Phân tích nội dung học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ - So sánh với chính sách tiền tệ, trong học thuyết Keynes

- Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa lại lâm vào cuộc khủng hoảng lớn do đó bộc lộ sự bất lực của các chính sách kinh tế của Nhà nước tư sản trên học thuyết của trường phái Keynes. - Xuất hiện khuynh hướng phê phán học thuyết Keynes và do đó phục hồi tư tưởng tự do kinh tế nhưng có sửa đổi để thích ứng với tình hình mới. Nguồn gốc: tư tưởng tự do kinh tế của các nhà cổ điển ( cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX) được phát triển ở các nhà cổ điển mới ( cuối thế kỷ XIX đến thập kỷ 30 của thế kỷ XX). Gọi là chủ nghĩa tự do cũ. Sau đó tư tưởng chủ nghĩa tư bản có điều tiết ( Keynes) thống trị, đến những năm 70 của thế kỷ XX thì tư tưởng tự do kinh tế được phục hồi dẫn đến sự xuất hiện của “ chủ nghĩa tự do mới “ hay “ chủ nghĩa bảo thủ mới “. - Chủ nghĩa tự do mới được phát triển dưới nhiều tên gọi khác nhau như: chủ nghĩa bảo thủ mới (ở Mỹ), chủ nghĩa tự do mới ( ở Đức ), chủ nghĩa cá nhân mới ( ở Anh ), chủ nghĩa kinh tế mới ( ở Aó ), - Một trong những trường phái chính của chủ nghĩa này đó là trường phái Trọng tiền hay Trường phái kinh tế tự do Chicago. Chủ nghĩa trọng tiền được hình thành từ những năm 50 của thế kỉ XX. Đại biểu nổi tiếng nhất và cũng là thủ lĩnh của trường phái này là Milton Friedman, nhà kinh tế học người Mỹ. Ngoài ra còn nhiều nhà kinh tế học lớn khác như: Allan Melizer, Jerry Jordan ( cố vấn kinh tế của Reagan),

doc28 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7698 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích nội dung học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ - So sánh với chính sách tiền tệ, trong học thuyết Keynes, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phân tích nội dung học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ. So sánh với chính sách tiền tệ, trong học thuyết Keynes Nội dung chính Học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ Hoàn cảnh ra đời Tiểu sử của M. Friedman Các quan điểm kinh tế của trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ Lý thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ Nội dung b. Ưu điểm - Hạn chế So sánh học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ với chính sách tiền tệ của J.M.Keynes Ứng dụng thực tiễn Kết luận chung Học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ Hoàn cảnh ra đời của học thuyết: Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa lại lâm vào cuộc khủng hoảng lớn do đó bộc lộ sự bất lực của các chính sách kinh tế của Nhà nước tư sản trên học thuyết của trường phái Keynes. Xuất hiện khuynh hướng phê phán học thuyết Keynes và do đó phục hồi tư tưởng tự do kinh tế nhưng có sửa đổi để thích ứng với tình hình mới. Nguồn gốc: tư tưởng tự do kinh tế của các nhà cổ điển ( cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX) được phát triển ở các nhà cổ điển mới ( cuối thế kỷ XIX đến thập kỷ 30 của thế kỷ XX). Gọi là chủ nghĩa tự do cũ. Sau đó tư tưởng chủ nghĩa tư bản có điều