Phân tích Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi trong pháp luật nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam

Hợp đồng được thiết lập hợp pháp thì có hiệu lực như pháp luật đối với các bên từ thời điểm giao kết mà các bên không được tự ý sửa đổi, hoặc hủy bỏ (1). Đây chính là yêu cầu mang tính bản chất của hiệu lực hợp đồng và là nội dung cơ bản của nguyên tắc hiệu lực bất biến (pacta sunt servanda)(2) trong lĩnh vực hợp đồng. Nhưng quan hệ hợp đồng không phải là bất biến mà “ngày càng mang tính chất của một quá trình” và “hàm chứa nhiều loại rủi ro” (3). Thật vậy, trong quá trình thực hiện các hợp đồng, nhất là các hợp đồng dài hạn, những người kinh doanh quốc tế thường đối mặt với những rủi ro bất thường từ thiên nhiên, xã hội, kinh tế, kỹ thuật, thậm chí là rủi ro về con người, làm đảo lộn sự cân bằng vốn có của hợp đồng, làm cho một bên gặp phải khó khăn đặc biệt trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình, thậm chí không thể thực hiện được nghĩa vụ trong hợp đồng. Ban đầu, những trường hợp này được giải quyết bằng các cơ chế giải phóng nghĩa vụ của luật hợp đồng cổ điển (4), như cho phép bên vi phạm được chấm dứt hợp đồng và được miễn trách dựa trên điều khoản bất khả kháng. Về sau, người ta thấy rằng, điều khoản bất khả kháng không còn thích hợp để giải quyết nhiều vấn đề được đặt ra từ thực tiễn (5), vì trong nhiều trường hợp, cách giải quyết dựa trên điều khoản này không bảo đảm được sự công bằng cho các bên. Để có cơ chế khác thích hợp hơn trong việc bảo đảm lợi ích các bên nhằm phân chia hợp lý rủi ro và tái lập sự cân bằng của hợp đồng, các nhà kinh doanh thương mại quốc tế đã đưa vào hợp đồng của họ một điều khoản cho phép bên gặp khó khăn đặc biệt được yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng. Điều khoản này được gọi là điều khoản đàm phán lại hợp đồng khi có sự thay đổi do hoàn cảnh dẫn đến khó khăn đặc biệt trong việc thực hiện hợp đồng, được gọi ngắn gọn là “hardship”. Khái niệm “hardship” và các khái niệm tương tự cũng đã được thừa nhận trong nhiều hệ thống pháp luật, như “force majeure”, “commercial impracticability”, “frustration of purpose”(6) hay “change of circumstances” trong Thông luật (7), “Wegfall der Geschaftsgrundlage” trong tiếng Đức, hoặc được các học giả người Đức dùng với thuật ngữ khác là “the foundation of the transaction” (8). Nhưng thuật ngữ “hardship” được sử dụng trong bảng tiếng Pháp của Bộ nguyên tắc UNIDROIT đã được chấp nhận rộng rãi trong thực tiễn thương mại quốc tế (9), nên sẽ được sử dụng thường xuyên trong bài viết này.

doc16 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2183 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi trong pháp luật nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi trong pháp luật nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam Hợp đồng được thiết lập hợp pháp thì có hiệu lực như pháp luật đối với các bên từ thời điểm giao kết mà các bên không được tự ý sửa đổi, hoặc hủy bỏ (1). Đây chính là yêu cầu mang tính bản chất của hiệu lực hợp đồng và là nội dung cơ bản của nguyên tắc hiệu lực bất biến (pacta sunt servanda)(2) trong lĩnh vực hợp đồng. Nhưng quan hệ hợp đồng không phải là bất biến mà “ngày càng mang tính chất của một quá trình” và “hàm chứa nhiều loại rủi ro” (3). Thật