Phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ trong những năm 1919 - 1945

Thuộc địa là nhu cầu không thể thiếu của các nước thực dân phương Tây trong quá trình phát triển của mình. Chính vì vậy, từ rất sớm các nước lạc hậu ở Á, Phi, Mĩ latinh đã trở thành miếng mồi cho thực dân phương Tây nhòm ngó. Bằng nhiều con đường và phương thức khác nhau mà các nước phương Tây đã lần lượt chinh phục và biến các nước Á, Phi, Mĩ Latinh thành nơi cung cấp nguyên liệu, nhân công, và là thị trường tiêu thụ rộng lớn của mình. Ấn Độ ở Châu Á cũng vậy, là một quốc gia phong kiến lạc hậu, rộng lớn, tài nguyên thiên nhiên phong phú đã trở thành miếng mồi của chủ nghĩa thực dânTây BanNha, Bồ Đào Nha , Pháp và cuối cùng là Anh. Dưới ách thống trị thực dân, các tầng lớp nhân dân Ấn Độ không ngừng nổi dậy đấu tranh. Nhiều cuộc khởi nghĩa khắp nơi đã nổ ra chống lại thực dân Anh, đồng thời tấn công vào bọn phong kiến. Năm 1917, Cách mạng Xã hội chủ nghĩa tháng Mười ở Nga thắng lợi, cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã mở ra một thời kì phát triển mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc đại và nửa thuộc địa. Tiếng vang của Cách mạng tháng Mười Nga đã vượt qua biên giới của nó, tác động mạnh mẽ đến hầu khắp các quốc gia–dân tộc trên hành tinh. Trong đêm dài đen tối đầy bất công của các chế độ phong kiến, tư bản thực dân, nhất là qua những năm tháng khủng khiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhân dân ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, những người phải chịu đựng nhiều tai họa nhất của chiến tranh đã tìm thấy ở Cách mạng tháng Mười những niềm hi vọng to lớn đối với mình, thúc đẩy họ vùng dậy đấu tranh giành quyền sống, giành độc lập dân tộc, Ấn Độ cũng không ngoại lệ. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào đấu tranh chống thực dân Anh dâng cao mạnh mẽ ở Ấn Độ.

doc56 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6293 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ trong những năm 1919 - 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài Phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ trong những năm 1919-1945 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 4 I. Quá trình xâm lược và thống trị của thực dân Anh đối với Ấn Độ 5 1. Quá trình thực dân Anh xâm lược Ấn Độ 5 2. Chính sách cai trị của thực dân Anh đối với Ấn Độ 8 a) Chính sách về chính trị 9 b) Chính sách về quân sự 10 c) Chính sách về kinh tế 10 d) Chính sách về văn hóa-xã hội 12 II. Chính sách cai trị của thực dân Anh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và tác động của những chính sách đó đến Ấn Độ 14 III. Đảng Quốc Đại và đường lối đấu tranh của M.Gandhi trong phong trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ nửa đầu thế kỉ XX 18 1. Đảng Quốc Đại và một vài nét về tiểu sử M.Gandhi 18 2. Đường lối đấu tranh của M.Gandhi trong phong trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ nửa đầu thế kỉ XX 19 a) Bất bạo động và Ahimsa (tính bất hại) 20 b) Satya (Đạo/Chân lí) 21 c) Satyagraha (Sức mạnh chân lí) 21 IV. Phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ trong những năm 1919-1945 27 1. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những năm 1919-1922 27 2. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ từ năm 1923-1928 31 * Sự ra đời của các Đảng công nông và sự phát triển của phong trào công nhân-nông dân Ấn Độ 32 3. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những năm 1929-1939 35 a) Hoạt động đấu tranh của Gandhi và Đảng Quốc Đại 35 b) Hoạt động đấu tranh của Đảng Cộng Sản và công nhân Ấn Độ 38 4. Ấn Độ trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) 40 KẾT LUẬN 43 PHỤ LỤC 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO 55 DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3-SP SỬ 2B_K37 56 MỞ ĐẦU Thuộc địa là nhu cầu không thể thiếu của các nước thực dân phương Tây trong quá trình phát triển của mình. Chính vì vậy, từ rất sớm các nước lạc hậu ở Á, Phi, Mĩ latinh đã trở thành miếng mồi cho thực dân phương Tây nhòm ngó. Bằng nhiều con đường và phương thức khác nhau mà các nước phương Tây đã lần lượt chinh phục và biến các nước Á, Phi, Mĩ Latinh thành nơi cung cấp nguyên liệu, nhân công, và là thị trường tiêu thụ rộng lớn của mình. Ấn Độ ở Châu Á cũng vậy, là một quốc gia phong kiến lạc hậu, rộng lớn, tài nguyên thiên nhiên phong phú đã trở thành miếng mồi của chủ nghĩa thực dânTây BanNha, Bồ Đào Nha , Pháp…và cuối cùng là Anh. Dưới ách thống trị thực dân, các tầng lớp nhân dân Ấn Độ không ngừng nổi dậy đấu tranh. Nhiều cuộc khởi nghĩa khắp nơi đã nổ ra chống lại thực dân Anh, đồng thời tấn công vào bọn phong kiến.  Năm 1917, Cách mạng Xã hội chủ nghĩa tháng Mười ở Nga thắng lợi, cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã mở ra một thời kì phát triển mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc đại và nửa thuộc địa. Tiếng vang của Cách mạng tháng Mười Nga đã vượt qua biên giới của nó, tác động mạnh mẽ đến hầu khắp các quốc gia–dân tộc trên hành tinh. Trong đêm dài đen tối đầy bất công của các chế độ phong kiến, tư bản thực dân, nhất là qua những năm tháng khủng khiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhân dân ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, những người phải chịu đựng nhiều tai họa nhất của chiến tranh đã tìm thấy ở Cách mạng tháng Mười những niềm hi vọng to lớn đối với mình, thúc đẩy họ vùng dậy đấu tranh giành quyền sống, giành độc lập dân tộc, Ấn Độ cũng không ngoại lệ. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào đấu tranh chống thực dân Anh dâng cao mạnh mẽ ở Ấn Độ. I. Quá trình xâm lược và thống trị của thực dân Anh đối với Ấn Độ          Trước khi Chủ nghĩa tư bản phương Tây xâm lược, Ấn Độ đang trong thời kì suy tàn của Đế quốc đại Môgôn. Chế độ phong kiến vẫn giữ địa vị thống trị trong xã hội, ruộng đất thuộc sở hữu quốc gia phong kiến. Đây cũng là thời kì công xã nông thôn Ấn Độ xuất hiện những mầm mốnga sự tan rã. Là quốc gia đa dân tộc, tôn giáo cho nên mâu thuẫn dân tộc, tôn giáoluôn là vấn đề nóng của Ấn Độ. Những cuộc chiến tranh liên miên giữa các tập đoàn phong kiến càng khơi sâu sự chia rẽ dân tộc và làm suy yếu đất nước cộng với những tập tục lạc hậu, lễ nghi phức tạp đã làm cản trở sự thống nhất Ấn Độ. Dưới thời kì suy tàn của triều đại Môgôn, phong trào đấu tranh của Nhân dân chống lại chế độ phong kiến cùng với sự xâm lược từ bên ngoài đã đánh