tiết ( Keynes) thống trị, đến những năm 70 của thế kỷ XX thì tư tưởng tự do kinh tế được phục hồi dẫn đến sự xuất hiện của “ chủ nghĩa tự do mới “ hay “ chủ nghĩa bảo thủ mới “. Chủ nghĩa tự do mới được phát triển dưới nhiều tên gọi khác nhau như: chủ nghĩa bảo thủ mới (ở Mỹ), chủ nghĩa tự do mới ( ở Đức ), chủ nghĩa cá nhân mới ( ở Anh ), chủ nghĩa kinh tế mới ( ở Aó ), … Một trong những trường phái chính của chủ nghĩa này đó là trường phái Trọng tiền hay Trường phái kinh tế tự do Chicago. Chủ nghĩa trọng tiền được hình thành từ những năm 50 của thế kỉ XX. Đại biểu nổi tiếng nhất và cũng là thủ lĩnh của trường phái này là Milton Friedman, nhà kinh tế học người Mỹ. Ngoài ra còn nhiều nhà kinh tế học lớn khác như: Allan Melizer, Jerry Jordan ( cố vấn kinh tế của Reagan),… Tiểu sử của M. Friedman Milton Friedman (31/07/1912 – 16/11/2006) Là một nhà kinh tế học đoạt giải Nobel người Mỹ. Là người ủng hộ chủ nghĩa tư bản tự do, ông đã có những đóng góp quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế học vĩ mô, kinh tế học vi mô, lịch sử kinh tế và thống kê. Năm 1976, Friedman nhận Giải Nobel Kinh tế vì những đóng góp vào lĩnh vực phân tích tiêu dùng, lịch sử và lý thuyết tiền tệ cũng như vì công lao của ông trong việc chứng minh tính phức tạp của chính sách ổn định kinh tế vĩ mô. Theo tờ The Economist, Friedman là nhà kinh tế có ảnh hưởng lớn nhất vào nửa sau thế kỷ 20. Friedman chính là người đã lập nên trường phái kinh tế học vĩ mô rất có ảnh hưởng – phái trọng tiền (monetarism). Tư tưởng chính trị của Friedman nhấn mạnh những ưu thế của thị trường và những bất lợi khi Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế đã định hình quan điểm của những người theo trường phái bảo thủ và tự do ở Mỹ. Quan điểm của ông về chính sách tiền tệ, thuế khóa, tư nhân hóa và giảm bớt sự can thiệp của chính phủ đã có tác động to lớn tới chính sách của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt thời kỳ chính quyền Ronald Reagan ở Mỹ và Margaret Thatcher ở Anh. Friedman là học trò của nhà kinh tế nổi tiếng Simon Kuznets và là thầy dạy của các nhà kinh tế nổi tiếng khác như Gary Becker, Tom Campbell, Thomas Sowell. Các giải thưởng đạt được: Giải John Bates Clark (1951), Giải Nobel Kinh tế (1976), Huân chương Tự do Tổng thống 1988, Huy chương quốc gia về khoa học 1988. Các quan điểm kinh tế của trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ Lập trường cơ bản của phái Trọng tiền là phải thả lỏng nền kinh tế và chống lại sự can thiệp của chính phủ vào sự vận động của nền kinh tế. Những người theo phái này chủ trương vai trò của chính phủ là duy trì một tốc độ tăng tiền tệ ổn định hằng năm, và điều đó sẽ đảm bảo một sự tăng trưởng kinh tế vững chắc với giá cả ổn định. Trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ chủ trương tự do hóa nền kinh tế, đồng thời nhấn mạnh vai trò tự điều tiết của thị trường. - Về tình trạng nền kinh tế: Cho rằng giá cả và tiền lương trong điều kiện mới là tương đối linh hoạt, mềm dẻo. - Thị trường vẫn có khả năng tự động điều tiết. Trường phái này cho rằng cơ chế thị trường tự