Phân tích các nguyên tắc của chế độ công vụ

Công vụ là hoạt động mang tính nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước vì lợi ích xã hội, lợi ích nhà nước, lợi ích chính đáng của các tổ chức và cá nhân. Hoạt động này là hoạt động có tính tổ chức cao, được tiến hành thường xuyên, liên tục theo trật tự do pháp luật quy định trên cơ sở quyền lực nhà nước và được đảm bảo bằng quyền lực nhà nước. Vì vậy, việc xác định rõ ràng các nguyên tắc của chế độ công vụ là một việc làm cần thiết đặc biệt là trong thời kì đổi mới Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân đang chú trọng việc cải cách hành chính nhà nước. Vì vậy em xin chọn đề bài: “ Phân tích các nguyên tắc của chế độ công vụ” để phân tích và tìm hiểu.

doc4 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 14573 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích các nguyên tắc của chế độ công vụ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. ĐẶT VẤN ĐỀ Công vụ là hoạt động mang tính nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước vì lợi ích xã hội, lợi ích nhà nước, lợi ích chính đáng của các tổ chức và cá nhân. Hoạt động này là hoạt động có tính tổ chức cao, được tiến hành thường xuyên, liên tục theo trật tự do pháp luật quy định trên cơ sở quyền lực nhà nước và được đảm bảo bằng quyền lực nhà nước. Vì vậy, việc xác định rõ ràng các nguyên tắc của chế độ công vụ là một việc làm cần thiết đặc biệt là trong thời kì đổi mới Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân đang chú trọng việc cải cách hành chính nhà nước. Vì vậy em xin chọn đề bài: “ Phân tích các nguyên tắc của chế độ công vụ” để phân tích và tìm hiểu. II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. Hoạt động công vụ chủ yếu do đội ngũ công chức chuyên nghiệp thực hiện. Cũng chính vì thế nguyên tắc đầu tiên của chế độ công vụ là cán bộ công chức là công bộc của nhân dân. Đây là nguyên tắc có tính hiến định (Điều 2 Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001), nó nhấn mạnh mọi hoạt động của cán bộ công chức phải nhằm phục vụ lợi ích nhân dân lao động thực hiện công vụ không vì mục đích tự thân của các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức. Họ phải tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân. Nhiệm vụ đặt ra trước đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay là: bằng lao động của mình, bằng sự am hiểu công việc, bằng sự tận tụy với công việc góp phần đổi mới mọi mặt của đời sống xã hội. Mọi quá trình đổi mới đều bắt đầu từ đổi mới đội ngũ cán bộ, từ việc giáo dục, đào tạo lại hoặc thay thế một phần đội ngũ cán bộ. Trong thực tế ngày nay việc cán bộ, công chức được cử đi học thêm về chuyên môn nghiệp vụ, để tăng thêm trình độ trên cơ sở đó có thể phục vụ nhân dân tốt hơn đang được chú trọng mà cụ thể được quy định ở khoản 4 điều 11 Luật Cán bộ công chức: Quyền của cán bộ, công chức được bảo đảm các điều kiện thi hành công vụ “Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ.” Trình độ của đội ngũ cán bộ cũng ngày một nâng cao. Nếu khóa IX có 138/150 (92%) số uỷ viên Trung ương có trình độ đại học trở lên thì đến khoá X là 174/181 (96,13%)… Cán bộ, công chức chịu sự giám sát của nhân dân, có thể bị nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bãi miễn nếu không đáp ứng được yêu cầu mà nhà nước đã đề ra đối với họ là nguyên tắc thứ hai. Cán bộ, công chức có thể bị thay thế nếu họ tỏ ra thiếu năng lực, vi phạm kỉ luật, có biểu hiện quan liêu, cửa quyền, vi phạm pháp luật… Mỗi một chức vụ trong cơ quan nhà nước đều có những yêu cầu nhất định mà người giữ chức vụ đó phải luôn đáp ứng. Ví dụ theo Khoản 1 Điều 31 Luật Thanh tra quy định tiêu chuẩn chung của thanh tra viên như “trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có phẩm chất đạo đức tốt…;Tốt nghiệp đại học, có kiến thức quản lý nhà nước và kiến thức pháp luật; đối với Thanh tra viên chuyên ngành còn phải có kiến thức chuyên môn về chuyên ngành đó; Có nghiệp vụ thanh tra;…”. Hiện nay, những yêu cầu đó càng cần sâu sắc hơn, toàn diện cụ thể là: Cán bộ, công chức phải có khả năng nhìn xa trông rộng, biết phân tích tình hình, biết tiếp thu cái mới, có khả năng gắn lí luận với thực tiễn, lựa chọn được những phương án tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ; họ phải trung thực tận tụy với công việc và không khoan nhượng với cái xấu; ngoài ra họ còn phải nắm vững khoa học quản lí, có chí tiến thủ;…; đặc biệt là lòng nhân ái, sự chu đáo với nhân dân và cấp dưới. Thứ ba là công tác cán bộ, công chức đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng cộng sản Việt Nam. Đây cũng là một nguyên tắc căn cứ vào điều 12 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi cơ quan Nhà nước, cán bộ công chức khi thực thi công vụ đều phải nghiêm chỉnh chấp hành, tôn trọng Hiến pháp và pháp luật. Trong đó, Đảng trực tiếp chăm lo xây dựng độ ngũ cán bộ, công chức cho cả hệ thống chính