Phân tích ứng xử của cấu kiện trong công trình chống động đất

Đối với người kỹsưthiết kếcông trình chống động đất thì không đơn giản chỉlà giải quyết vấn đềphân tích, tính toán theo các quy phạm mà phải hiểu rõ được cách thức mà công trình bịphá hoại xảy ra trong thực tếcác trận động đất. Vì vậy mà một kiến thức thực tế đối với ứng xửcủa nhà trong các trận động đất là rất quan trọng. Trong đềtài này chỉ đi sâu nghiên tác những tác động của động đất đối với công trình đó là những ứng xửcủa các bộphận kết cấu, những dạng phá hoại, sựnguy hiểm xảy ra ởtừng cấu kiện khác.

pdf16 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2320 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích ứng xử của cấu kiện trong công trình chống động đất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 PHAÂN TÍCH ÖÙNG XÖÛ CUÛA CAÁU KIEÄN TRONG COÂNG TRÌNH CHOÁNG ÑOÄNG ÑAÁT Taùc giaû: Phan Ñöùc Kyø – X03A2 TỔNG QUAN Đối với người kỹ sư thiết kế công trình chống động đất thì không đơn giản chỉ là giải quyết vấn đề phân tích, tính toán theo các quy phạm mà phải hiểu rõ được cách thức mà công trình bị phá hoại xảy ra trong thực tế các trận động đất. Vì vậy mà một kiến thức thực tế đối với ứng xử của nhà trong các trận động đất là rất quan trọng. Trong đề tài này chỉ đi sâu nghiên tác những tác động của động đất đối với công trình đó là những ứng xử của các bộ phận kết cấu, những dạng phá hoại, sự nguy hiểm xảy ra ở từng cấu kiện khác. I. TÁC ĐỘNG CỦA ĐỘNG ĐẤT LÊN CÔNG TRÌNH 1) Nội lực trong kết cấu: Động đất gây ra sự dịch chuyển của đất nền.Vì vậy một công trình nằm trên đó sẽ phải chịu sự dịch chuyển móng của nó. Theo định luật I Niutơn mặc dù móng của nó dịch chuyển theo sự dịch chuyển của đất nền nhưng phần mái của ngôi nhà có khuynh hướng đứng yên tại vị trí gốc ban đầu của nó. Nhưng vì tường và cột liên kết với mái nên chúng sẽ kéo theo sự dịch chuyển của mái. Điều này giống như khi bạn đi xe buýt, lúc đầu khi xe buýt chưa chuyển động thì cơ thể vẫn giữ nguyên vị trí nhưng khi xe buýt bắt đầu chuyển động chân của bạn sẽ di chuyển theo xe buýt nhưng phần cơ thể phía trên có khuynh hướng giữ nguyên vị trí ban đầu đã làm cho bạn bị ngã về phía sau khuynh hướng này tiếp tục giữ nguyên vị trí giống như là quán tính. Trong ngôi nhà thường thì tường và cột thì dẻo nên sự chuyển động của mái thì khác so với sự dịch chuyển của đất nền (hình 1). Hình 1: Ảnh hưởng của quán tính ngôi nhà Khi xảy ra chấn động tại móng của nó 180 Bây giờ ta xét một ngôi nhà mà mái của nó gối lên các cột (hình 2). Trở lại sự suy luận của bản thân khi đứng trên xe buýt, khi xe buýt đột ngột chuyển động bạn bị giật về phía sau dường như có một lực nào đó tác động lên phần trên của cơ thể. Một cách tương tự khi đất nền chuyển động ngôi nhà bị giật lại về phía sau và mái chịu tác động một lực, đó là lực quán tính. Nếu ngôi nhà có một khối lượng M và chuyển động với gia tốc a thì theo định luật II Niuton giá trị lực quán tính là: F= Ma. Lực quán tính có phương ngược với phương chuyển động của gia tốc. Rõ ràng mái có khối lượng càng lớn thì lực quán tính càng cao. Vì thế đối với những ngôi nhà nhẹ hơn sẽ có khả năng chống động đất tốt hơn. Hình 2: lực quán tính và chuyển vị tương đối trong công trình. Lực quán tính u mái Cột Móng nhà Đất Gia tốc nền Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 2) Ảnh hưởng do biến dạng