vậy, trong quá trình thực hiện các hợp đồng, nhất là các hợp đồng dài hạn, những người kinh doanh quốc tế thường đối mặt với những rủi ro bất thường từ thiên nhiên, xã hội, kinh tế, kỹ thuật, thậm chí là rủi ro về con người, làm đảo lộn sự cân bằng vốn có của hợp đồng, làm cho một bên gặp phải khó khăn đặc biệt trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình, thậm chí không thể thực hiện được nghĩa vụ trong hợp đồng. Ban đầu, những trường hợp này được giải quyết bằng các cơ chế giải phóng nghĩa vụ của luật hợp đồng cổ điển (4), như cho phép bên vi phạm được chấm dứt hợp đồng và được miễn trách dựa trên điều khoản bất khả kháng. Về sau, người ta thấy rằng, điều khoản bất khả kháng không còn thích hợp để giải quyết nhiều vấn đề được đặt ra từ thực tiễn (5), vì trong nhiều trường hợp, cách giải quyết dựa trên điều khoản này không bảo đảm được sự công bằng cho các bên. Để có cơ chế khác thích hợp hơn trong việc bảo đảm lợi ích các bên nhằm phân chia hợp lý rủi ro và tái lập sự cân bằng của hợp đồng, các nhà kinh doanh thương mại quốc tế đã đưa vào hợp đồng của họ một điều khoản cho phép bên gặp khó khăn đặc biệt được yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng. Điều khoản này được gọi là điều khoản đàm phán lại hợp đồng khi có sự thay đổi do hoàn cảnh dẫn đến khó khăn đặc biệt trong việc thực hiện hợp đồng, được gọi ngắn gọn là “hardship”. Khái niệm “hardship” và các khái niệm tương tự cũng đã được thừa nhận trong nhiều hệ thống pháp luật, như “force majeure”, “commercial impracticability”, “frustration of purpose”(6) hay “change of circumstances” trong Thông luật (7), “Wegfall der Geschaftsgrundlage” trong tiếng Đức, hoặc được các học giả người Đức dùng với thuật ngữ khác là “the foundation of the transaction” (8). Nhưng thuật ngữ “hardship” được sử dụng trong bảng tiếng Pháp của Bộ nguyên tắc UNIDROIT đã được chấp nhận rộng rãi trong thực tiễn thương mại quốc tế (9), nên sẽ được sử dụng thường xuyên trong bài viết này. Hardship - hiểu nôm na là điều khoản quy định cho phép một bên trong hợp đồng có quyền xin điều chỉnh hợp đồng, khi có những thay đổi về hoàn cảnh và môi trường kinh tế, tới mức gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến quyền lợi của một bên, làm mất đi cân bằng kinh tế của hợp đồng, làm cho việc thực hiện hợp đồng trở nên cực kỳ khó khăn và tốn kém. Theo đó, điều khoản hardship quy định những cơ chế can thiệp hợp lý vào hiệu lực hợp đồng, như cho phép các bên yêu cầu tòa án điều chỉnh hoặc nếu không điều chỉnh được thì cho chấm dứt hợp đồng, nhằm tái lập sự cân bằng về lợi ích giữa các bên trong hợp đồng, theo những căn cứ, thủ tục, điều kiện chặt chẽ và hạn chế. 1. Điều khoản hardship trong pháp luật các nước và tập quán thương mại quốc tế Khái niệm hardship xuất hiện trong thực tiễn thương mại vào những năm 1960 và được trình bày lần đầu tiên trong các nghiên cứu của Marcel Fontaine, in trong quyển “Pháp luật hợp đồng quốc tế”, xuất bản năm 1989 (10). Nội dung của điều khoản hardship cũng được thể hiện trong các hợp đồng thương mại quốc tế, dưới nhiều dạng điều khoản khác nhau. Theo Marcel Fontain, từ những năm 1975, nhóm nghiên cứu của ông tập hợp được hơn 120 điều khoản hardship từ thực tiễn thương mại (11). Một số điều khoản loại này đã được Henry Lesguillons khái quát