Quá trình phát triển của ngoại thương Trung Quốc giai đoạn 2006–2010

Trong những năm gần đây, Trung Quốc được biết đến là một quốc gia có nền kinh tế phát triển vượt bậc, với một tốc độ thần kỳ và đang trên đường tiến tới siêu cường quốc. Trong sự phát triển chung của nền kinh tế Trung Quốc, ngoại thương là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đảm nhận nhiệm vụ trao đổi, giao lưu kinh tế với nước ngoài, góp phần đảm bảo cơ sở vật chất - kỹ thuật, tạo tiền đề cho mỗi quốc gia. Với vị trí địa lí thuận lợi, nhiều vùng giáp biển, diện tích lãnh thổ trên 9,6 triệu km2, chiếm 7% diện tích thế giới, dân số đông nhất thế giới (1,34 tỉ người năm 2010), tài nguyên thiên nhiên phong phú., Trung Quốc là một trong những nước có tiềm năng lớn trong việc mở rộng quan hệ ngoại thương với các nước khác trên thế giới. Thực tế, sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc cải cách mở cửa, ngoại thương Trung Quốc có một vị trí cực kì quan trọng, trở thành một lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, đóng góp lớn vào sự tăng trưởng kinh tế cao của đất nước. Giai đoạn 2006 – 2010 là một giai đoạn thần kỳ đối với sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc nói chung cũng như ngoại thương Trung Quốc nói riêng mặc dù nền kinh tế thế giới phải hứng chịu cơn khủng hoảng năm 2008. Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên, dân cư, chế độ chính trị xã hội và cả về kinh tế với Trung Quốc. Cũng giống như Trung Quốc, Việt Nam đang tiến hành đổi mới đất nước, hướng tới việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Việt Nam tiến hành mở cửa, đổi mới đất nước sau Trung Quốc 8 năm và cho đến nay thì những thành tựu kinh tế, thành tựu phát triển ngoại thương vẫn còn là khiêm tốn so với những thành quả to lớn của nước bạn và còn chưa xứng với tiềm năng của chính Việt Nam. Vì vậy, để thành công hơn nữa trong công cuộc phát triển ngoại thương Việt Nam thì việc tham khảo bài học kinh nghiệm của Trung Quốc là rất cần thiết.

docx29 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2219 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quá trình phát triển của ngoại thương Trung Quốc giai đoạn 2006–2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC PHẦN 1: MỞ ĐẦU 2 PHẦN 2: NỘI DUNG 4 ĐẶC ĐIỂM GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 4 Tình hình thế giới 4 Tình hình Trung Quốc 4 HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU 5 Quy mô xuất khẩu 5 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 9 Cơ cấu thị trường xuất khẩu 11 HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU 12 Tình hình nhập khẩu giai đoạn 2006 – 2010 12 Cơ cấu thị trường nhập khẩu 14 Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu 15 Tình hình nhập khẩu dầu mỏ 15 KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG 18 Thành tựu 18 Những thành tựu chủ yếu 18 Nguyên nhân 20 Hạn chế 21 Những hạn chế chủ yếu 21 Nguyên nhân 22 BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 23 PHẦN 3: KẾT LUẬN 28 PHẦN 1: MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, Trung Quốc được biết đến là một quốc gia có nền kinh tế phát triển vượt bậc, với một tốc độ thần kỳ và đang trên