của kết cấu: Dưới sự dịch chuyển của đất nền thông qua các cột đã sinh ra lực quán tính tác động lên mái ngôi nhà đã gây nên nội lực trong các cột. Những nội lực này được sinh ra thì có thể giải thích theo nhiều cách khác nhau. Trong suốt quá trình xảy ra động đất, cột nhà chịu sự chuyển vị tương đối giữa hai đầu của chúng từ đó phát sinh nên nội lực trong các cột ( hình 2). Trong hình 2, u là chuyển vị giữa mái và đất nền. đại lượng u cũng chính là sự chuyển vị tương đối giữa 2 đầu cột, so với vị trí thẳng đứng ban đầu thì cột bị biến dạng. khi ở vị trí phương thẳng đứng thì cột không chịu lực động đất ngang truyền qua chúng. Nhưng khi lực này bẻ cong cột thì trong cột sẽ phát sinh nội lực. tùy vào độ cứng của cột mà nội lực có thể lớn hoặc nhỏ. Do đó nội lực này trong cột còn gọi là lực cứng ( stiffness forces). EJuN = 3) Chấn động phương ngang và phương đứng 181 ĐẤT Hình 4: Dòng truyền lực quán tính do động đất đi qua các thành phần kết cấu Sự dịch chuyển do động đất SÀN HỆ THỐNG TƯỜNG HOẶC CỘT MÓNG LỰC QUÁN TÍNH Động đất gây nên chấn động của đất nền theo mọi phương dọc theo 2 phương (X và Y) và phương đứng Z (hình 3). Vì thế trong quá trình động đất nền đất bị chấn động một cách ngẫu nhiên dọc theo X, Y, Z. Tất cả các kết cấu đều được thiết kế để chịu được tải trọng do trọng lực gây nên (gravity) G bao gồm cả trọng kết cấu và tải trọng tác động do sử dụng M). G = Mg. trong đó g là gia tốc trọng trường ngược chiều với trục Z. Gia tốc theo phương đứng trong suốt quá trình chấn động nền cũng không được cộng vào hay trừ ra với gia tốc trọng trường. Vì các hệ số an toàn trong quá trình thiết kế kết cấu thường đủ khả năng chống lại sự chấn động theo phương thẳng đứng. Tuy nhiên sự chấn động theo phương ngang X, Y gây ra mối nguy hiểm. Kết cấu thông thường được thiết kế đối với trọng lực nhưng có thể nó không thể an toàn khi chịu tác động của chấn động theo phương ngang của động đất. Vì thế, cần phải thiết kế chống lại tác động theo phương ngang của động đất. 4) Dòng chảy của lực quán tính xuống móng Dưới sự dịch chuyển theo phương ngang của đất nền phát sinh lực quán tính tại vị trí mang khối lượng lớn của kết cấu mà thường là tại các tầng. Các lực quán tính ngang này sẽ truyền từ sàn qua hệ dầm, tường và cột xuống dưới móng và cuối cùng là truyền xuống hệ thống đất nền bên dưới (hình 4). Vì vậy các thành phần kết cấu như sàn, dầm, cột hay tường và các mối nối giữa chúng cần được thiết kế an toàn để có thể chịu được lực quán tính này truyền qua chúng. Tường và cột là những thành phần then chốt nhất trong việc truyền tải lực quán tính xuống nền. Nhưng trong các công trình xây dựng thì dầm được quan tâm thiết kế nhiều thường khỏe hơn tường và cột. tường thì tương đối mỏng và thường làm từ vật liệu dòn như khối xây, chúng rất kém trong việc chịu lực quán tính theo phương ngang nên dễ bị phá hoại khi xảy ra động đất. Tương tự, cho cột bê tông cốt thép thiếu cường độ chịu động đất là một thảm họa. vì trong thực tế nhiều công trình bị phá hoại chỉ do một số ít cột bị phá hoại gây ra sự sụp đổ cho toàn bộ công trình. Z Y X Hình 3: những phương chính của ngôi nhà Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 5) Ứng xử của khối xây ấu khung. 182 Hình 6.1: ứng xử của tường xây không cốt thép khi xảy ra động đất, tường bị đu đưa mất liên kết, nứt chéo chữ X. (b) rung lắc của tường ngăn Đu đưa Khoảng hở Góc chéo Lanh tô Giằng Cửa đi Cửa sổ Mái Đà kiềng X-Cracking của tường ngăn (c) vết nứt- X phần tường ngăn (cửa) Tường (a) các thành phần nhà Sự phá hoại của khối xây không cốt thép xảy ra thường xuyên trong các trận động đất đến nỗi được xem như là hiển nhiên. Nhiều quy phạm chống động đất đã cấm sử dụng khối xây không có cốt thép. Tuy nhiên vì các lý do kinh tế khối xây không có cốt thép được sử dụng rộng rãi cả cho tường chịu lực nhà thấp tầng và cả để chèn trong các kết c Trong các khối xây thường có các giằng ngang để cải thiện khả năng chịu động đất. Những giằng ngang này gồm có: giằng chân cột ( đà kiềng), giằng cửa, giằng mái. Tuy vậy do trong công trình có nhiều cửa, khoảng không trên tường đã làm cho tường bị giảm yếu ( hình 5). Trong nhà chống động đất tường xây được phân thành 3 loại nhỏ là: phần tường lửng dưới mái (spandrel masory) phần tường ngăn cửa (wall pier masory) và phần tường dưới cửa (sill masory) ( hình vẽ) sở dĩ phân chia như vậy vì khi xảy ra động đất thì 3 phần tường này có ửng xử khác nhau.Khi xảy động đất lực quán tính làm cho phần tường ngăn (cửa) bị mất liên kết với phần tường xây ở trên và dưới. Phần tường này bị đu đưa tại điểm góc và tường phát sinh vết nứt dạng chữ X – đây là dạng phá hoại phổ biến trong khối xây ( hình 6.1a,b,c). Trong các khối xây không cốt thép (hình 6.2) diện tích mặt cắt ngang của tường xây bị giảm yếu tại những lỗ cửa, do đó ngôi nhà có thể trượt ngay dưới mái, dưới lanh tô, tại cao trình ngưỡng cửa và đôi khi bị trượt ngay tại cao trình đà kiềng. Vị trí của điểm trượt phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trọng lượng nhà, lực quán tính sinh ra, diện tích phần cửa và loại khung cửa được sử dụng. Hình 5 : các thành phần chia nhỏ của tường xây trong nhà chống động đất - Mái Phần tường dưới mái MÔMA Phần tường Đất Lanh tô Phần tường ngăn Ngưỡng cửa Đà kiềng Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 Hình 6.2: sự trượt ngang xảy ra tại cao trình ngưỡng cửa trong tường xây không cốt thép. Móng Mái Lực quán tính Mặt trượt (a) cốt thép trong khỗi xây làm tường chịu uốn thay vì chịu dao động của các phần tường. Tường chỉ bị uốn Cốt thép phải được neo từ móng đến mặt trên củagiằng mái Hình 7: ứng xử của khối xây có cốt thép (b) cốt thép chịu lực cắt gây trượt tại các vị trí tiếp xúc của các phần tường (mặt trượt). Trong tường xây không cốt thép khả năng bị phá hoại và hư hại là rất cao và dễ gây nguy hiểm cho con người và đồ đạc trong nhà. Do khả năng liên kết với các phần tường với nhau kém, tiết diện tường bị giảm yếu, khả năng chịu dao động kém nên tường không cốt thép rất bất lợi trong chịu tải trọng động đất. Do đó cần luồn cốt thép trong tường để giúp tường tăng khả năng chịu tải trọng động đất. Điều này giải thích tại sao một số quy phạm trên thế giới cấm sử dụng tường xây không cốt thép trong nhà chống động đất ở những khu vực có cường độ động đất cao. Bố trí cốt thép trong tường xây: • Cốt thép trong tường xây phải luồn theo phương thẳng đứng theo cạnh tường và được neo từ móng đến mặt trên của giằng mái (hình 7). Khi có cốt thép thì các phần tường thay vì bị đu đưa sẽ chịu uốn tránh được sự mất liên kết giữa các phần tường với nhau, cả bức tường cùng làm việc chung với nhau giúp cho cả khối xây ổn định và chắc khỏe hơn. Bên cạnh đó cốt thép trong khối xây sẽ chị cắt tại những