lại và trình bày trong Hội thảo quốc tế tổ chức ở Hà Nội năm 2004 (12). Có nhiều nước trên thế giới từng công nhận và xây dựng khung pháp lý và án lệ cho điều khoản hardship để điều chỉnh hợp đồng trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi. Có thể kể đến một số quốc gia sau đây: Ở Pháp: Vụ tranh chấp về hợp đồng cung cấp khí đốt giữa Công ty khí gas Bordeaux với Tòa Thị chính thành phố, do Tham chính viện (Tòa Hành chính tối cao Pháp) xử ngày 30/3/1916, Tham chính viện đã khẳng định rằng, khi hoàn cảnh thay đổi không lường trước được đối với một hợp đồng hành chính (13), một bên có thể được bồi thường để xác lập lại sự cân bằng về tài chính trong hợp đồng và để tránh việc cung cấp dịch vụ công cộng bị gián đoạn. Mặc dù các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng một giá cung cấp khí đốt cố định trong một khoảng thời gian dài, nhưng do giá khí đốt tăng đột biến, nếu tòa không sửa đổi các điều kiện (hoặc tăng giá) cung cấp khí đốt, chắc chắn công ty khí đốt sẽ đi đến bờ vực phá sản và việc cung cấp khí đốt sẽ phải dừng lại. Do đó, Tham chính viện đã cho rằng, các bên có thể thỏa thuận để thay đổi hợp đồng, nhưng nếu bên có quyền từ chối việc này thì công ty khí đốt có quyền đòi một khoản tiền bù đắp tổn thất, gọi là tiền bồi thường cho khoản tổn thất không thể dự đoán (indemnité d’ imprévision), do cơ quan hành chính được cung cấp khí đốt trả (14). Tuy được án lệ hành chính chấp nhận, nhưng lý thuyết này đã bị các tòa án tư pháp của Pháp bác bỏ gần như tuyệt đối. Trong vụ Kênh đào Craponne do Toà án tư pháp tối cao xử ngày 6/3/1876(15): “Trong mọi trường hợp, toà án không thể căn cứ vào thời gian và hoàn cảnh để thay đổi các thoả thuận của các bên và thay thế các thoả thuận đã được các bên tự do chấp thuận bằng những điều khoản mới, dù toà án cho rằng quyết định của mình có công bằng thế nào chăng nữa”. Và, các toà án tư pháp đã luôn trung thành với định hướng này, bất chấp những biến động kinh tế và tiền tệ xảy ra sau Đại chiến thế giới lần thứ hai. Bản án của Toà án tư pháp tối cao ngày 18/1/1950 lần nữa, đã khẳng định: “Thẩm phán không thể viện dẫn việc tăng giá, kể cả khi điều đó đã được xác nhận, để giải phóng một bên khỏi những cam kết rõ ràng và chính xác mà bên đó đã tự do chấp thuận” (16). Mặc dù vậy, Tòa Paris (17) cũng từng dẫn “Điều khoản tự vệ” của hợp đồng để cho phép các bên sẽ “tiến hành thương lượng để xem xét khả năng thay đổi hợp đồng (về giá hoặc một điều khoản khác)” nếu giá xăng tăng hơn 6 francs một tấn so với giá quy định trong hợp đồng. Các phán quyết của Tòa án Tư pháp tối cao bị nhiều học giả cho là cứng nhắc, và cần phải có sự thay đổi cách nhìn nhận này (18). Thực tiễn thương mại ở Pháp cũng phản ứng lại các phán quyết này bằng cách, khi ký kết hợp đồng, các bên thường đưa vào các hợp đồng của mình điều khoản cho phép đàm phán lại hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi. Chính vì thế, Michel Trochu đã đưa ra bình luận: “Có lẽ điều này giải thích vì sao có ít phán quyết được đưa ra trong lĩnh vực này, bởi vì các bên đã tự tìm ra những giải pháp khác cho những vấn đề của họ” (19). Trái lại với án lệ, luật thực định của Pháp lại quy định minh thị các giải pháp cho phép điều chỉnh lại hợp đồng khi hoàn cảnh có sự thay đổi. Sau Đại chiến 1914 - 1918, do đồng