đường tiến tới siêu cường quốc. Trong sự phát triển chung của nền kinh tế Trung Quốc, ngoại thương là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đảm nhận nhiệm vụ trao đổi, giao lưu kinh tế với nước ngoài, góp phần đảm bảo cơ sở vật chất - kỹ thuật, tạo tiền đề cho mỗi quốc gia. Với vị trí địa lí thuận lợi, nhiều vùng giáp biển, diện tích lãnh thổ trên 9,6 triệu km2, chiếm 7% diện tích thế giới, dân số đông nhất thế giới (1,34 tỉ người năm 2010), tài nguyên thiên nhiên phong phú..., Trung Quốc là một trong những nước có tiềm năng lớn trong việc mở rộng quan hệ ngoại thương với các nước khác trên thế giới. Thực tế, sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc cải cách mở cửa, ngoại thương Trung Quốc có một vị trí cực kì quan trọng, trở thành một lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, đóng góp lớn vào sự tăng trưởng kinh tế cao của đất nước. Giai đoạn 2006 – 2010 là một giai đoạn thần kỳ đối với sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc nói chung cũng như ngoại thương Trung Quốc nói riêng mặc dù nền kinh tế thế giới phải hứng chịu cơn khủng hoảng năm 2008. Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên, dân cư, chế độ chính trị xã hội và cả về kinh tế với Trung Quốc. Cũng giống như Trung Quốc, Việt Nam đang tiến hành đổi mới đất nước, hướng tới việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Việt Nam tiến hành mở cửa, đổi mới đất nước sau Trung Quốc 8 năm và cho đến nay thì những thành tựu kinh tế, thành tựu phát triển ngoại thương vẫn còn là khiêm tốn so với những thành quả to lớn của nước bạn và còn chưa xứng với tiềm năng của chính Việt Nam. Vì vậy, để thành công hơn nữa trong công cuộc phát triển ngoại thương Việt Nam thì việc tham khảo bài học kinh nghiệm của Trung Quốc là rất cần thiết. Với lý do trên, nhóm 14 chúng em xin được mạnh dạn nghiên cứu vấn đề “ Quá trình phát triển Ngoại thương Trung Quốc giai đoạn 2006 – 2010” PHẦN 2: NỘI DUNG ĐẶC ĐIỂM GIAI ĐOẠN 2006 - 2010 Tình hình thế giới Giai đoạn 2006 – 2007 tình hình kinh tế thế giới vẫn trên đà phát triển nhưng nói chung tốc độ phát triển còn tương đối chậm khiến cho chính phủ một số quốc gia phải thực hiện các chính sách để thúc đẩy phát triển ngoại thương. Ví dụ: giảm thuế quan,… Tình hình ngoại thương giai đoạn 2008 – 2010 nhìn chung là suy thoái do biến cố khủng hoảng nền kinh tế toàn cầu diễn ra vào năm 2008 khiến một loạt các nhà xuất nhập khẩu lao đao khi nền kinh tế của các thị trường lớn đóng băng như: Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ,…nhưng dường như đấy không phải tình trạng chung của toàn bộ nền kinh tế. Ví dụ, mặc dù hàng quần áo nhập khẩu ở thị trường Mỹ tiếp tục giảm từ tháng 12, giảm 3% giá trị ở quý 4 và 3,3% cả năm 2008 nhưng bên cạnh đó hàng nhập khẩu từ Trung Quốc vào thị trường Mỹ tăng mạnh (tăng 20%) vào tháng 12 khi mà Mỹ xóa bỏ hạn ngạch giới hạn một số mặt hàng từ Trung Quốc. Tình hình Trung Quốc Trong những năm cuối thế kỷ XX, nền kinh tế Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ, là hiện tượng nổi bật nhất, thu hút nhiều sự chú ý nhất ở khu vực châu Á Thái Bình Dương và trên toàn thế giới. Sau hơn 30 năm (1979-2010) thực hiện cải cách mở cửa, bộ mặt kinh tế xã hội Trung Quốc đã biến đổi sâu sắc.Về nhiều mặt, Trung Quốc đang chiếm những vị trí đáng kể trong nền kinh tế thế giới, đứng hàng đầu về tốc độ tăng trưởng với một thực lực kinh tế không nhỏ. Đặc biệt là trong lĩnh vực ngoại thương, ngoại thương Trung Quốc đã thu được nhiều thành tựu rực rỡ: từ chỗ xếp hàng thứ 32 trên thế giới về xuất nhập khẩu (năm 1978) đến nay Trung Quốc đã là cường quốc ngoại thương lớn trên thế giới với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới 238,16 tỷ USD năm 2010. Hơn thế nữa, vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc trong thương mại quốc tế ngày càng được nâng cao, ngoại thương Trung Quốc đang đứng trước những cơ hội mới để phát triển tốt đẹp hơn, đặc biệt là sau sự kiện Trung Quốc đã trở thành thành viên thứ 143 của Tổ chức thương mại thế giới ngay vào năm đầu tiên của thế kỷ XXI. Giai đoạn 2006 - 2010: 5 năm 'thần kỳ' của Trung Quốc. Năm năm qua, Trung Quốc đối mặt với không ít thách thức, từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cho tới những trận động đất kinh hoàng cướp đi hàng nghìn sinh mạng. Tuy nhiên, nhiều thành tựu mang tính bước ngoặt mà Bắc Kinh đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong giai đoạn qua là không thể phủ nhận đặc biệt là về các hoạt động xuất nhập khẩu, kinh tế đối ngoại. Dấu ấn quan trọng nhất của Trung Quốc trong 5 năm qua chính là khả năng chống chọi với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Bằng các chính sách linh hoạt, mạnh mẽ và kịp thời, chính quyền Trung Quốc nhanh chóng đưa nền kinh tế thoát khỏi vòng vây của “bóng ma” khủng hoảng và phục hồi với tốc độ chóng mặt. Minh chứng rõ ràng nhất cho sự tăng trưởng ấn tượng của Trung Quốc chính là việc soán ngôi vị Á quân kinh tế toàn cầu của Nhật Bản. HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU Quy mô xuất khẩu Quy mô xuất khẩu của Trung Quốc liên tục tăng trong những năm 2006- 2010, với đỉnh cao là sự phục hồi năm 2010 sau khủng hoảng kinh tế.  Nguồn: Trong 6 tháng đầu năm 2006, xuất khẩu hàng hoá của Trung Quốc đã đạt 404 tỉ USD. Với con số này, Trung Quốc đã vượt Mĩ (367 tỉ USD) trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới. Năm 2007, Trung Quốc tụt xuống vị trí thứ hai trong lĩnh vực xuất khẩu với 1217,8 tỉ USD, đứng đầu thế giới là Đức với kim ngạch xuất khẩu đạt 1330 tỉ USD. Năm 2008, Trung Quốc vẫn đứng ở vị trí thứ 2 trên thị trường xuất khẩu thế giới. Giá trị xuất khẩu năm 2008 đạt 1430,7 tỉ USD, thị phần của Trung Quốc tăng lên 8,9% trong khi 20 năm trước đó, thị phần của Trung Quốc gần như bằng không. Năm 2009, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, giá trị xuất khẩu của Trung Quốc giảm xuống còn 1201,6 tỉ USD. Tuy nhiên,chính trong năm này, Trung Quốc đã vượt Đức trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới. Chính phủ Đức đã thừa nhận để cho Trung Quốc vượt qua trong cuộc đua xuất khẩu khi chỉ đạt 1121,3 tỉ USD. Tỉ lệ kim ngạch xuất khẩu Trung Quốc trong tổng kim ngạch toàn cầu tăng 9,6% trong năm 2009 theo WTO. Năm 2010 đánh dấu đỉnh cao trong kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc với 1577,9 tỉ USD. Xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ và Liên minh châu Âu tăng hơn 40%, xuất khẩu sang Nga tăng 84%. Xuất khẩu sang Braxin tăng 125%. Giá trị hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc tháng 6/2010 tăng lên mức kỷ lục 137,4 tỷ USD. Mức đỉnh cao trước đây được thiết lập vào tháng 7/2008 khi đó giá trị hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc đạt 136,68 tỷ USD.  