Phương pháp cấy tạo Trầm trên cây Dó bầu

Cây Dó bầu còn gọi là cây Trầm hương, hay cây Kì nam, trong gỗ của nó có khả năng sinh ra một loại sản phẩm đặc biệt gọi là Trầm hương hay Kì nam. Trầm hương có rất nhiều công dụng đã được biết và sử dụng từ hàng ngàn năm qua, ở nhiều nước trên thế giới. Từ xưa đến nay Trầm hương và Kì nam là loại sản phẩm đặc biệt quý hiếm của rừng mà thiên nhiên ưu ái ban tặng cho con người. Chính vì vậy mà Trầm hương có giá trị kinh tế rất cao trên thị trường. Điều này đã làm cho cây Dó bầu trở thành loài thực vật đặc biệt được nhiều nhà khoa học và người dân chú ý, có giá trị đặc biệt về mặt nghiên cứu khoa học ở Việt Nam nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Tuy nhiên, những nghiên cứu có tính hệ thống về sự hình thành Trầm hương trên cây Dó bầu chỉ mới bắt đầu từ vài thập niên gần đây. Hầu hết các kết quả nghiên cứu được công bố đều chưa đưa ra được các quy trình tối ưu cũng như là cơ chế hình thành Trầm hương để có thể áp dụng rộng rãi ra sản xuất đại trà. Trong khi đó cùng với sự mất rừng thì nguồn Trầm hương tự nhiên cũng ngày càng cạn dần. Các loài thuộc chi Aquilaria có khả năng cho Trầm bị khai thác cạn kiệt. Ở Việt Nam những người khai thác Trầm chặt đốn bừa bãi những cây Dó bầu ở bất kì độ tuổi nào. Với cách khai thác như vậy thì chỉ trong một thời gian ngắn những cây thuộc họ cây Dó bầu gần như bị diệt chủng.Trước tình hình đó Hội Đồng Bộ Trưởng (nay thuộc Chính Phủ ) đã ban hành Nghị Định số 18-HDBT ngày 17 tháng 01 năm 1992 quy định danh mục thực vật rừng, động vật rừng quý hiếm và có chế độ bảo vệ, đã xếp cây Dó bầu vào danh mục nhóm 1A, tức là bảo vệ nghiêm ngặt. Trước tình hình đó hiện nay ở nước ta đã và đang có rất nhiều tổ chức, cơ quan, cá nhân trồng cây Dó bầu đại trà, nhằm mục đích cải thiện kinh tế, phủ xanh đất trống đồi trọc, góp phần xóa đói giảm ngèo v.v Tuy nhiên, phần lớn các dự án đó mới đang ở giai đoạn trồng và thử nghiệm gây tạo Trầm bằng các phương pháp khác nhau và các kết quả thu được đều chưa được khả quan lắm. Mặt khác nếu để cây Dó bầu mọc ngoài tự nhiên (ở rừng tự nhiên) thì khả năng cho Trầm hương của cây Dó bầu rất hạn chế (khoảng 10%). Chỉ một số cây vì lí do nào đó các tác nhân từ bên ngoài tác động đến cây Dó bầu như mưa, gió, sét đánh làm gãy thân, cành qua các vết thương đó, vi sinh vật sẽ xâm nhiễm vào cây. Và cảm ứng sự hình thành dần dần theo thời gian. Vì những lí do kể trên đồng thời dưới sự phân công của bộ môn Công Nghệ Sinh Học và dưới sự hướng dẫn của thầy Bùi Văn Thế Vinh tôi đã thực hiện tiểu luận tốt nghiệp “Phương pháp cấy tạo Trầm trên cây Dó bầu”