vị trí khối xây có tiết diện nhỏ đặc biệt là phần tường ngăn (cửa)-vị trí yếu nhất và dễ bị phá hoại nhất, nhờ vậy mà khả năng chịu tải trọng ngang tăng lên tránh được sự phá hoại cắt trong tường xây, ngăn cảng vết nứt (đặc biệt là vết nứt dạng chữ X) phát triển trong khối xây. - Tại vị trí cửa khi xảy ra động đất thì khung cửa bị biến dạng (do tường bị dao động) khỏi dạng chữ nhật ban đầu thành hình thoi (hình 8). Khi đó có các góc trên các đường chéo bị biến dạng khác nhau, 2 góc di chuyển ra xa nhau và 2 góc di chuyển hướng lại gần nhau. 183 Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 184 Dưới sự tác động biến dạng như vậy dẫn đến các vết nứt phát triển tại góc khung cửa, vết nứt nhanh chóng phát triển rộng trong cả khối xây. vết nứt càng lớn khi kích thướt khung cửa (cửa sổ, cửa đi, các dạng lổ cửa nói chung) càng lớp. do vậy để tránh phá hoại ta đặt cốt thép trong khối xây để chịu ứng suất kéo phát sinh khi tường biến dạng làm cho khối xây có tính dẻo hơn chịu được sự dao động tốt hơnÆ ngăn chặn sự phát triển của các vết nứt. Tóm lại, các vết nứt thường tập trung xung quanh các lỗ cửa. Sự rạn nứt thường chạy theo các mạch vữa. tác dụng của cốt thép đối với sự tổn hại trong mặt phẳng là làm giảm số lượng vết nứt và giảm đáng kể khả năng phá hoại. Ở ngoài mặt phẳng, khối xây đứng độc lập hay bị tách khỏi bất kỳ một kết cấu liền kề nào đều có thể bị phá hoại. Việc này sẽ ít có khả năng xảy ra hơn nhiều nếu có một mối liên kết cứng ở hai đầu của bức tường. Cốt thép tạo thành một khung bao quanh là hữu hiệu nhất trong việc chống sập đổ hoàn toàn. Tổn hại đối với với khối xây thường tập trung quanh các lổ cửa. Việc cần làm đối với khối xây không có cốt thép đơn giản vào trong các tấm panen. Hình 14: vết nứt tại góc cửa của khối xây không cốt thep – cần luồn cốt thép để hạn chế nứt. (b) không xuất hiện vết nứt trong khối xây có cốt thép Lực quán tính do động đất Vết nứt (a) vết nứt tại góc tường xây không có cốt thép gia cường Cốt thép Lanh tô Giằng ngưỡng cửa dưới Biến dạng hình thoi của Khung cửa Phá hoại trong khối xây - dạng chữ X, đặc biệt tại vị trí cửa sổ. Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 II. PHÂN TÍCH ỨNG XỬ CỦA KẾT CẤU KHUNG BÊ TÔNG CỐT THÉP 1) Nhà bê tông cốt thép Hình 9: Minh họa – nội lực do lực ngang gây ra tăng dần xuống chân cột, tường. TẦ N G 5 4 3 2 1 Lực tổng Bê tông cốt thép (RC) là vật liệu phổ biến nhất hiện nay, RC có thể được đúc nhiều hình dạng khác nhau theo mong muốn của người thiết kế. Cấu kiện đặc trưng của RC trong nhà là: dầm, sàn nằm theo phương ngang nhà, cột, tường theo phương đứng được đỡ bởi hệ thống móng và truyền tải trọng xuống nền đất. Một hệ thống gồm dầm liên kết với cột gọi là khung bê tông cốt thép mà hiện nay đang sử dụng phổ biển trong mọi công trình dân dụng. Khung RC là kết cấu chính chịu tải trọng động đất. Chấn động do động đất làm phát sinh ra lực quán tính cho ngôi nhà, lực này tỉ lệ với khối lượng. đối với nhà thì khối lượng tập trung ở cao trình của sàn nên lực quán tính phát sinh và phát triển chủ yếu là tại cao trình sàn. Những lực này truyền qua dầm, sàn xuống tường, cột và cuối cùng xuống móng để truyền tải trọng vào nền đất. Lực ngang do động đất gây ra tăng dần theo độ giảm chiều cao công trình, tại đỉnh thì lực ngang do động đất gây ra là cực tiểu còn tại chân cột, tường tầng trệt thì cực đại (hình 9). 