nó đã đảm bảo sự cân bằng cung cầu tổng quát ở gần sát với mức sản lượng cân bằng. - Do thị trường có khả năng tự điều chỉnh nên nền kinh tế có khả năng phát huy tiềm năng của mình. GNP thực tế gần sát GNP tiềm năng. Do đó đường tổng mức cung không phải là một khoảng nằm ngang mà là một đường dốc đứng gần với GNP (GNP: tổng thu nhập quốc dân) - Tổng cầu: Khi đường tổng cung là một đường dốc đứng, tổng cầu thay đổi thì nó không thay đổi hình dáng kể GNP thực tế mà chỉ làm thay đổi giá cả. - Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu: Trường phái này cho rằng chính sách tài chính không làm ảnh hưởng nhiều đến tổng cầu mà nhân tố quan trọng quyết định chính là khối lượng tiền tệ (ký hiệu: M) nói đúng hơn là tổng mức cung về tiền tệ. Theo quan điểm trọng tiền hiện đại ở Mỹ: Tổng cung tiền tệ là một nhân tố chủ quan. Vì vậy, nó thường không ổn định và nó thường đặc biệt dễ bị chi phối bởi nhân tố chính trị như là chu kỳ kinh doanh chính trị (chu kỳ bầu cử tổng thống, nghị sĩ quốc hội...). Trong khi đó tổng mức cầu về tiền tệ là một đại lượng khách quan, tương đối ổn định vì nó phụ thuộc vào GNP tiềm năng. Trường phái trọng tiền hiện đại Mỹ quan tâm đến căn bệnh chủ yếu của nền kinh tế: không phải là suy thoái và thất nghiệp mà căn bệnh nguy hiểm nhất là lạm phát. Họ đề ra biện pháp để chống lạm phát như sau: Thực hiện một chính sách tiền tệ, cụ thể, chủ động làm tăng tổng mức cung tiền tệ từ 3-4%/ năm (phù hợp với tốc độ tăng của tổng mức cầu tiền tệ là xấp xỉ mức phát triển của GNP tiềm năng. Một điểm cần chú ý ở đây là lạm phát giảm sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp tăng. Lý thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ Nội dung: ( Lý thuyết về thái độ ứng xử của người tiêu dùng và thu nhập Trước hết, về thái độ ứng xử của ngừơi tiêu dùng, theo M.Friedman trong điều kiện ổn định sẽ có hai nguyên nhân làm cho tiêu dùng cao hơn thu nhập là : Sự ổn định chi và các khoản thu nhập tăng lên. Sự tiêu dùng thông thường phụ thuộc vào thu nhập, lãi suất và thu nhập từ tài sản vật chất. Thứ hai, về thu nhập, theo M.Friedman , thu nhập (Y) trong một thời kỳ nhất định bao gồm: thu nhập thường xuyên Yp và thu nhập tức thời (Yt) Y=Yp+Yt Yp: của cải mà cá nhân nhận đuợc do nghề nghiệp mang lại Yt: thu nhập do các nhân tố khác. Tiêu dùng (C) là tổng số của tiêu dùng thường xuyên (Cp) và tiêu dùng nhất thời(Ct) C= Cp+ Ct Giữa tiêu dùng thường xuyên và thu nhập thường xuyên có mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ này được thể hiện bằng đẳng thức sau: Cp = k(i,w,u)Yp Trong đó: k: Hệ số chỉ tương quan giữa tiêu dùng thường xuyên và thu nhập thường xuyên. i: Lãi suất w: Tương quan giữa tài sản vật chất với thu nhập thường xuyên u: Sự phân chia thu nhập cho tiêu dùng và tiết kiệm. Qua đẳng thức trên, M.Friedman cho rằng tiêu dùng thường xuyên phụ thuộc vào lãi suất, tương quan giữa tài sản vật chất với thu nhập thường xuyên và sự phân chia thu nhập cho tiêu dùng và tiết kiệm là chính chứ không phải là thu nhập thường xuyên. ( Lý thuyết tiền tệ và thu nhập quốc dân Đây là lý thuyết nổi tiếng