doc56 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4636 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phương pháp cấy tạo Trầm trên cây Dó bầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ: Cây Dó bầu còn gọi là cây Trầm hương, hay cây Kì nam, trong gỗ của nó có khả năng sinh ra một loại sản phẩm đặc biệt gọi là Trầm hương hay Kì nam. Trầm hương có rất nhiều công dụng đã được biết và sử dụng từ hàng ngàn năm qua, ở nhiều nước trên thế giới. Từ xưa đến nay Trầm hương và Kì nam là loại sản phẩm đặc biệt quý hiếm của rừng mà thiên nhiên ưu ái ban tặng cho con người. Chính vì vậy mà Trầm hương có giá trị kinh tế rất cao trên thị trường. Điều này đã làm cho cây Dó bầu trở thành loài thực vật đặc biệt được nhiều nhà khoa học và người dân chú ý, có giá trị đặc biệt về mặt nghiên cứu khoa học ở Việt Nam nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Tuy nhiên, những nghiên cứu có tính hệ thống về sự hình thành Trầm hương trên cây Dó bầu chỉ mới bắt đầu từ vài thập niên gần đây. Hầu hết các kết quả nghiên cứu được công bố đều chưa đưa ra được các quy trình tối ưu cũng như là cơ chế hình thành Trầm hương để có thể áp dụng rộng rãi ra sản xuất đại trà. Trong khi đó cùng với sự mất rừng thì nguồn Trầm hương tự nhiên cũng ngày càng cạn dần. Các loài thuộc chi Aquilaria có khả năng cho Trầm bị khai thác cạn kiệt. Ở Việt Nam những người khai thác Trầm chặt đốn bừa bãi những cây Dó bầu ở bất kì độ tuổi nào. Với cách khai thác như vậy thì chỉ trong một thời gian ngắn những cây thuộc họ cây Dó bầu gần như bị diệt chủng.Trước tình hình đó Hội Đồng Bộ Trưởng (nay thuộc Chính Phủ ) đã ban hành Nghị Định số 18-HDBT ngày 17 tháng 01 năm 1992 quy định danh mục thực vật rừng, động vật rừng quý hiếm và có chế độ bảo vệ, đã xếp cây Dó bầu vào danh mục nhóm 1A, tức là bảo vệ nghiêm ngặt. Trước tình hình đó hiện nay ở nước ta đã và đang có rất nhiều tổ chức, cơ quan, cá nhân trồng cây Dó bầu đại trà, nhằm mục đích cải thiện kinh tế, phủ xanh đất trống đồi trọc, góp phần xóa đói giảm ngèo v.v… Tuy nhiên, phần lớn các dự án đó mới đang ở giai đoạn trồng và thử nghiệm gây tạo Trầm bằng các phương pháp khác nhau và các kết quả thu được đều chưa được khả quan lắm. Mặt khác nếu để cây Dó bầu mọc ngoài tự nhiên (ở rừng tự nhiên) thì khả năng cho Trầm hương của cây Dó bầu rất hạn chế (khoảng 10%). Chỉ một số cây vì lí do nào đó các tác nhân từ bên ngoài tác động đến cây Dó bầu như mưa, gió, sét đánh làm gãy thân, cành… qua các vết thương đó, vi sinh vật sẽ xâm nhiễm vào cây. Và cảm ứng sự hình thành dần dần theo thời gian. Vì những lí do kể trên đồng thời dưới sự phân công của bộ môn Công Nghệ Sinh Học và dưới sự hướng dẫn của thầy Bùi Văn Thế Vinh tôi đã thực hiện tiểu luận tốt nghiệp “Phương pháp cấy tạo Trầm trên cây Dó bầu” 1.2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI: + Tổng quan về cây Dó bầu + Tìm hiểu qui trình kĩ thuật cấy tạo Trầm hương nhân tạo bằng phương pháp vi sinh và hóa học có hiệu quả. 1.3. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI: Do quỹ thời gian còn hạn chế nên tôi mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến việc hình thành Trầm hương trên cây Dó bầu ở mức độ tổng quan và một số thực nghiệm đã được nghiên cứu. CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ CÂY DÓ BẦU 2.1. GIỚI THIỆU VỀ CÂY DÓ BẦU: Cây Dó bầu thuộc : Lớp (Class): Magnoliopsida Bộ (Order): Myrtales Họ (Family): Thymelaeaceae Giống Aquilaria có tất cả 24 loài (Species) khác nhau gồm: Aquilaria beccariana van Tiegh Aquilaria hirta Ridl Aquilaria microcarpa Baill Aquilaria cumingiana (Decne) Ridl Aquilaria filaria (Oken) Merr Aquilaria brachyantha (Merr) Hall.f Aquilaria urdanetensis (Elmer) Hall.f Aquilaria citrinaecarpa (Elmer) Hall.f Aquilaria apiculata Elmer Aquilaria parvifolia (Quis) Ding Hou Aquilaria rostrata Ridl Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte Aquilaria banaense Pham-Hoang-Ho Aquilaria khasiana H.Hallier Aquilaria subintegra Ding Hou Aquilaria grandiflora Bth Aquilaria secundana D.C Aquilaria moszkowskii Gilg Aquilaria tomentosa Gilg Aquilaria bailonii Pierre ex Lecomte Aquilaria sinensis Merr Aquilaria apiculata Merr Aquilaria acuminate (Merr) Quis Aquilaria yunnanensis S.C Huang Mới đây, tiến sĩ Lê Công Kiệt (Việt Nam) và tiến sĩ Paul Kessler (Hà Lan) vừa phát hiện loài thứ 25 ở cao nguyên Trung Bộ trong năm 2005 có tên khoa học là Aquilaria rugosa L.C.Kiet & PJ.A Kessler. Cây Dó bầu thuộc loài Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte 2.1.1. ĐẶC ĐIỂM PHÂN LOẠI: Tên thông thường: Tùy theo mỗi quốc gia mà Trầm hương có tên khác nhau: - Trung Quốc: Tuchenxiang (Tiếng phổ thông: Ch'en Hsiang). - Pháp: Bois d'aigle, Bois d'aloes, Calambac, Calambour - Anh: Agarwood hay Aloes wood, Malayan eaglewood - Đức: Adlerhoiz. - Hy Lạp: Agallochon. - Ả Rập: Aghaluhy. - Malaysia: Garu - Campuchia: Kalampeahk chan, Crassna, KresnaKlampèoh. - Hình 2.1: Vườn cây Dó bầu được 5 tuổi - Việt Nam: Cây Trầm hương, Dó bầu, Dó trầm, Cây Tóc… -Indonesia: Gaharu, Tengkaras, Mengkaras Tại Việt Nam cách gọi tên tiếng Việt cho mỗi loài rất khác nhau giữa các địa phương. Ở đảo Phú Quốc người ta chia cây Dó ra thành hai loài khác nhau, cây Dó nghệ gỗ có màu vàng nhạt và hơi cứng còn cây Dó bầu gỗ màu trắng và mềm. Ở các tỉnh Miền Trung thì chia cây Dó ra 4 loài: Dó bầu hương, Dó mẹ, Dó dây và Dó bầu thường. Ngoài ra, ở một số địa phương khác người ta còn chia cây Dó ra các loài như: Dó bầu, Dó niệt, Dó mẹ, Dó gạch…Với cách phân chia nêu trên chúng ta khó xác định được tên khoa học của mỗi loài. * Mặc dù cách phân loại và đặt tên còn nhiều điểm bất đồng, chưa có khoa học, nhưng ở Việt Nam hiện nay cây Dó bầu (Tên khoa học: Aquilaria Crassna pierre ex Lecomte) được nông dân ưa chuộng và nhân giống rộng rãi vì có khả năng cho Trầm nhiều và chất lượng Trầm tốt nhất. Dó bầu còn có tên gọi khác dựa vào những sản phẩm của chúng như cây Tóc, cây Trầm, cây Trầm hương, cây Kì Nam.v.v…Theo Nguyễn Hiền và Võ Văn Chi (1991) cây Dó bầu chính thức được đặt tên khoa học và công bố dựa vào những mẫu vật do nhà thực vật học người