dấu giai đoạn mạt kì của chế độ phong kiến Ấn Độ. Chính trong bối cảnh đó thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã đặt chân lên Ấn Độ và từng bước tiến hành cuộc chiến tranh ăn cướp trên bán đảo Ấn Độ. 1. Quá trình thực dân Anh xâm lược Ấn Độ Từ thế kỉ XVI, thực dân phương Tây đã dòm ngó và từng bước xâm nhập vào thị trường phương Đông, đặc biệt là Ấn Độ. Sau khi mở con đường biển đến Ấn Độ, Bồ Đào Nha chiếm một số căn cứ quan trọng ở phía Tây Nam. Trong đó, Goa là vị trí quan trọng nhất. Đến nửa sau thế kỉ XVII, Hà Lan đánh bại ưu thế buôn bán của Bồ Đào Nha và cướp được một số vùng trừ Goa, Điu và Đaman ở bờ biển phía tây. Bằng sức mạnh quân sự, thực dân Anh buộc chính quyền Môgôn trao quyền thiết lập một đại lí tạm thời ở Xu rát, sau chuyển về Bombay. Đến giữa thế kỉ XVII, lập thêm căn cứ Mađrát, Cancutta... Thực dân Pháp xuất hiện vào những năm cuối thế kỉ XVII với các đại lí ở Săngđecnago, Pôngđisêri... Đan Mạch, Thụy Điển, Áo và nhiều nước khác cũng đặt chân lên mảnh đất phì nhiêu này. Các nước châu Âu đều thực hiện âm mưu xâm lược thông qua hoạt động của các công ty Đông Ấn-một tổ chức nắm độc quyền của mỗi nước trong việc buôn bán với phương Đông. Đến giữa thế kỉ thứ XVII, hoạt động của các công ty được đẩy mạnh, Pháp chiếm được một số ưu thế nhất định ở Ấn Độ: thành lập những đội quân đánh thuê người Ấn (Xipay), đưa quân đi chiếm đóng một số nơi và được bọn phong kiến giúp đỡ, giành được hai vương quốc rộng lớn đó là Haiđerabát và Cacnatich. Điều đó làm cho Anh lo sợ và cố giành quyền bá chủ. Do những cuộc chiến tranh ở châu đã gây ra cuộc chiến giữa Anh và Pháp diễn ra ở Ấn Độ (1746-1763). Kết quả, Pháp thất bại chỉ giữ được vùng Pôngđisêr và 4 thành phố ở vùng ven biển. Tuy nhiên Anh cũng chưa chiếm được nhiều đất đai lắm. Sau khi chiếm được ưu thế so với các nước phương Tây khác ở Ấn Độ, thực dân Anh tăng cường bành trướng đất đai. Từ Mađrat chúng biến vương quốc Cacnatich thành thuộc quốc. Chúng tăng cường hoạt động ở vùng Bengan, nơi đã đặt được 150 kho hàng và 15 đại lí lớn. Nhưng ở đây chúng gặp phải sự kháng cự quyết liệt của dân chúng Bengan do nhà vua trẻ tuổi Xirat Ut Đôilê đứng đầu. Nghĩa quân đã chiếm được Cancutta, buộc bọn thực dân Anh phải bỏ chạy. Sau đó, Anh điều quân về đàn áp. Trận Plêxi năm 1757 diễn ra rất ác liệt, bảy vạn quân Bengan chiến đấu ngoan cường bị thất bại. Xirat Ut Đôilê bị bắt và hành hình. Quân Anh tàn phá Bengan, cướp đoạt nhiều tiền bạc, đốt cháy nhà cửa của nhân dân. Sự đàn áp dã man đã gây nên sự căm phẫn trong nhân dân. Nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra ở nhiều thành phố thuộc Bengan được sự ủng hộ của vương quốc láng giềng Aođơ và đội quân Apganixtan từ Đêli tới. Nhưng lực lượng nghĩa quân bị thất bại. Công ty Đông Ấn của anh giành được quyền thu thuế, đóng quân, lập tòa án và thiết lập bộ máy cai trị trên mảnh đất rộng lớn nhất của Ấn Độ. Vương quốc Aođơ cũng bị lệ thuộc vào Ấn Độ.  