của Friedman và của phái trọng tiền. Nội dung cơ bản của lý thuyết này có thể khái quát thành những điểm dưới đây: Thứ nhất, nhân tố quyết định sự tăng trưởng của sản lượng quốc gia là mức cung tiền tệ. Theo M.Friedman và những người theo phái trọng tiền hiện đại, các biến số vĩ mô như: giá cả, sản lượng, công ăn việc làm phụ thuộc vào mức cung tiền tệ chứ không phải vào chính sách tài chính (thuế và chi tiêu ngân sách) của trường phái Keynes. Mức cung tiền tệ thường không ổn định và phụ thuộc vào quyết định chủ quan của chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Nếu ngân hàng trung ương phát hành không đủ tiền thì dễ dẫn đến khủng hoảng kinh tế, còn nếu phát hành thừa tiền thị lại bị lạm phát. Mức cầu tiền tệ có tính ổn định cao, nó được quyết định bởi thu nhập. Mức cầu danh nghĩa về tiền đuợc xác định bởi công thức: Md = f(Yn,i) Trong đó: - Md: Mức cầu danh nghĩa về tiền tệ - Yn: Thu nhập danh nghĩa - i: Lãi suất danh nghĩa Qua công thức trên, những người trọng tiền hiện đại cho rằng sự thay đổi cầu về tiền tệ phụ thuộc vào sự thay đổi của thu nhập, còn lãi về tiền là nhân tố ngoại sinh của nền kinh tế. Từ đó có thể trình bày công thức cầu về tiền dưới dạng đơn giản sau: Md=f(Yn) Qua những phân tích trên, M.Friedman cho rằng cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 diễn ra ở Mỹ là do Hệ thống dự trữ liên bang (FED) đã phát hành một số tiền ít hơn mức cung tiền tệ. Tứ đó, ông đề nghị thực hiện chu kỳ tiền tệ và thu nhập quốc dân nhằm chủ động điều tiết mức cung tiền tệ trong từng thời kỳ phát triển. Trong thời kỳ khủng hoàng thì tăng mức cung tiền tệ để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, còn trong thời kỳ phồn vinh thì giảm mức cung tiền để kìm hãm bớt mức phồn vinh. Theo ông, để giữ sự ổn định trong nền kinh tế cần tăng khối lượng tiền hàng năm ổn định mức từ 3-4% . Thứ hai, giá cả hàng hóa phụ thuộc vào khối lượng tiền tệ. Từ công thức M.V = P.Q => P = V/Q.M Trong đó: M: là mức cung tiền tệ V: tốc độ lưu thông của tiền tệ Q: số lượng hàng hóa, dịch vụ trong năm P: giá cả trung bình của hàng hóa và dịch vụ Ta có: Nếu V,Q không đổi thì P phụ thuộc vào M. Khối lượng tiền tệ càng nhiều thì giá cả hàng hóa càng tăng cao. Do đó, các nhà trọng tiền hiện đại quan tâm đến việc ổn định tiền tệ và chống lạm phát. Theo họ, vấn đề cần quan tâm trong nền kinh tế là lạm phát, là căn bệnh nan giải của xã hội cần phải giải quyết. M.Friedman đã đưa ra khái niệm thất nghiệp tự nhiên, từ đó trở thành khái niệm cơ bản trong phân tích thị trường lao động theo lý thuyết tự do. "Ở bất cứ thời điểm nào cũng luôn luôn có một mức thất nghiệp mang đặc tính là tương hợp với thế cân đối trong cơ cấu tỷ lệ lương thực tế.....Tỷ lệ thất nghiệp nếu thấp hơn mức ấy tức là cầu quá lớn về lao động do đó sẽ gấp sức ép vào sự giảm tiền lương thực tế" (Vai trò của chính sách tiền tệ, American Economic Review, tháng 3-1968). - Thứ ba, trường phái trọng tiền hiện đại ủng hộ và bảo vệ quan điểm tự do kinh tế, chế độ tư hữu và quyền tự do hoạt động của các doang nghiệp, nhà nước không nên can thiệp sâu vào kinh tế. Vì