Pháp là Pierre thu nhập tại Phú Quốc (Việt Nam) và núi Aral tỉnh Samrongtong (Cambodia) vào tháng 05 năm 1870. Pierre đã dựa vào tên Cambodia là Karasna để đặt cho cây Dó bầu Aquilaria crassna nhưng nó chỉ là tên trần chưa có bảng mô tả và việc công bố chưa được chính thức hóa. Sau đó Henri Lecomte trong bộ sách Thực Vật Chí Đông Dương lần đầu tiên mô tả các loài thuộc chi Aquilaria ở Đông Dương và công bố chính thức trong thực vật học của Pháp năm 1914 và xếp chi này vào họ Trầm. Phạm Hoàng Hộ (1992) trong công trình gần đây nhất xác nhận ở Việt Nam, chi Aquilaria thuộc họ Trầm hương có ba loài được định danh là: + Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte: Dó bầu, Trầm; ghi nhận ở Phú Khánh,Bảo Lộc và Phú Quốc. + Aquilaria baillonii Pierre ex Lecomte: Dó baillon; ghi nhận ở rừng dầy ẩm Bình Trị Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng. + Aquilaria banaensae Phạm Hoàng: Dó Bà Na; ghi nhận ở rừng dầy ẩm Quảng Nam, Đà Nẵng. Và mới đây, tiến sĩ Lê Công Kiệt (Việt Nam) và tiến sĩ Paul Kessler (Hà Lan) vừa phát hiện loài thứ tư ở cao nguyên Trung Bộ trong năm 2005 có tên khoa học là Aquilaria rugosa L.C.Kiet & PJ.A Kessler. Các tác giả khác như GS. Lê Văn Kí (1993), các tác giả trong quyển “Cây Gỗ Rừng Việt Nam Tập IV” (1991); “Phân Loại Thực Vật” (Nxb Giáo dục,1972) và “Danh Mục Thực Vật Tây Nguyên” của đoàn điều tra thực vật (1984) đã ghi nhận cây Dó bầu với tên khoa học Aquilaria agallocha Roxd. Tuy nhiên, theo Vũ Văn Chiên (1976) trong “Tóm tắt đặc điểm họ cây thuốc” thì Aquilaria agallocha Roxd chỉ có ở Ấn Độ không có ở Việt Nam, không ghi nhận trong quyển “Thực Vật Chí Đông Dương” của Henri Lecomte. Một số công trình nghiên cứu khác “Định danh Dược thảo và Dược liệu Đông y” của đoàn Dược sĩ Việt Nam (xuất bản ở Sài Gòn, 1973) và “Những cây thuốc vị thuốc Việt Nam” (Nxb.Khoa học và kỹ thuật Hà Nội, 1981) lại cho rằng Aquilaria agallocha Roxd là đồng danh của Aquilaria crassna Pierre. 2.1.2. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC CỦA CÂY DÓ BẦU: Những đặc điểm quan trọng về thực vật học của cây Dó bầu được nhiều tác giả ghi nhận như sau: Dó bầu là một loại cây gỗ lớn, tán thưa, cao khoảng 20m (cũng có thể đạt được 40m). Đường kính ngang ngực 40-50cm (có thể đạt được 80cm). Vỏ mỏng khoảng 2-4mm, trong vỏ có nhiều sợi dài, bền. Lá đơn, mọc cách, hình ngọn giáo, dài 6-15cm, rộng 2-3cm, đầu mũi nhọn. Hoa tự hình tán, màu trắng. Quả mang hình trứng ngược, dài 3-5cm, rộng 2-3cm, có nhiều lông. Khi chín khai thành hai mảnh, và có từ một đến hai hạt màu đen, có hai phần chính ở phía trên hình nón, phần kéo dài ở phía dưới, phần vỏ ngoài cùng hóa gỗ cứng, bên trong mềm có chứa nhiều dầu. Một đặc điểm cần chú ý là hạt Dó bầu có đời sống rất ngắn. Cho đến nay việc nhân giống vẫn chủ yếu bằng hạt. Quả sau khi thu hái cần phơi trong bóng mát, chỉ sau vài ngày, vỏ quả sẽ nứt và hạt rơi ra. Mỗi quả chỉ chứa