tiền của Pháp bị mất giá, Quốc hội đã cho ban hành đạo luật Failliot ngày 21/01/1918 cho phép các thẩm phán được giải hiệu các hợp đồng xác lập trước 1914 mà việc thực hiện là quá bất công đối với người có nghĩa vụ. Sau Đại chiến thế giới thứ hai, một đạo luật do Quốc hội ban hành ngày 22/4/1949 cũng cho phép tòa án giải hiệu các hợp đồng ký kết trước ngày 02/9/1939 mà việc thực hiện (giao hàng hay làm một công việc) trở nên quá nặng nhọc cho người có nghĩa vụ, vì tình hình chiến tranh hay do sự thay đổi kinh tế không thể dự đoán được khi giao kết hợp đồng (20). Như vậy, điều khoản hardship tuy không được thừa nhận rộng rãi trong án lệ, nhưng lại được ghi nhận trong luật thực định khi xảy ra những biến cố đặc biệt, ví dụ khi có sự mất giá đồng tiền trong thời kỳ hậu chiến, như vừa nêu trên, và được chấp nhận khá phổ biến trong thực tiễn thương mại. Ở Đức: Bộ luật Dân sự của Đức (BGB) cũng có những điều khoản quy định gián tiếp liên quan đến vấn đề này, thể hiện trong quy định về “Disturbance of foundation of transaction” (Điều 313 BGB)(21) hay “Performance in accordance with good faith” (Điều 242 BGB)(22). Đây là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp hợp đồng liên quan đến sự khó khăn hoặc sự thay đổi hoàn cảnh, làm cho hợp đồng không thể thực hiện, hoặc nếu thực hiện thì chi phí lớn, hoặc làm bên có nghĩa vụ giảm thu nhập nghiêm trọng. Có thể xem các án lệ, như: RGZ 112, 329, 333-4; RGZ 119, 133(sale of land); RGZ 147, 286 (sale of cotton)(23) … Trong Luật về những điều khoản chung(24) của hợp đồng của CHLB Đức, một mặt, nhà làm luật cấm các bên bảo lưu “Điều khoản nhằm tăng khoản thù lao đối với hàng hóa hoặc dịch vụ đã được thực hiện trong vòng 4 tháng sau khi ký hợp đồng”. Nhưng “Quy định này không áp dụng cho những hàng hóa hoặc dịch vụ đã thực hiện trong phạm vi các quan hệ nghĩa vụ lâu dài, cũng như các dịch vụ có liên quan tới giá cả, áp dụng theo khoản 1 thuộc mục 99 Luật về hạn chế cạnh tranh không lành mạnh” (25). Ở Italia: Theo các Điều từ 1467 đến 1469 của Bộ luật Dân sự của ý, các cam kết hợp đồng có thể bị huỷ bỏ khi có sự kiện bất ngờ xảy ra một cách bất thường, không thể lường trước được, sau khi hợp đồng được ký kết và trước khi thực hiện hợp đồng; và sự kiện này làm cho việc thực hiện hợp đồng của một bên trở nên vô cùng khó khăn. Nhưng các bên cam kết có thể tránh việc huỷ bỏ hợp đồng bằng cách đề nghị chỉnh sửa hợp đồng một cách công bằng (Điều 1467 (3))(26). Tuy nhiên, các quy định này không bắt buộc, và các bên có thể thoả thuận với nhau không áp dụng chúng. án lệ của ý từng có phán quyết về vấn đề này (27). Ngoài ra, Điều 258 Bộ luật Dân sự Hà Lan cho phép thẩm phán chỉnh sửa các điều khoản của hợp đồng dựa trên sự thay đổi của hoàn cảnh mà không lường trước được. Điều 437 của Bộ luật Dân sự Bồ Đào Nha cũng quy định tương tự (28). Ở Anh: việc thay đổi hoàn cảnh không được xem là căn cứ để điều chỉnh hay đàm phán lại hợp đồng, “bởi lẽ ở Anh - theo quan điểm luật truyền thống thì người mắc nợ chỉ phải đảm bảo trả đủ cho chủ nợ một số tiền nào đó, chứ không phải thực hiện nghĩa vụ theo thực chất” (29). Richard Stone cũng có cùng quan điểm (30). Nhưng điều này cũng không phải tuyệt đối. Theo Ewan McKendrick thì “người ta thường nói rằng luật Anh không khuyến khích việc chỉnh sửa việc thoả thuận