nên kinh tế tư bản chủ nghĩa đang phát triển cao, tương đôi ổn định, thường xuyên ở tình trạng cân bằng động; hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế dựa vào các qui luật kinh tế khách quan, mà không cần sự can thiệp sâu của nhà nước. Ưu điểm và hạn chế của học thuyết trọng tiền: ( Ưu điểm: Chính sách tiền tệ là một vũ khí vĩ mô rất mạnh mẽ và sắc bén: sẽ loại trừ được những biến động cục bộ hay tác động của sức ỳ nhất định trong giá cả và tiền công, làm cho nền kinh tế nhanh chóng trở lại thế cân bằng (do khối lượng tiền tệ tăng lên với một tỉ lệ không đổi, từ 3% - 4% một năm). Học thuyết này đã đề ra một giải pháp hữu hiệu để tránh lạm phát. ( Hạn chế: Không đề cao sự can thiệp của Chính phủ để điều tiết nền kinh tế. Theo họ thì cơ chế thị trường tự do có thể điều tiết, giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản một cách có hiệu quả, không cần đến sự can thiệp của Nhà nước. Sự can thiệp của Nhà nước chỉ làm phá vỡ thế cân bằng thị trường và có hại cho nền kinh tế. Chỉ quan tâm đến việc chống lạm phát mà không lưu tâm đến suy thoái và thất nghiệp, là căn bệnh trầm kha của chủ nghĩa tư bản. Vào những năm 1973-1974, chủ nghĩa trọng tiền đuợc vận dụng ở Mỹ và Anh. Ở Mỹ chính quyền Nixon, nói chung là chính phủ của Đảng Cộng hòa đều coi trọng các ý kiến của trường phái trọng tiền Chicago, ngay cả FED cũng họach định chính sách tiền tệ từ năm 1978 đến năm 1982 trên cơ sở quan điểm của trường phái này. Nhưng việc vận dụng nó mang lại kết quả hạn chế: + Sự giảm giá gây ra tình trạng trì trệ và thất nghiệp ở mức cao. + Việc giảm chi phí nhà nước và giảm thâm hụt ngân sách dẫn đến giảm cầu tín dụng nhà nước. Điều đó hạn chế tăng giá, nhưng lại kéo theo giảm kích thích đầu tư làm cho nền kinh tến xấu đi. + Nó làm tăng giảm mâu thuẫn trong xã hội tư bản: thất nghiệp tăng, cắt giảm chi phí xã hội, mức sống người lao động giảm... So sánh học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ với chính sách tiền tệ của J.M. Keynes Trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ đối lập và phê phán gay gắt những quan điểm chủ yếu của Keynes. Có nhiều điểm khác biệt giữa lý thuyết của Friedman về cầu tiền và lý thuyết của Keynes: Đưa nhiều tài sản vào làm đối trọng cho tiền. Friedman nhận thức rằng không phải chỉ có lãi suất có ý nghĩa quan trọng đối với sự vận hành của nền kinh tế tổng hợp. Ngược lại, Keynes xếp tất cả các tài sản tài chính không phải tiền vào một nhóm lớn – gọi là trái phiếu – bởi vì ông cảm thấy lợi tức của chúng nhìn chung biến đổi cùng nhau. Nếu điều này đúng, lợi tức dự kiến thu được từ trái phiếu sẽ là chỉ báo tốt về lợi tức dự kiến thu được từ các tài sản tài chính khác và không cần tách biệt chúng ra trong hàm cầu tiền. Cũng ngược với Keynes, Friedman coi tiền và hàng hóa là hàng thay thế cho nhau. Nghĩa là, mọi người lựa chọn giữa chúng khi quyết định nắm giữ bao nhiêu tiền. Đây là lí do giải thích tại sao Friedman đưa cả lợi tức dự kiến thu được từ hàng hóa so với tiền vào hàm cầu tiền của mình. Giả định tiền và hàng hóa là hàng thay thế chỉ ra rằng những thay đổi trong