một hạt, cây có kích thước trung bình hàng năm chỉ cho chừng 2.000 hạt. Khối lượng trung bình của 1.000 hạt ở loài A. malaccensis nặng khoảng 670 gram. Hạt Trầm mất sức nảy mầm rất nhanh, do đó cần gieo hạt ngay sau khi thu hái. Sau khi gieo chừng 10 – 12 ngày, hạt đã bắt đầu nảy mầm; tuy nhiên thời gian nảy mầm cũng có thể chậm hơn, đôi khi tới trên một tháng. Những thử nghiệm tại Ấn Độ đã cho biết, thời gian bảo quản có ảnh hưởng lớn đến khả năng nảy mầm của hạt. Gieo hạt ngay sau khi thu hái thì tỷ lệ nảy mầm đạt khoảng 65%; nếu bảo quản hạt một tuần rồi mới đem gieo thì tỷ lệ nảy mầm giảm rõ rệt, còn khoảng 45%. Sau ba tuần bảo quản, tỷ lệ hạt nảy mầm chỉ còn có 5%. Thời gian ra hoa kết trái: Cây Dó bầu sau khoảng 4-5 năm tuổi thì bắt đầu ra hoa kết trái, tùy vào điều kiện thời tiết của mỗi vùng mà thời gian ra hoa có khác nhau. ở Miền Trung Việt Nam cây bắt đầu ra hoa vào tháng 3 và trái chín vào tháng 7 dương lịch. Nhưng ở Miền Nam thời gian ra hoa tháng 2, trái chín tháng 5-tháng 6 dương lịch. Ở giai đoạn vườn ươm, cây con cần giữ đủ ẩm, cần che bóng và phòng trừ sâu bệnh. Khi cây mạ đạt 40 – 45 ngày tuổi thì cây đã cao khoảng 3 – 4 cm, có thể đánh trồng vào bầu đất. Khoảng 10 – 12 tháng tuổi, cây con đã đạt độ cao 30 – 35 cm, lúc này có thể đưa ra trồng trên diện tích sản xuất. Tại Malaysia, việc trồng cây con trong bầu với bộ rễ nguyên vẹn đã đạt tỷ lệ sống rất cao. Tại miền Đông Bắc Ấn Độ, thời vụ trồng Trầm trên diện tích sản xuất thường vào các tháng 5 – 6 và khoảng cách trung bình giữa các cá thể là 2,5 m x 2,5 m. Các quần thể Trầm của Malaysia đã được trồng theo khoảng cách 6 m x 2 m. Thời gian đầu, việc làm cỏ, làm vệ sinh trong các quần thể Trầm là rất cần thiết. Năm đầu tiên thường phải làm cỏ đến 4 lần; các năm tiếp theo, khi Trầm đã sinh trưởng tốt thì số lần làm cỏ sẽ giảm dần. Khi Trầm đã đạt 5 – 6 năm tuổi, mỗi năm chỉ cần làm cỏ một lần. Sau thời kỳ này, việc tỉa thưa dần để tạo điều kiện dinh dưỡng, độ thông thoáng và ánh sáng cho cả quần thể là hết sức cần thiết. Các quần thể Trầm tại Malaysia ở giai đoạn 6-7 năm tuổi, mật độ trung bình chỉ có 31 cây/ha. Trong rừng tự nhiên, để tạo điều kiện cho Trầm phục hồi và sinh trưởng, cần trồng dặm bổ sung hoặc phát quang loại bỏ dây leo và các cây khác có giá trị kém. Hiện vẫn chưa có thông tin gì về vấn đề sâu bệnh hại ở Trầm. 2.1.3. ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI: Sự phân bố của Trầm hương trong tự nhiên: - Trong tự nhiên giống cây Aquilaria, tức cây Trầm hương, phân bố khắp các nước vùng Châu Á từ Trung - Cận Đông, Nam Á, Trung Quốc cho đến các nước Đông Nam Á… - Ở vùng Trung – Cận Đông cây Trầm hương mọc nhiều trên những rặng núi hiểm trở phía Nam Ả Rập. - Ở Trung Quốc Trầm hương mọc tập trung ở một số tỉnh Miền Nam, nhiều nhất là Quảng Đông và Hải Nam, nhưng chất lượng trầm không cao (Thổ Trầm). Vùng này có 3 loài chính, đó là: Aquilaria