Ở phía Nam, vương quốc Haiđerabat khá rộng lớn bị Anh chinh phục. Ở phía Tây, bọn thực dân từ Bombay định bành trướng ra vùng xung quanh. Thấy rõ nguy cơ mất nước, nhà vua Haiđa Ali của vương quốc Maixuya tập hợp lực lượng kháng chiến. Sau khi Haiđa Ali chết, con trai Tipu lên ngôi vẫn tiếp tục kháng chiến, kêu gọi sự thống nhất của các vương quốc Ấn Độ và chiến đấu rất ngoan cường. Nhưng thực dân Anh xảo quyệt lôi kéo các vương quốc xung quanh, cô lập Maixuya, tiến hành áp bức buộc Tipu phải kí hòa ước năm 1792 cắt một nửa lãnh thổ cho công ty Đông Ấn. Đến năm 1796, chúng nổ súng tấn công vào phần đất còn lại của Maixuya và chinh phục hoàn toàn vương quốc này, Tipu bị tử trận. Như vậy, đến cuối thế kỉ XVIII, những vùng đất giàu có nhất của Ấn Độ như Bengan, các nước xung quanh và toàn bộ miền Nam rơi vào tay thực dân Anh. Song song với quá trình xâm lược, thực dân Anh nhanh chóng đặt ách thống trị ở Ấn Độ. Cơ quan có toàn quyền cai trị ở đây là công ty Đông Ấn. Các chính khách, bọn con buôn và tập đoàn thống trị ra sức củng cố địa vị trong công ty qua đó để tăng cường bóc lột Ấn Độ. Năm 1773, Nghị viện Anh thông qua về đạo luật cai trị Ấn Độ, quy định tổng đốc của công ty ở Cancutta đồng thời giữ chức toàn quyền trên toàn bộ lãnh địa Anh ở Ấn Độ. Viên toàn quyền cùng với một hội đồng do chính phủ Anh chỉ định nắm quyền hành chính, bên cạnh có một tòa án tối cao. Đồng thời ở London thiết lập một hội đồng kiểm soát các công việc của công ty ở Ấn Độ do nhà vua chỉ định bao gồm một số thành viên của nội các. Tính chất của sự bóc lột trong thời kì này tương ứng với thời kì tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản Anh. Cho nên thủ đoạn bóc lột chủ yếu là thu thuế và vơ vét. Việc buôn bán giữa Anh và Ấn Độ được tiến hành theo một tỉ lệ thu thuế chênh lệch khá nghiêm trọng: hàng từ Ấn Độ sang Anh đánh thuế gấp 10 lần hàng từ Anh sang Ấn Độ. Hậu quả tất nhiên của sự cướp bóc đó là tình trạng ngày càng khổ của nhân dân Ấn Độ. Nạn đói xảy ra liên tiếp, riêng năm 1770 đã có tới 10 triệu người chết đói. Ở Ấn Độ, thế kỉ XIX được bắt đầu bằng việc mở rộng chiến tranh xâm lược của thực dân Anh và những cuộc đấu tranh chống xâm lược của nhân dân. Năm 1806, các trung đoàn Xipay nổi dậy ở Benlua. Năm 1816, binh lính Ấn khởi nghĩa ở Bombay. Đông đảo quần chúng nông dân đứng lên chống Anh ở khắp nơi. Xe6it Acmet Barenvi (1786-1831) đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của những người theo đạo Hồi, lập căn cứ biên giới phía tây bắc. Cấp tiến hơn là phong trào của Đađu Mian ở Bengan vừa chống thực dân Anh vừa chống bọn quý tộc phong kiến. Nhưng do tính chất phân tán, thiếu tổ chức và sự hạn chế về thành kiến về tôn giáo nên phong trào bị thất bại. Để hoàn thành mưu đồ xâm lược, thực dân Anh chĩa mũi nhọn chủ yếu vào các vương quốc của người Marat ở miền Trung Ấn Độ. Ngay từ đầu, nhân dân Marat đã đứng lên đấu tranh chống xâm lược một cách kiên quyết. Nhưng tình trạng cát cứ phong kiến, chiến tranh liên tiếp giữa các vương quốc, sự thiếu năng lực lãnh đạo và mâu thuẫn gay gắt trong các tập đoàn phong kiến tạo nên thời cơ thuận lợi cho thực dân Anh. Cuộc chiến tranh năm 1803-1805 đem lại cho Anh thêm những phần đất ở miền Trung và ngay thủ đô Đeli cũng bị thất thủ. Đến năm 1817, vương quốc Marat hoàn toàn bị chinh phục. Từ đó thực dân Anh tiếp tục bành trướng ra xung quanh và bán đảo Ấn Độ chỉ còn lại một quốc gia độc lập là Penjap. Đầu thế kỉ XIX, do nhu cầu phát triển kinh tế và tăng cường sức mạnh