khối lượng tiền tệ có thể có ảnh hưởng trực tiếp tới tổng chi tiêu. Ngoài ra, Friedman cũng nhấn mạnh hai vấn đề khi trình bày hàm cầu tiền của mình khác với hàm cầu tiền rút ra từ lý thuyết ưa thích thanh khoản của Keynes: + Thứ nhất, Friedman không coi lợi tức dự kiến thu được từ tiền là không thay đổi như Keynes. Khi lãi suất trong nền kinh tế tăng, ngân hàng kiếm được nhiều lợi nhuận hơn từ các khoản cho vay của mình và họ muốn thu hút nhiều tiền gửi hơn để tăng khối lượng các khoản cho vay giờ đây có thể đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Nếu không có các hạn chế về lãi suất trả cho tiền gửi, ngân hàng sẽ thu hút tiền gửi bằng cách trả lãi suất cao hơn cho nó. Bởi vì ngành này có khả năng cạnh tranh, nên lợi ích dự kiến thu được từ tiền được nắm giữ dưới dạng tiền gửi ngân hàng tăng cùng với lãi suất cao hơn thu được từ trái phiếu và các khoản cho vay. Ngân hàng cạnh tranh để nhận được tiền gửi cho tới khi không còn lợi nhuận quá cao và khi làm như vậy, họ thu hẹp mức chênh lệch giữa lãi suất thu được từ các khoản cho vay và lãi suất trả cho tiền gửi. Kết quả ròng của sự cạnh tranh này trong ngân hàng là rb-rm tương đối không thay đổi khi lãi suất i tăng. Còn nếu có hạn chế về lãi suất mà ngân hàng được phép trả cho tiền gửi, khi lãi suất tăng thì rb-rm không tăng. Ông cho rằng mặc dù các ngân hàng có thể bị hạn chế trong việc thanh toán bằng tiền mặt cho các khoản tiền gửi, song họ vẫn có thể cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ. Vì thế, mặc dù có các hạn chế về thanh toán lãi suất bằng tiền mặt thì vẫn có thể thấy sự gia tăng trong lãi suất thị trường làm tăng lợi tức dự kiến thu được từ tiền, đủ để rb-rm tương đối không thay đổi. Không giống như lý thuyết của Keynes, một lý thuyết chỉ ra rằng lãi suất là yếu tố quan trọng quyết định cầu tiền M = L(i), lý thuyết của Friedman cho rằng những thay đổi trong lãi suất chỉ có ảnh hưởng nhỏ đến cầu tiền. Bởi vậy, hàm cầu tiền của Friedman về cơ bản là hàm cầu tiền mà trong đó thu nhập thường xuyên là yếu tố trước hết quyết định cầu tiền và phương trình cầu tiền của ông có thể trình bày như sau: MD/P = f(Yp). Theo quan điểm của Friedman, cầu tiền không nhạy cảm với lãi suất– không phải vì ông cho rằng cầu tiền không nhạy cảm với những thay đổi trong động cơ nắm giữ các tài sản khác với tiền – mà bởi vì những thay đổi trong lãi suất chỉ có ít ảnh hưởng tới các biểu thức biểu thị động cơ trong hàm cầu tiền. Các biểu thức biểu thị động cơ tương đối không thay đổi, bởi vì bất kỳ sự gia tăng nào trong lợi tức dự kiến thu được từ các tài sản khác mà dẫn tới sự gia tăng trong lãi suất cũng sẽ được bù lại bằng sự gia tăng trong lợi tức dự kiến thu được từ tiền. + Vấn đề thứ hai mà Friedman nhấn mạnh là sự ổn định của hàm cầu tiền. Khác với Keynes, Friedman cho rằng những biến động ngẫu nhiên trong cầu tiền là nhỏ và rằng cầu tiền có thể được dự báo chính xác bằng hàm cầu tiền. Khi kết hợp với quan điểm của ông là cầu tiền không nhạy cảm với những thay đổi trong lãi suất, điều này có nghĩa là tốc độ lưu thông rất dễ dự báo. Chúng ta có thể thấy