grandiflora Bth, Aquilaria sinensis Merr, Aquilaria yunnanensis S.C. Huang. - Ở vùng Nam Á cây Trầm hương có nhiều ở Ấn Độ, chủ yếu là loài Aquilaria khasiana H. Hallier. - Vùng Đông Nam Á bao gồm các quốc gia: + Malaysia: Có 4 loài: Aquilaria beccariana van Tiegh, Aquilaria microcarpa Baill, Aquilaria hirta Ridl và Aquilaria rostrata Ridl. + Thái Lan: Chủ yếu là loài Aquilaria subintegra Ding Hou. + Indonesia (Tập trung chủ yếu ở đảo Sumatra) Có 4 loài: Aquilaria beccariana van Tiegh, Aquilaria hirta Ridl, Aquilaria microcarpa Baill, Aquilaria moszkowskii Gilg. + Philippin: Bao gồm các loài: Aquilaria cumingiana (Decne) Ridl, Aquilaria filaria (Oken) Merr, Aquilaria apiculata Merr, Aquilaria acuminate (Merr.)Quis. + Singarpore: Chủ yếu là loài Aquilaria hirta Ridl. + Campuchia, Trầm hương thường mọc phân tán trong các khu rừng nằm ven biển, có 2 loài chính là: Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte, Aquilaria baillonii Pierre ex Lecomte. + Việt Nam Trầm hương có tất cả 4 loài, đó là: Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte, Aquilaria baillonii Pierre ex Lecomte, Aquilaria banaense Pham-hoang-Ho và loài Aquilaria rugosa L.C.Kiệt & PJ.A Kessler (do tiến sĩ Lê Công Kiệt (Việt Nam) và tiến sĩ Paul Kessler (Hà Lan) tìm thấy ở cao nguyên Trung Bộ). Đây là loài thứ 4 ở Việt Nam và thứ 25 trên thế giới. Ở Việt Nam cây Trầm hương phân bố tại các địa bàn như: + Phía Bắc: Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, Hòa Bình, Hà Tây, Quảng Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Bắc. + Miền Trung: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú yên, Bình Thuận, Khánh Hòa. + Tây Nguyên: Gia Lai, Kontum, ĐăLăk, Lâm Đồng. + Miền Nam: Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang, Kiên Giang, Đảo Phú Quốc.Đặc biệt thấy nhiều trên suốt chiều dài của dãy Trường Sơn, song do sự khai thác bừa bãi của dân, đến nay chỉ còn thấy cây Dó bầu ở những vùng xa xôi, đầu nguồn rừng già. Trong những năm gần đây, một số tác giả đã đề cập rải rác trong nhiều báo cáo nghiên cứu các vấn đề sinh thái và phân bố của cây Dó bầu (Vũ Văn Cầu và Vũ Văn Dũng, 1987). GS.Lê Văn Ký cho biết Dó bầu phân bố ở nhiều nơi trên lãnh thổ Việt Nam, và nhiều nước Châu Á nhiệt đới khác như Lào, Cambodia, Ấn Độ v.v…Ở Việt Nam cây Dó bầu mọc rải rác ở nhiều tỉnh từ Bắc đến Nam như: Lạng Sơn, Hình 2.2: Vườn cây Dó bầu ở Bình Phước Quảng Ninh, Hà Tuyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, và hầu hết các tỉnh phía Nam. Nhưng tập trung nhiều nhất là ở các tỉnh Duyên Hải và huyện đảo Phú Quốc. Trong tự nhiên cây Dó bầu thường mọc trong vùng rừng nhiệt đới ẩm trên địa hình có độ cao so với mực nước biển từ 300-1000m, nhưng tập trung nhiều nhất ở độ cao 700m và rất thích hợp ở những nơi có độ dốc từ 250 trở lên. Tuy nhiên trong thực tế cây Dó bầu vẫn sinh trưởng tốt ở những nơi có độ cao trên dưới 40m so với mực nước biển. Nhìn chung, Dó bầu là loài thực vật ưa sáng, mọc rải rác trong các khu rừng nhiệt đới, mọc ở độ cao 50-1200m. Nơi cao nhất được tìm thấy ở núi Chu Yang Sinh thuộc tỉnh Đăklăk của Việt Nam. Thường thì cây Dó bầu mọc riêng lẻ nhưng cũng có khi tìm thấy một nhóm 5-6 cây mọc gần nhau. Theo Lê Mộng Châu (1995), Dó bầu là cây mọc nhanh, lượng tăng trưởng được ghi nhận là 1-1,2m/năm về chiều cao, và 1,2-1,5cm/năm về đường kính. Cây được 8 tuổi trở lên có khả năng cho hoa kết quả. Dưới tán rừng thứ sinh cây Dó bầu tái sinh kém. Thường thì gặp cây Dó bầu tái sinh ở những khoảng trống trong rừng như bìa rừng ven những con đường mòn … Ngoài ra thì Dó bầu cũng có khả năng tái sinh bằng chồi rất tốt. Việc nhân giống bằng phương pháp chiết cành, ghép cành, có tác động của thuốc kích thích cũng được thực hiện, và phương pháp nuôi cấy mô cũng phổ biến rộng rãi. 2.1.4 ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI : + Thân cây: Cây dó bầu là một loại cây gỗ lớn, cao khoảng 30-40m, nhưng phổ biến Hình 2.3: Thân cây Dó bầu nhất là từ 15-25m, đường kính thân khoảng 60cm, vỏ ngoài nhẵn, màu xám, thịt vỏ màu trắng có nhiều chất xơ (cellulose) và dễ tách ra khỏi thân. Thịt gỗ màu vàng nhạt, chất gỗ mềm có tỉ trọng 0.395. Cành non phủ lông mềm màu vàng xám. + Lá: Lá đơn, mọc cách (so le), có hình bầu dục, hình trứng hay hình ngọn giáo, nhọn ở gốc thon hẹp ở đầu. Phiến lá mỏng dài 8-15 cm, rộng 4-6 cm. Mặt trên phiến lá nhẵn bóng có màu xanh đậm, mặt dưới nhạt hơn có lông mềm. Cuống lá dài từ 4-5mm cũng có lông. + Hoa: Hoa lưỡng tính, hoa tự hình tán hay chùm mọc ở nách lá, hoa màu trắng tro. Đài hoa hình chuông (loa kèn) có lông ở miệng. Hình 2.4: Lá và hoa cây Dó bầu + Quả: Hình quả lê hơi dẹp, dài 4cm, rộng 3cm, dày 2cm. Vỏ quả mở thành hai mảnh xốp (khi chín tự tách ra), mỗi quả có từ 1-2 hạt. + Hạt: Có hai phần, phần chính ở phía trên hình nón, phần kéo dài ở phía dưới. Hạt khi chín có màu nâu, phần vỏ ngoài cùng hóa gỗ cứng, bên trong mềm có chứa nhiều dầu. Hình 2.5: Quả cây Dó bầu Một đặc điểm cần chú ý là hạt Dó bầu có đời sống rất ngắn, không lưu trữ lâu ngày được. Trong tự nhiên khi hạt chín và rụng xuống đất nếu gặp điều kiện ẩm độ thích hợp là nảy mầm ngay. Việc lưu trữ hạt kéo dài quá một tuần lễ, tỉ lệ nảy mầm sẽ giảm 80% hoặc không nảy mầm. 2.2. KỸ THUẬT TRỒNG VÀ CHĂM SÓC CÂY DÓ BẦU: Hình 2.6. Quả cây Dó bầu khi chín và hạt Do hạt Dó bầu có đời sống rất ngắn, không thể lưu trữ lâu ngày được nên hạt chỉ có vào mùa thu hoạch hạt. Tùy vào thời tiết khí hậu của từng vùng mà thời điểm thu họach hạt có khác nhau, nhưng sớm nhất cũng bắt đầu vào tháng 6 dương lịch hàng năm. Hiện nay hạt Dó bầu rất khan hiếm và giá rất đắt. Việc tìm mua hạt giống về để gieo ươm gặp một số khó khăn như: + Thời gian từ khi thu hoạch đến lúc gieo rất ngắn, chỉ trong vòng 7-10 ngày do đó công tác bảo quản hạt và khâu chuẩn bị đất gieo sẽ gặp nhiều trở