tháng. Đây là duyên cớ đẻ ra đời cơ chế lãi suất trần hoàn toàn và bãi bỏ lãi suất cho vay thõa thuận từ ngày 01/01/96. 4. Từ ngày 01-01-96 là giai đoạn thực hiện chính sách trần lãi suất. Trên cơ sở nghị quyết của quốc hội về việc bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng, cùng với việc yêu cầu ngân hàng giảm chi phí để hạ lãi suất cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động ở mức 0,35%/tháng nên NHNN đã quyết định điều hành chính sách lãi suất theo trần lãi suất nhằm khống chế lãi suất cho vay tối đa và các NHTM chỉ được hưởng chênh lệch 0,35%/tháng bao gồm cả chi phí, thuế, lợi nhuận thay cho việc quyết định các mức lãi suất cho vay thõa thuận. Trần lãi suất cho vay được qui định ở nhiều mức khác nhau do căn cứ vào đặc điểm có nhiều loại hình TCTD hoạt động khác nhau nên quyết định nhiều mức trần lãi suất cho vay khác nhau. Ban đầu có 4 trần lãi suất: +Trần lãi suất cho vay ngắn hạn (áp dụng cho khu vực thành thị ). +Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn (Cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn). +Trần lãi suất áp dụng cho các TCTD cho vay trên địa bàn nông thôn (cao hơn lãi suất cho vay ngắn – trung – dài hạn ). +Trần lãi suất cho vay của Qũi Tín Dụng Nhân Dân đối với mọi thành viên (Cao hơn 3 trần lãi suất trên ). Giữa các loại lãi suất này lúc đầu có sự chênh lệch khá xa, nhưng sau nay cứ mỗi lần điều chỉnh đã rút ngắn dần khoảng cách và chỉ còn chênh lệch rất ít. Cụ thể là từ ngày 21/01/98 đến nay, tại kỳ họp lần thứ 2, Quốc hội khoá IX (12/97) quốc hội đã cho phép bỏ mức chênh lệch 0,35%/tháng, đồng thời để thu hẹp sự cách biệt giữa lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn, NHNN đã qui định các mức lãi suất mới “Rút từ 4 trần xuống còn 3 trần” và không còn qui định mức chênh lệch 0,35%/tháng nữa. 4.1. Những ưu điểm của chính sách lãi suất trần. + Điều hành lãi suất theo trần là NHNN quản lý lãi suất cho vay tối đa, từng bước tự do hoá lãi suất theo định hướng của nghị quyết TW 4. Trong phạm vi trần lãi suất đã qui định, các tổ chức tín dụng đã tự do ấn định các mức lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể một cách linh hoạt, phù hợp với tình hình cung-cầu về vốn, chính sách khách hàng và cạnh tranh của từng TCTD và phù hợp với đặc điểm, chi phí hoạt động của ngân hàng giữa các vùng khác nhau. + Điều hành chính sách lãi suất theo trần khuyến khích các TCTD trong việc cạnh tranh lành mạnh và tăng cường vai trò tự chủ trong kinh doanh tiền tệ, chủ động trong việc điều hòa quan hệ cung-cầu trên thị trường về vốn kinh doanh bằng công cụ lãi suất một cách linh hoạt nhạy bén theo cơ chế thị trường. + Việc qui định cho vay theo trần lãi suất tạo ra mặt bằng chung về lãi suất trong phạm vi cả nước, xoá bỏ tình trạng cho vay theo lãi suất thõa thuận, vượt xa các mức lãi suất do NHNN qui dịnh trước đó. + Các tổ chức tín dụng không cho vay với lãi suất vượt trần, bảo vệ lợi ích của người vay, tạo mặt bằng về phân phối lợi nhuận giữ các thành phần kinh tế và người gửi tiền. + Đảm bảo được vai trò quản lý nhà nước của NHNN về lãi suất và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách lãi suất của NHNN. 4.2. Những mặt hạn chế của chính sách lãi suất trần. Bên cạnh những ưu điểm của chính sách lãi suất trần, thì chúng ta cũng phải nhìn thẳng vào vấn đề để tìm ra những khuyết tật của nó để từ đó tìm ra giải pháp đúng đắn nhằm ngày càng hoàn thiện chính sách lãi suất để nó ngày càng có hiệu lực mạnh hơn. + Quản lý lãi suất trần là cách quản lý ”cứng” trong nền kinh tế thị trường, chưa phát huy hết mặt tích cực và nhạy cảm của nó. Lợi dụng mức