trong trường hợp việc thực hiện hợp đồng trở nên khó khăn hơn. Điều này không hoàn toàn chính xác” (31). McKendrick cho rằng, trong những trường hợp này, tòa án Anh có thể cho phép điều chỉnh hợp đồng và chính các bên ký kết hợp đồng phải thực hiện việc chỉnh sửa. Toà án không thực hiện việc chỉnh sửa hợp đồng đã ký giữa các bên, cũng không đưa ra bất kỳ trở ngại nào khi các bên cố gắng chỉnh sửa thoả thuận của họ để phù hợp với hoàn cảnh thay đổi, như quyết định của Thượng viện trong vụ Walford v. Miles [1992] 2 AC 128(32). án lệ Anh cũng chấp nhận một cách hiếm hoi việc thay đổi hoàn cảnh dẫn đến chấm dứt hợp đồng, như phán quyết của Tòa Phúc thẩm, trong vụ Krell v. Henry [1903] 2 KB 740: Bị đơn thuê một căn hộ tại Pall Mall trong vòng 2 ngày. Mục đích khi ký kết hợp đồng là nhìn thấy lễ diễu hành đăng quang của Edward VII, mặc dù mục đích này không được nêu ra trong hợp đồng. Sau khi hợp đồng được ký kết, lễ đăng quang bị hoãn do nhà vua bị bệnh nên hợp đồng không thể thực hiện được. Tòa đã tuyên cho phép bên thuê được từ chối thực hợp đồng mà không phải bồi thường. Nhưng thực chất, phán quyết này không dựa trên điều khoản hardship mà lại căn cứ vào điều khoản không thể thực hiện hợp đồng do mục đích của hợp đồng không còn tồn tại (Frustration of purpose). Ở Mỹ: án lệ có những phán quyết không nhất quán về vấn đề này. Trong vụ Transatlanic Corp. v United States, CA Dis Col 363 F2d 312 (1966): Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (A) thuê Công ty xuyên Đại Tây Dương (B) chở tàu chiến qua kênh đào Suez, Ai Cập. Nhưng do kênh đào này bị đóng cửa, nên B phải đi đường vòng quanh Châu Phi, làm tăng chi phí rất lớn. B đòi A phải thanh toán chi phí tăng lên ngoài dự kiến. Mặc dù tòa nhận xét: “nghĩa vụ không thể thực hiện được” không cần phải hiểu theo nghĩa tuyệt đối mà chỉ dựa trên các lý do kinh tế là đủ, nhưng tòa lại kết luận rằng, rủi ro này có thể phải do một bên dự liệu và phải tự gánh chịu. Trái lại, các án lệ Mineral Park land Co. v. Howard, 156 P. 458 Cal. 1916 và án lệ Waegemann v. Montgomary Ward & Co., Inc. CA9 Cal 713 F2d 452 (1983) cũng như Điều 2 - 609 UCC lại thừa nhận và cho áp dụng điều khoản đàm phán lại hợp đồng do thay đổi hoàn cảnh. Theo đó, “nếu chi phí để thực hiện nghĩa vụ trong thực tế đã thay đổi đáng kể, lớn hơn gấp 10 lần chi phí đã dự kiến vào thời điểm giao kết hợp đồng, thì bên phải thực hiện nghĩa vụ có thể yêu cầu tòa án tuyên bố chấm dứt quan hệ hợp đồng vì lý do không thể thực hiện được” (33) hoặc cho phép điều chỉnh hợp đồng. Trong vụ Waegemann kiện Montgomary Ward & Co., Inc., Tòa sơ thẩm đã lập luận rằng, “các bên đã giao kết hợp đồng thì phải thực hiện cam kết đó dựa trên niềm tin chắc chắn là hợp đồng sẽ được thực hiện, nhưng quy tắc này sẽ phải bị giới hạn trong một số trường hợp gọi là extreme hardship” (34). Tương tự quan điểm này, có thể xem thêm các án lệ khác, như: Cutter Laboratories, Inc. v. Twining, 221 Cal.App.2d 302, 34 Cal.Rptr. 317 (1963); Lloyd v. Murphy, 25 Cal.2d 48, 153 P.2d 47 (1944); Davidson v. Goldstein, 58 Cal.App.2d Supp. 909, 136 P.2d 665 (1943); Grace v. Croninger, 12 Cal.App.2d 603, 55 P.2d 940 (1936)... Ở các nước thuộc Châu Phi như Ai Cập, Syrie, Algérie đều có những quy phạm điều chỉnh các hợp đồng, công hoặc tư, trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi bất ngờ. Những điều khoản do các bên thỏa thuận trái với các quy phạm này đều vô giá trị (35). Ở Nam Tư: khoản 1 Điều 133 Luật Nghĩa vụ của Nam Tư quy định: “(1) trong trường hợp có những biến cố xảy ra sau khi ký hợp đồng, làm cho việc thực hiện hợp đồng của một bên gặp khó khăn hoặc mục đích của hợp đồng không thể đạt được và hợp đồng không còn đáp ứng được mong muốn của các bên cũng như việc tiếp tục thực hiện hợp đồng sẽ là không công bằng, thì bên gặp khó khăn… có thể yêu cầu hủy bỏ hợp đồng”; khoản 2 của Điều này quy định không cho phép hủy bỏ hợp đồng trường hợp này nếu đã lường trước được khó khăn hoặc có thể vượt qua hay khắc phục được khó khăn đó. Ngoài ra, Quy tắc số 56 còn liệt kê “các sự kiện kinh tế, chẳng hạn như sự đột biến, hoặc sự tăng, giảm mạnh về giá cả” là một trong những nguyên nhân cản trở việc thực hiện hợp đồng (36). Ở Việt Nam trước 1945: pháp luật thực định công nhận nguyên tắc “các hợp ước phải được thi hành với sự thành ý” (Điều 673.k3 Bộ Dân luật Bắc, Điều 713.k3 Bộ Dân luật Trung). Theo Vũ Văn Mẫu, “một sự thi hành thành ý không thể nào trái với sự công bằng”. Bởi vậy, “khi sự thi hành quá lợi cho người trái chủ và quá thua thiệt cho người phụ trái, sự thi hành ấy trái với sự công bằng, và không thành ý”. Dựa theo nguyên tắc này, thẩm phán có quyền can thiệp vào hợp đồng nếu các thỏa thuận đó là không công bằng, gây ra sự bất lợi quá đáng cho một bên. Nhưng Vũ Văn Mẫu cũng cho rằng, hiểu và giải thích quá rộng rãi các điều khoản trên đây là một sai lầm. Thế nên, trong bản án ngày 27/12/1946, Tòa Thượng thẩm Sài Gòn đã không chấp nhận sự thay đổi hiệu lực hợp đồng chỉ vì bên có nghĩa vụ lâm vào hoàn cảnh khó khăn do xuất hiện sự kiện không lường trước được: “mặc dù nhà thầu phải thi hành khế ước thầu khoán trong những điều kiện tốn kém hơn vì giá vật liệu do tình trạng chiến tranh đã tăng hơn 300%, các thẩm phán cũng không thể thay đổi khế ước” (37). Điều này cho thấy, theo luật thực định Việt Nam thời bấy giờ, tòa án có thể cho phép các bên điều chỉnh hợp đồng khi gặp khó khăn đặc biệt, nhưng án lệ lại không chấp nhận giải pháp này. Trên bình diện quốc tế, trong thực tiễn thương mại, điều khoản hardship thường được các thương gia đưa vào hợp đồng để chia sẻ rủi ro khi có sự biến động lớn về kinh tế. Các Bộ quy tắc quốc tế, như điều kiện của Hiệp hội các kỹ sư tư vấn quốc tế (FIDIC) trong văn bản về xây dựng ( “Sách đỏ”) hoặc trong văn bản về các hoạt động điện lực và cơ khí ( “Sách vàng”), đều có quy định về các điều khoản “rủi ro ngoại lệ”, “rủi ro đặc biệt” nhằm làm cơ sở giải quyết các trường hợp khó khăn đặc biệt khi thực hiện các hợp đồng xây dựng, tương tự như điều khoản hardship hay “bất khả kháng” (38). Ngày nay, điều khoản này càng trở nên phổ biến hơn trong thực tiễn thương mại quốc tế, và đã trở thành cơ sở thực tiễn quan trọng để được “pháp điển hóa” trong các Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế, như Bộ Nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và Bộ nguyên tắc Luật hợp đồng chung Châu Âu - Principle European Contract Law (PECL). Có thể thấy, bằng nhiều cách thể hiện khác nhau, pháp luật hợp đồng ở các nước phát triển phương Tây và nhiều quốc gia khác trên thế giới hiện nay đều có xu hướng chấp nhận cơ chế hardship để cho phép một bên được quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại, hay điều chỉnh nội dung hợp đồng khi “hoàn cảnh kinh tế biến động” so với thời điểm xác lập hợp đồng, “nếu việc làm đó thỏa mãn tiêu chuẩn hợp lý và công bằng” (39). 