điều này khi biểu thị tốc độ lưu thông hàm ý trong phương trình cầu tiền: V = Y/f(Yp). Do mối quan hệ giữa Y và Yp thường dễ dự báo nên hàm cầu tiền ổn định. Điều này hàm ý tốc độ lưu thông cũng có thể dự báo được. Nếu chúng ta dự báo được tốc độ lưu thông sẽ xuất hiện trong kỳ tiếp theo, thì sự thay đổi trong khối lượng tiền tệ sẽ tạo ra sự thay đổi dự báo được trong tổng chi tiêu. Mặc dù tốc độ lưu thông không còn được giả định là hằng số, song cung tiền tiếp tục là yếu tố trước hết quyết định thu nhập danh nghĩa nhuw trong lý thuyết số lượng tiền tệ. Bởi vậy, lý thuyết của Friedman về cầu tiền dĩ nhiên phải là sự trình bày lại lý thuyết số lượng do nó dẫn tới kết luận như nhau về tầm quan trọng của tiền đối với tổng chi tiêu. Tóm lại, lý thuyết của Friedman về cầu tiền sử dụng phương pháp tiếp cận tương tự như phương pháp tiếp cận của Keynes, nhưng không đi vào những chi tiết nắm trong động cơ nắm giữ tiền. Thay vào đó, Friedman sử dụng lý thuyết cầu về tài sản để chỉ ra rằng cầu tiền là một hàm của thu nhập thường xuyên và lợi tức dự kiến thu được từ các tài sản khác so với lợi tức dự kiến thu được từ tiền. Có hai khác biệt lớn giữa lý thuyết của Friedman và lý thuyết của Keynes: Friedman tin rằng những thay đổi trong lãi suất có ảnh hưởng nhỏ tới lợi tức dự kiến thu được từ tài sản khác so với tiền. Bởi vậy, khác với Keynes, ông coi cầu tiền không nhạy cảm với lãi suất. Ngoài ra, ông khác với Keynes ở chỗ nhấn mạnh rằng hàm cầu tiền không trải qua sự dịch chuyển đáng kể và bởi vậy khá ổn định. Hai sự khác biệt này cũng cho thấy rằng người ta dễ dàng dự báo được tốc độ lưu thông, tương tự như kết luận của lý thuyết số lượng rằng tiền là yếu tố trước hết quyết định tổng chi tiêu. Ứng dụng thực tiễn Tại Mỹ những năm 80 của thế kỉ XX Chính sách dưới thời tổng thống Ronald Reagan. Tổng thống Reagan đã sử dụng nhiều chính sách kinh tế dựa trên học thuyết kinh tế của trường phái tự do mới. Ông đã áp dụng thành công lý thuyết trọng tiền hiện đại để kiềm chế lạm phát. Năm 1980, khi Reagan được bầu lên, tỷ lệ lạm phát ở mức 13,5%/năm. Nó giảm xuống dưới 5% khi ông từ nhiệm năm 1989. Dưới sự điều hành của cựu chủ tịch Quỹ dự trữ liên bang (FED) Paul Volcker, tỷ lệ lãi suất lên đến 19% năm 1981 – so với mức 1% ngày nay. Nền kinh tế suy thoái trước khi phục hồi cuối năm 1982. “Chính sách kiểm soát tiền tệ chặt chẽ, đầu tiên dưới thời Volcker và sau đó dưới thời (chủ tịch FED hiện giờ) Alan Greenspan sẽ không thể nào thực thi, nếu không có sự ủng hộ mạnh mẽ của tổng thống”, Niskanen bình luận. Reagan sẵn sàng sa thải các kiểm soát viên không lưu khi họ đình công, làm thay đổi vĩnh viễn mối quan hệ giữa giới chủ và công đoàn. Ông chấp nhận tỷ lệ thất nghiệp cao, ủng hộ thị trường tự do và chống lại sự can thiệp của chính phủ. Ngoài ra Tổng thống Reagan còn sử dụng lý thuyết trọng cung. ý thuyết kinh tế học chỉ đạo quan điểm này là lý thuyết trọng cung. Lý thuyết này cho rằng việc cung cấp nhiều loại hàng hóa và dịch vụ sẽ khiến đầu tư kinh doanh tăng lên và do đó, là con đường ngắn nhất dẫn đến tăng trưởng kinh t
Luận văn liên quan