ngại. Khó kiểm soát được chất lượng hạt giống như tỉ lệ nảy mầm, xuất xứ - nguồn gốc của giống… Cách tốt nhất là nên mua cây con để trồng. Tuy nhiên nếu muốn nhân giống để bán cây con với số lượng lớn thì nên tìm mua hạt giống ở những nơi đáng tin cậy và phải có hướng chuẩn bị thật chu đáo. 2.2.1. GIAI ĐOẠN VƯỜN ƯƠM: 2.2.1.1 Chọn đất làm vườn ươm cây con: - Vị trí vườn ươm cây con phải được đặt ở những nơi cao ráo, thoáng mát, kín gió… - Phải có đủ nguồn nước sạch để tưới và đất phải thoát nước tốt. - Vườn ươm phải gần đường giao thông để thuận tiện cho việc chuyên chở. - Đất phải giàu dinh dưỡng, thành phần cơ giới nhẹ (đất cát hoặc cát pha), pH 5-6. 2.2.1.2 Làm đất và thiết kế líp ươm: - Đất làm vườn ươm cây con phải được cày bừa thật tơi xốp, sâu khoảng 25-30 cm và sạch cỏ dại. - Lên líp ươm cao 15-20 cm so với mặt đất, chiều rộng 1m, chiều dài 10m, khoảng cách giữa 2 líp ươm từ 45-50 cm để tiện việc đi lại và chăm sóc. - Hệ thống tưới-tiêu, đặc biệt là các mương thoát, phải bố trí một cách hợp lý và khoa học. 2.2.1.3 Xử lý đất và bón lót phân: Trước khi gieo hạt 5-7 ngày, líp ươm phải được xử lý thuốc sát trùng và bón phân lót. - Thuốc sát trùng có thể dùng dung dịch Bordeaux 1% hoặc dung dịch CuSO4 0.5% tưới điều lên mặt líp. - Phân bón lót gồm: Phân chuồng hoại (10kg/10m2/líp), super Lân (300-500 gr/10m2/líp). Có thể thay thế super Lân bằng DAP hoặc N-P-K với liều lượng từ 150-200gr/10m2/líp. ** Chú ý: Phân bón lót phải được nghiền thành bột, rải đều lên mặt líp, sau đó dùng cuốc xới, để trộn thật đều phân lót và thuốc sát trùng vào lớp đất sâu khoảng 5-7cm. Mặt líp phải bằng phẳng và tơi nhuyễn, không cỏ dại. 2.2.1.4 Gieo hạt: Sau khi thu hoạch hạt phải gieo ngay. Nếu chưa gieo, phải bảo quản hạt trong cát ẩm theo tỉ lệ 2 phần cát một phần hạt (tính theo thể tích), để nơi thoáng mát, thường xuyên đảo hạt (tối thiểu 3 lần/ngày) và luôn giữ ẩm cho cát. Cách bảo quản này chỉ kéo dài trong khoảng từ 7-10 ngày, nếu kéo dài hơn thì tỉ lệ nảy mầm sẻ giảm. Trước khi gieo nên xử lý hạt giống bằng cách ngâm hạt 3-4 giờ trong dung dịch thuốc tím có nồng độ 0,1%, sau đó rửa lại bằng nước sạch, nhặt hết hạt lép, thối rồi đem gieo. Rải hạt đều trên mặt líp, hạt cách hạt khoảng 2cm (mật độ 200-250gr hạt/m2). Sau khi gieo rải một lớp cát dày 1cm để lấp hạt. Trung bình 1kg hạt gieo được 4.500 - 6.000 cây con. 2.2.1.5 Làm giàn che cây con: Tùy theo vật liệu sẵn có tại địa phương như rơm rạ, lá dừa …mà làm mái che cho vườn ươm cây con, nhưng phải bảo đảm độ che phủ từ 60 – 70% và chủ động được việc điều chỉnh ánh sáng khi cần thiết. 2.2.1.6 Tưới nước giữ ẩm sau gieo: Luôn luôn giữ ẩm cho mặt líp để hạt nảy mầm và cây con phát triển tốt trong suốt giai đoạn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKHOA LUAN TOT NGHIEP.doc
  • docxDANH SÁCH HÌNH ẢNH.docx
  • docLOI CAM ON.doc
  • docMỤC LỤC.doc
  • docTÀI LIỆU THAM KHẢO.doc
Luận văn liên quan