trị. Đảng thực hiện đường lối chính sách cán bộ thông qua các tổ chức Đảng và Đảng viên trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội. Đảng tiến hành phân công, phân cấp quản lí cán bộ cho các cấp ủy và các tổ chức Đảng đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành các cấp. Ví dụ như, Đảng bộ huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn với sự nhận thức đúng đắn vai trò quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, trong nhiệm kỳ qua (2005 – 2010), Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai toàn diện, nghiêm túc công tác kiểm tra, giám sát. Từ 2005 đến nay, qua tiến hành kiểm tra, giám sát, toàn Đảng bộ đã xử lý kỷ luật 47 đảng viên. Tỷ lệ đảng viên bị kỷ luật đảng về thiếu tinh thần trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và cố ý làm trái quy định của Đảng, Nhà nước chiếm tới 31,8% so với tổng số đảng viên bị vi phạm. Bên cạnh đó, có tới 35,9% đảng viên vi phạm (trong tổng số đảng viên bị kỷ luật đảng) về phẩm chất đạo đức, lối sống, tham ô hối lộ. Nguyên tắc thứ tư là mọi công dân đều bình đẳng trong việc đảm nhiệm công vụ. Nguyên tắc này có liên quan mật thiết với nguyên tắc dân chủ và công khai. Mọi công dân đều có thể tham gia gánh vác công vụ nhà nước nếu đáp ứng yêu cầu của công vụ ấy, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, thành phần xuất thân, giới tính nhưng điều quan trọng ở đây là phẩm chất chính trị và năng lực của công dân. Những hạn chế trong việc đảm nhiệm công vụ đều suất phát từ lợi ích công vụ và được quy định bởi pháp luật. Trong thực tế, nguyên tắc này được thể hiện rất rõ qua việc thi tuyển công chức trong các cơ quan nhà nước được công bố rộng rãi, để cho những công dân đủ điều kiện theo quy định của pháp luật với khả năng của mình có thể tham gia vào công việc nhà nước. Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều hơn cán bộ nữ tham gia trong các cấp uỷ đảng và ở tất cả các vị trí lãnh đạo từ Trung ương đến cơ sở. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số đã đạt được nhiều kết quả quan trọng về số lượng và chất lượng; nhiều cán bộ là người dân tộc thiểu số được tín nhiệm bầu vào những cương vị trọng yếu trong các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương. Thứ năm là nguyên tắc bảo đảm nguyên tắc tập thể, dân chủ đi đôi với phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị. Chế độ công vụ đảm bảo nguyên tắc tập thể, dân chủ để bố trí đúng người, đúng việc, đúng lúc và đúng chỗ. Mọi vấn đề như xác định danh mục các chức vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước, định ra các phương thức tuyển chọn, thăng chức, giáng chức và thuyên chuyển cán bộ, công chức, quy định các ngạch, bậc với công chức và chế độ chính sách đối với công chức…do tập thể có thẩm quyền quyết định sau khi xem xét ý kiến của các cơ quan có liên quan và ý kiến của nhân dân tại địa phương. Nguyên tắc này cũng khẳng định công vụ là hoạt động có tính phục vụ, đáp ứng các yêu cầu của công dân trên cơ sở pháp luật, do đó nhân dân có thể tham gia vào việc đưa ra các quyết định của các cơ quan nhà nước. Mặt khác cán bộ, công chức là những chủ thể hoạt động công vụ nên họ phải có quyền tham gia thảo luận các vấn đề liên quan đến công vụ của họ. Bên cạnh đó, cán bộ, công chức phải nghiêm chỉnh chấp hành các quyết định chỉ thị của cấp trên bởi hoạt động công vụ đòi hỏi có một trật tự, kỉ cương nhất định, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao trách nhiệm của người lãnh đạo trong các cơ quan nhà nước. Hiện nay, để phát huy tốt hơn nữa vai trò của người lãnh đạo thì một số Đảng bộ đã thí điểm đại hội bầu trực tiếp cấp ủy như Đại hội Đảng bộ Chi cục Thuế quận Ba Đình,  Đại hội Đảng bộ trường Cao đẳng Nghề cơ điện Hà Nội, Đảng bộ Công ty Cấp nước Hà Đông… Nhìn chung tỷ lệ phiếu bầu khá cao, nhất là đối với chức danh bí thư, phó bí thư, thể hiện sự tín nhiệm của đảng viên với người đứng đầu. Từ đây, những người được bầu làm bí thư, phó bí thư cũng nhận thấy cần phải nâng cao trách nhiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà tổ chức giao phó, đáp ứng lòng tin của đồng chí mình và nhân dân. III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ. Việc hiểu và vận dụng tốt các nguyên tắc của chế độ công vụ là cơ sở để hoàn thiện chế độ công vụ - một nội dung quan trọng của cải cách hành chính nhà nước làm cho chế độ công vụ ngày một hoàn bị hơn. Qua đó, bảo đảm sự vận hành của bộ máy hành chính thông suốt, nâng cao ý thức trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức; giải quyết đúng đắn, kịp thời các yêu cầu hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, 2008, 2009; Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2005; Phạm Hồng Thái, Công vụ, công chức nhà nước, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2004. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) 4. xaydungdang.org.vn 5. anninhthudo.vn 6. baolangson.com.vn