2) Vai trò của sàn và tường xây Trong nhà nhiều tầng có thể dùng hệ dầm - sàn hay hệ sàn không dầm. Với hệ dầm-sàn nếu dầm bị uốn do tải trọng thẳng đứng thì những tấm sàn (thường 110-150mm) cũng sẽ uốn chung với dầm (Hình 10). Còn khi dầm dịch chuyển cùng với cột theo phương ngang sàn kéo theo dầm cùng chuyển động với nó. Trong hầu hết mọi công trình thì biến dạng hình học của sàn không đáng kể theo phương ngang, vì ứng xử của sàn được xem là một tấm cứng tuyệt đối theo phương ngang. Dưới tác động của lực ngang thì cột dịch chuyển theo phương lực tác dụng, trong khi tường xây có khuynh hướng chống lại sự dịch chuyển này bởi vì chúng có trọng lượng lớn và bề dày tường lớn cho nên tường chịu tác dụng những lực ngang khá lớn (hình 11). Bên cạnh đó khối xây là loại vật liệu dòn nên dễ phát sinh vết nứt và phá hoại. Vì vậy vai trò của tường xây giống như “cầu chì” trong ngôi nhà; chúng sẽ phát 185 Hình 10: Sàn và dầm bị uống chung theo phương đứng và dịch chuyển kéo theo cột theo phương ngang. (a) dịch chuyển theo phương đứng (b) dịch chuyển theo phương ngang Khoảng hở Hình 11: Minh họa -Sự làm việc chung của tường và cột Nén Nứt Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 Độ cứng của tấm tường có thể được tăng cường bằng mác vữa, các lớp hồ no vữa, có thể làm giảm khoảng hở giữa chúng với khung nhà. Tuy vậy nếu một tấm tường được thiết kế không hợp lý về chiều cao và chiều dài so với bề dày của nó có thể dẫn đến sự sụp đổ ngoài mặt phằng tường gây ra nguy hiểm. Hơn nữa, việc đặt tường không hợp lý có thể gây ra hiện tượng xoắn và giảm yếu khung giống như hiện tượng “cột ngắn” (phân tích ở phần sau) Ảnh hưởng nội lực của tải trọng động đất • Dưới tác dụng của tải trọng trọng lực thẳng đứng ( Tĩnh tải + hoạt tải sử dụng) làm cho dầm bị uốn và gây ra sự căng thớ tại các vị trí khác nhau. Thông thường thì dầm bị căng thớ dưới tại giữa dầm và căng thớ trên tại 2 đầu dầm (hình 12). Trong khi đó tải trọng động đất tác động theo phương ngang làm cho dầm, cột căng thớ ngược lại so với tải trọng thẳng đứng tức là momen uốn do tải trọng động đất sinh ra ngược lại so với momen do tải trọng thẳng đứng gây ra cho công trình đặc biệt tại 2 đầu của dầm. Độ lớn của momen do động đất gây ra có thể lớn hơn momen do trọng lực gây nên dẫn đến đầu dầm bị căng thớ chịu nén khi xảy ra động đất. Để an toàn cho công trình thì cột phải được thiết kế khỏe hơn dầm và liên kết dầm cột nên là liên kết cứng để khi có động đất thì sự phá hoại bắt đầu ở dầm trước. Khi dầm được thiết kế có nhiều tính dẻo ngôi nhà có thể biến dạng lớn và khi phá hoại dầm đạt đến trạng thái dẻo trước cột. Sự phá hoại của dầm sẽ chỉ làm công trình hư hại tại một số tầng cụ thể mà không làm phá hoại, sập toàn bộ công trình và có thể sửa chữa được sau đó. Còn nếu thiết kế cột yếu hơn dầm thì cột sẽ chịu phá hoại cục bộ tại 2 đầu cột (hình 13). Sự phá hoại cục bộ ở cột có thể dẫn đến sự sập đổ của toàn bộ công trình cho dù sàn dầm, cột tầng trên không bị phá hoại HÌNH ẢNH MINH HỌA 186 Hình 12: Sự đổi chiều của momen do động đất so với trọng lực (tải Căng thớ dưới Momen (b) (d) (a) (c) Trọng lực Động đất Chịu Thớ Hình 13: So sánh hiệu ứng của 2 phương án thiết kế Chuyển vị nhỏ Sự nguy hiểm đều tập trung ở một tầng Cột yếu- dầm khỏe BIỂU ĐỒ NỘI LỰC TRONG KHUNG Sự nguy hiểm phân bố cho tất cả các tầng của công trình Nhà