2. Nội dung cơ bản của điều khoản hardship Nội dung cơ bản của điều khoản hardship quy định về ba vấn đề: khái niệm và các điều kiện của hoàn cảnh được coi là hardship, hạn chế áp dụng, các hệ quả pháp lý của việc áp dụng điều khoản này. Có thể xem xét ba nội dung này trong PICC và PECL sau đây: Theo định nghĩa của UNIDROIT trong PICC 2004, “hoàn cảnh hardship được xác lập khi xảy ra các sự kiện làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng, hoặc chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên, hoặc do giá trị của nghĩa vụ đối trừ giảm xuống...” và thỏa mãn bốn điều kiện được quy định trong đoạn tiếp theo của Điều 6.2.2: các sự kiện này xảy ra hoặc được bên bị thiệt hại biết đến sau khi giao kết hợp đồng; bên bị bất lợi đã không tính đến một cách hợp lý các sự kiện đó khi giao kết hợp đồng; các sự kiện đó nằm ngoài sự kiểm soát của bên bị bất lợi; và, rủi ro về các sự kiện này không được bên bị bất lợi gánh chịu (40). Tuy vậy, PICC cũng không thừa nhận một cách dễ dãi quyền đàm phán lại hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi đặc biệt. Những người soạn thảo văn kiện này khá khắt khe, bởi điều 6.2.1 PICC quy định “Các bên phải hoàn thành nghĩa vụ của mình ngay cả khi việc thực hiện hợp đồng trở nên tốn kém hơn, trừ các quy định liên quan dưới đây về hardship”. Điều này cho thấy, việc áp dụng hardship để cho phép điều chỉnh lại hợp đồng là một giải pháp ngoại lệ của nguyên tắc pacta sunt servanda và phải được áp dụng rất hạn chế. Cũng theo UNIDROIT tại Điều 6.2.3 PICC, hệ quả của việc áp dụng điều khoản hardship cho phép: (i) bên bị bất lợi được đưa ra yêu cầu đàm phán lại hợp đồng (một cách không chậm trễ và có căn cứ) và nếu đã yêu cầu đàm phán lại hợp đồng thì không được tạm đình chỉ thực hiện nghĩa vụ; (ii) nếu các bên không thể thỏa thuận lại được hợp đồng trong thời gian hợp lý thì mỗi bên có thể yêu cầu tòa án giải quyết; tòa án nếu xét thấy hợp lý thì có thể hoặc cho chấm dứt hợp đồng theo điều kiện và thời điểm do tòa ấn định, hoặc cho sửa đổi nhằm thiết lập lại sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng. Điều khoản hardship được thể hiện trong Bộ nguyên tắc luật hợp đồng chung Châu Âu (PECL phiên bản 1999 - 2002), với tên gọi “Sự thay đổi hoàn cảnh” (change of Circumstances) tại Điều 6: 111. Theo đó, “mỗi bên phải hoàn thành các nghĩa vụ của mình, ngay cả khi việc thực hiện hợp đồng trở nên tốn kém hơn, do chi phí thực hiện tăng hoặc do giá trị của khoản thanh toán giảm” (khoản 1), và khoản 2: “Tuy nhiên, nếu việc thực hiện hợp đồng trở nên quá khó khăn bởi vì có sự thay đổi về hoàn cảnh, các bên buộc phải tiến hành thoả thuận với quan điểm là chỉnh sửa hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng, với điều kiện là: (a) Việc thay đổi hoàn cảnh xảy ra sau thời gian ký kết hợp đồng; (b) khả năng xảy ra sự thay đổi về hoàn cảnh không phải là một trong những tình huống mà các bên buộc phải tính đến khi ký kết hợp đồng; và (c) rủi ro về sự thay đổi không phải là một tình huống, theo như hợp đồng, bên bị ảnh hưởng bị yê
Luận văn liên quan