chống ngoại xâm, khuynh hướng xây dựng một quốc gia tập quyền thể hiện rõ ở Penjap. Ranjit Xinh là người hoàn thành nhiệm vụ đó với một chính quyền mạnh mẽ, một quốc gia thống nhất, một đội quân hùng mạnh được nhân dân ủng hộ. Tuy nhiên trong quá trình phát triển quyền lực và mở mang bờ cõi, Penhap không tránh khỏi mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và bọn phong kiến ngày càng gay gắt, mâu thuẫn dân tộc giữa người Xích với các dân tộc bị chinh phục như người Casomi, người Patan... và mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị. Sau khi Ranjit Xinh chết (1839), cuộc tranh chấp giữa các thế lực phong kiến bùng nổ. Quân đội Penjap đã nhanh chóng chặn đứng những âm mưu phản động. Năm 1841 họ nổi dậy giết bọn sĩ quan phản động, thành lập những ủy ban do họ cử ra gồm 5 người gọi là “pantraiat”. Pantraiat ỏ thủ đô Laho đã giành quyền kiểm soát những hành động cùa chính phủ. Bọn phong kiến Penjap lo sợ trước sức mạnh của quần chúng nhân dân và hoạt động của pantraiat đã cấu kết với thực dân Anh là kẻ đang muốn thôn tính vùng đất cuối cùng của Ấn Độ. Cuối năm 1845, quân đội và nhân dân Penjap chiến đấu dũng cảm chống bọn thực dân Anh. Nhưng do sự phản bội của bọn phong kiến, trong đó bọn sĩ quan cao cấp đã trao cho địch kế hoạch quân sự nên nghĩa quân bị thất bại. Penjap trở thành thuộc quốc của Anh. Năm 1848, nhân dân Penjap kiên cường chống lại Anh, giành được thắng lợi ban đầu, nhưng sau đó bị thất bại. Đến năm 1849, thực dân Anh đã hoàn thành việc xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ Ấn Độ. 2. Chính sách cai trị của thực dân Anh đối với Ấn Độ Với tầm quan trọng của thuộc địa Ấn Độ nên thực dân Anh đã thực hiện chính sách cai trị một cách toàn diện và hệ thống về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội…Mục đích cao nhất của những chính sách của Anh là để bóc lột được nhiều nhất nước này. a) Chính sách về chính trị Sau khi đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX, thực dân Anh thi hành một số biện pháp củng cố và tăng cường ách thống trị của chúng. Thời kì đầu Anh dùng công ti Đông Ấn thay mặt Chính phủ Anh toàn quyền cai trị và bóc lột Ấn Độ. Công ti Đông Ấn là một thứ “nhà nước trá hình trong một hội buôn”. Năm 1773, Quốc hội Anh đã bổ nhiệm một viên toàn quyền người Anh trông coi Ấn Độ và từ những năm 30 của thế kỉ XIX, Chính phủ Anh đã dần không chế công ti Đông Ấn. Năm 1858, Nghị viện Anh ra lệnh giải tán hoàn toàn công ty Đông Ấn và đặt Ấn Độ dưới quyền cai trị trực tiếp bởi chính phủ. Thay mặt chính phủ Anh ở Ấn Độ là một viên Phó vương với một hội động điều hành gồm 5 ủy viên, có quyền lực như một chính phủ. Quyền lập pháp cũng ở trong tay Phó vương và một hội đồng cố vấn 12 người. Để lôi kéo bọn phong kiến, chúng tuyên bố tôn trọng quyền lợi, danh dự, tài sản và các đặc quyền của bọn phong kiến. Đây là một hành động nhằm hợp pháp hóa chế độ đẳng cấp và các tàn dư trung cổ lỗi thời, khơi sâu sự cách biệt về chủng tộc và tôn giáo trong xã hội Ấn Độ. Năm 1877, nữ hoàng Anh Victoria chính thức tuyên bố lên ngôi vua ở Ấn Độ trong một buổi lễ có đông đảo quý tộc người Ấn tham gia. Nó đánh dấu bước hoàn thành việc chinh phục Ấn Độ thành thuộc địa của Anh và bộc lộ rõ thái độ quy phục của giai cấp phong kiến Ấn Độ. Sự thống trị của người Anh đã biến triều đại phong kiến Môgôn trở thành bù nhìn và quyền lực thực tế nằm trong tay viên toàn quyền người Anh. Người Anh đã triệt để lợi dụng sự khác biệt về đẳng cấp, tôn giáo, và các tiểu quốc để thực hiện chính sách “chia để trị”. Sau cuộc khởi nghĩa Xipay (1857-1859), chính quyền Anh xoá bỏ hoàn toàn triều đại phong kiến Môgôn, giải thể công ty Đông Ấn và trực tiếp cai trị Ấn Độ. Thay mặt chính phủ là một phó vương người Anh với một Hội đồng gồm 5 uỷ viên có chức năng như một Chính phủ. Ngày 1/1/1874, Nữ hoàng Anh tuyên bố đồng thời là nữ hoàng Ấn Độ. Như vậy, Ấn Độ chính thức trở thành một bộ phận trong đế quốc Anh. b) Chính sách về quân sự Với chính sách dùng người bản xứ đánh người bản xứ, thực dân Anh đã chú trọng xây dựng lực lượng đội quân người Ấn. Từ 1746, Anh đã thành lập đội quân người bản xứ Ấn độ đầu tiên và được gọi là “Xipay”. Năm1830, đội quân này lên tới 225.000 người. Sau cuộc khởi nghĩa Xipay (1857-1859), để ngăn chặn người Ấn nổi dậy, thực dân Anh cũng cho tổ chức lại quân đội với thành phần và vai trò của người Anh trong quân đội được tăng cường với tỉ lệ từ 1/6 lên 1/2 hoặc 1/3, thường cứ 2 đến 8 lính Ấn thì có một lính Anh. Pháo binh và các ngành kĩ thuật trong tay thực dân Anh. c) Chính sách về kinh tế Ngay từ khi đặt chân lên Ấn Độ, công ty Đông Ấn đã tiến hành cướp bóc và của cải ùn ùn chảy về Anh. “Theo tính toán của các nhà kinh tế Ấn Độ, từ năm 1757 đến 1870, người Anh đã lấy đi của Ấn Độ một khối lượng tiền, của trị giá 38 triệu bảng Anh” . Người Anh đã bóc lột Ấn Độ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, công thương nghiệp… Trong nông nghiệp, người Anh đã đặt ra nhiều chính sách nhằm bóc lột tối đa. Đặc biệt là chính sách Daminđa được áp dụng vĩnh viễn từ năm 1793. Với chế độ này, người thầu có quyền sử dụng đất đai thu thuế cũng như đất đai công xã. Tình hình đó đã dẫn đến hậu quả thủ tiêu các quan hệ ruộng đất và quyền thừa kế ruộng đất trong các công xã nông thôn Ấn Độ. Các Daminda trở thành những địa chủ mới với quyền hành phong kiến trước kia. Trong số thuế thu được thì phải nộp cho Anh đến 9/10 nên để có thêm cho mình các Daminda phải tăng cường bóc lột nhân dân. Chính sách bóc lột của Anh đã dẫn đến hậu quả người nông dân Ấn Độ ngày càng điêu đứng. Kết quả của sự bóc lột đó là 26 triệu người chết đói trong 25 năm cuối của thế kỉ XIX. Đây là những minh chứng tố cáo chế độ thuộc địa của thực dân Anh. Trong công thương nghiệp, chính phủ Anh dùng mọi biện pháp để vơ vét bóc lột nguyên liệu tiền của phục vụ cho nền công nghiệp Anh, biến Ấn Độ thành nơi tiêu thụ hàng hóa cho công nghiệp Anh. Nguyên liệu như tơ, bông thô, lông cừu ở Ấn Độ nối nhau chảy về Anh giúp cho cuộc cách mạng công nghiệp ở nước này, để rồi máy móc Anh lại biến nó thành vải đưa trở lại Ấn Độ. Ngành dệt vải có tiếng của Ấn Độ đã bị bóp chết, hàng vạn thợ thủ công bị phá sản. Ấn Độ dần trở thành một thị trường tiêu thụ quan trọng nhất của nền công nghiệp Anh. Trong 10 năm từ 1873-1883, thương mại giữa Anh và Ấn Độ tăng 60% trong khi thương mại giữa Anh, Pháp và Đức chỉ tăng 7%. Ấn Độ phải tăng cường cung cấp lương thực và nguyên liệu cho Anh. Chỉ trong vòng nửa sau thế kỉ XIX, số lượng lương thực xuất khẩu tăng lên hơn 10 lần thì số người dân Ấn Độ chết đói tăng lên gần 40 lần. Tài chính của Ấn Độ cũng hoàn toàn lệ thuộc Anh. Ngân hàng LuânĐôn cho Chính phủ Anh ở Ấn Độ vay từ 4 triệu bảng lên 133 triệu trong nửa sau thế kỉ XIX. Số tiền đó thực dân Anh tập trung vào đầu tư ở các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, xí nghiệp chế biến… Năm 1848- 1849, Anh bắt đầu xây dựng hệ thống đường sắt và đường bộ. Xây dựng nhà máy dệt ở Bom bay, nhà máy đay ở Băng gan, ….Thực chất đây không phải là Anh đầu tư phát triển công nghiệp Ấn Độ mà mục đích chính là để tạo điều kiện vật chất nhằm mở rộng khai thác nguồn tài nguyên giàu có của đất nước này. Cuộc cải cách tài chính năm 1893-1899 với đồng Rupi vàng và việc mở mang hệ thống ngân hàng Anh làm cho nền tài chính Ấn Độ phụ thuộc hoàn toàn vào Anh. Ấn Độ còn là thị trường đầu tư của tư bản Anh. Ban đầu, hình thức xuất vốn là cho vay. Từ năm 1856-1900, ngân hàng Lodon cho bọn cầm quyền Anh ở Ấn Độ vay tăng từ 4 triệu lên 133 triệu livrơ để chi phí vào bộ máy hành chính và quân đội, vào những cuộc chiến tranh ăn cướp vào các nước phương Đông. Toàn bộ món nợ và số lãi đều đè lên vai nhân dân các nước thuộc địa. Một phần vốn xuất cảng được dùng vào việc xây dựng đường sắt và các phương tiện giao thông liên lạc để tạo điều kiện khai thác và vận chuyển nguyên liệu ra bến cảng đưa về Anh. Những đường tàu kéo dài đến vùng hẻo lánh còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc chuyển quân nhanh chóng, kịp thời đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân. Đến năm 1891, đường sắt Ấn Độ dài 28.000km. Một số xí nghiệp công nghiệp bắt đầu được xây dựng, chủ yếu là những ngành vải sợi, chế biến nguyên liệu địa phương như đay, bông... Việc tăng cường xuất cảng nguyên liệu làm cho tính chất hàng hóa nông nghiệp thêm đậm nét. Nhiều vùng được chuyên môn hóa sản xuất: Bengan trồng đay, Bombay và Trung Ấn trồng bông, Atxam trồng chè, Mađrat trồng cây có dầu, Penjap trồng tiểu mạch. Tính chất hàng hóa nông nghiệp tăng lên trong điều kiện chế độ sở hữu về ruộng đất phong kiến vẫn được duy trì, bãi chăn nuôi, đất đai và rừng của công xã bị chiếm đoạt, nợ nần chồng chất buộc người nông dân phải gán mảnh đất cuối cùng của mình và chịu lĩnh canh với điều kiện nộp tô đến 60% hoa lợi. Tình trạng đó sẽ dẫn tới chỗ sức sản xuất thấp kém, đời sống nông thôn khốn quẫn, nạn đói trở thành một điều tất yếu. d) Chính sách về văn hóa-xã hội Thực hiện nền văn hoá giáo dục ngu dân nhằm phục vụ cho công cuộc cai trị và bóp chết nền văn hoá dân tộc Ấn Độ. Họ mở một số trường trung học với tiêu chí là “cải cách giáo dục” nhưng thực chất là để đào tạo đội ngũ tay sai. Chỉ một số ít con em nhà giàu theo học để phục vụ cho chính quyền Anh còn lại đa số người dân Ấn Độ bị mù chữ. Chính phủ Anh luôn duy trì sự phân chia đẳng cấp để gây mâu thuẫn giữa các tầng lớp giai cấp ở Ấn Độ, khuyến khích những tập quán cổ xưa phản động của tôn giáo Ấn Độ và tích cực truyền bá đạo Thiên Chúa vào Ấn Độ. Tất cả mọi hành vi chống đối lại đạo Thiên Chúa đều bị đàn áp. Với chính sách cai trị về văn hoá xã hội như vậy đã dẫn đến hậu quả đưa xã hội Ấn Độ vào vòng ngu tối