dẻo có chuyển vị lớn Cột khỏe – dầm yếu (a) (b) Phá hoại Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 3) Ứng xử và cấu tạo nút khung trong nhà chống động đất: Trong nhà bê tông cốt thép thường cấu tạo của nút khung là nút cứng, nút cứng làm tăng bậc siêu tĩnh của khung làm giảm momen nội lực gây ra cho dầm và cột, giảm chuyển vị ngang của khung. Tùy thuộc vào thành phần vật liệu mà nút khung có cường độ giới hạn và khả năng chịu lực khác nhau, khi lực gây ra do động đất càng lớn thì nút khung càng nguy hiểm. Nút khung chịu momen do các dầm truyền vào nó, dưới tác dụng của những momen này lực trong các thanh cốt thép làm nút bị kéo và nén theo 2 phương khác nhau tại đầu trên và đầu dưới của nó. Những lực này cân bằng với nhau do ứng suất liên kết được tạo ra giữa bê tông và cốt thép trong vùng nút. Nếu như cột nhỏ hay cường độ bê tông của nút thấp thì bê tông không đủ lực dính để giữ cốt thép dẫn đến thanh cốt thép bị trượt trong vùng nút kéo theo dầm bị mất khả năng chịu tải trọng làm cho khung bị nguy hiểm. Mặt khác dưới tác dụng của lực kéo và nén tại đỉnh và đáy của nút làm cho nút bị biến dạng hình học làm cho nút bị biến dạng chiều dài 1 cạnh chéo của nút khung bị kéo giãn ra trong khi cạnh còn lại chịu nén lại gần nhau. Trong trường hợp đó nếu như thiết kế cột không đủ yêu cầu thì bê tông trong nút bị nứt theo phương cạnh chéo ( hình 14). Hình 15: cốt đai trong nút – cấu tạo cốt đai 1350 để giảm khả năng tuột trong khi làm việc. Cốt đai kín Dầm Cột 10d≥ 135º 187 • Cấu tạo cốt thép cho nút khung: Vấn đề nứt chéo của bê tông trong nút có thể giải quyết bằng 2 cách đó là tăng tiết diện cột để tăng lực dính giữa bê tông và cốt thép; giảm khoảng cách cốt đai tại nút (hình 15). Các cốt đai giúp cho bê tông không bị biến dạng ra ngoài phạm vi nút và cũng tăng khả năng chịu cắt, vì vậy ngăn cản vết nứt xuất hiện. Tuy nhiên việc này gây ra khá nhiều phiền hà trong thi công. Trong đề tài này không đề cập đến vấn đề tính toán cốt đai và yêu cầu cốt đai thiết kế vấn đề này được quy định cụ thể trong TCVN 375-2006 hoặc quy phạm các nước khác. Đối với TCVN thì khoảng cách giữa các cốt đai nút: a 150mm. Hầu hết quy phạm đề nghị đảo chiều móc của các cốt đai xung quanh thép cột nhằm tăng cường khả năng chống biến dạng của cốt đai. ≤ • Neo cốt thép dầm Sự dính bám cốt thép dầm trong vùng nút được cải thiện bằng cách sử dụng cột có tiết diện có tiết diện đủ lớn. theo ACI thì cạnh của tiết diện cột 20dmax của cốt thép dọc trong dầm. Theo TC Ấn Độ thì cạnh cột 300 khi đỡ dầm dài hơn 5m hoặc khi cột cao hơn 4m. ≥ ≥ Về vấn đề dính bám giữa bê tông và cốt thép Tại mục 5.6.2.2 TCVN 375-2006 qui định: hình 14: lực kéo và nén trong nút gây ra 2 vấn đề nguy hiểm như trên- mối nguy hiểm không thể sửa chửa trong các trận động đất mạnh. Lực dính giữa bê tông và cốt thép Cạnh chịu nén Chịu kéo Mất khả năng dính bám giữa bê tông và cốt thép. Sự biến dạng của nút gây ra nứt chéo trong bê tông Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 188 (Các thông số được kí hiệu trong mục này của quy phạm ) Nếu chiều cao cột không thỏa mãn các biểu thức trên thì có 3 cách giải quyết như hình sau: dầm (bản) có thể kéo thêm 1 đoạn công xôn ngắn a) b) có thể sử dụng các thanh cốt thép có phình ở đầu neo hoặc bản neo được hàn vào đầu mút của các thanh cốt thép. c) có thể kéo dài móc uốn thêm một đoạn có ch