Nguồn: Theo WTO, quy mô xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc đã tăng hơn 2 lần tính từ năm 2000 và đứng thứ 3 trên toàn thế giới trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá. Mặc dù mở rộng xuất khẩu, nhưng trong năm 2006, Trung Quốc vần giậm chân ở vị trí thứ 3. Tuy nhiên, trong 6 tháng cuối năm 2006, số lượng xuất khẩu hàng hoá của Trung Quốc đã lần đầu tiên vượt Mĩ. Về lĩnh vực xuất khẩu dịch vụ, với 87,0 tỷ USD, Trung Quốc xếp thứ 8 trong bảng xếp hạng thế giới. Xuất khẩu hàng hoá của Trung Quốc tăng 17% năm 2008, giảm 16% năm 2009 chủ yếu do sự suy giảm trong nhu cầu chung của thế giới. Năm 2010, xuất khẩu hàng hoá lại tăng 21%. Đây chính là dấu hiệu của sự phục hồi sau suy thoái. Sản xuất hàng hoá vẫn là lĩnh vực có ưu thế của xuất khẩu Trung Quốc, chiếm tới 93% tổng kim ngạch xuất khẩu. Bảng. 10 nước dẫn đầu xuất khẩu dịch vụ năm 2007 STT  Nước xuất khẩu  GTXK(tỉ $)  Thị phần (%)  % thay đổi   1  Mĩ  454  13,9  14   2  Anh  263  8,1  17   3  Đức  197  6,1  18   4  Nhật  136  4,2  11   5  Pháp  130  4,0  11   6  Tây Ban Nha  127  3,9  21   7  Trung Quốc  127  3,9  -   8  Italia  109  3,3  12   9  Hà Lan  91  2,8  13   10  Ireland  87  2,7  27   Nguồn: Từ 2005 đến 2009, tổng giá trị thương mại dịch vụ của Trung Quốc tăng 1,8 lần từ 157,1 tỉ USD đến 287 tỉ USD. Xuất khẩu dịch vụ tăng 14,9%, cao hơn 2 lần so với sựu gia tăng trong nhập khẩu dịch vụ.Về lĩnh vực xuất khẩu dịch vụ, với 87,0 tỷ USD, Trung Quốc xếp thứ 8 trong bảng xếp hạng thế giới. Trong 6 tháng đầu năm 2010, xuất khẩu dịch vụ tăng nhanh 31,7% đạt 166 tỉ USD. Trung Quốc đang chú trọng phát triển các dịch vụ như giao thông vận tải, du lịch, công nghệ thông tin, quảng cáo... trong khuôn khổ WTO và Hiệp định chung về thương mại dịch vụ. Với sự phát triển của các ngành dịch vụ, Trung Quốc đang trở thành điểm đến của thương mại dịch vụ toàn cầu.  Nguồn: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Có thể thấy tình hình xuất khẩu của Trung Quốc trong giai đoạn 2006-2010 luôn duy trì được tốc độ phát triển, luôn tăng không ngừng về quy mô. Riêng với năm khủng hoảng toàn cầu 2008, giá trị xuất khẩu của Trung Quốc tuy có sụt giảm song đã nhanh chóng gượng dậy. Đến tháng 12/2009, kim ngạch xuất nhập khẩu bắt đầu tăng trưởng mạnh so với cùng kì năm trước và so với tháng 11/2009. Giá trị xuất khẩu trong tháng đã đạt mức cao thứ 4 trong lịch sử. Về cơ bản, Trung Quốc vẫn duy trì được giá trị xuất nhập khẩu hàng tháng trên 100 tỷ USD. Điều này chứng tỏ hiệu quả của các chính sách kích thích kinh tế được thực hiện. Xét về cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu, có sự biến động qua các năm nhưng không đáng kể. Tiêu biểu có thể kể đến số liệu trong 1 số năm: năm 2008 so với năm 2007, trong các mặt hàng XK, XK mặt hàng cơ điện đạt 761,32 tỷ USD, tăng 20%, chiếm 57,8% tổng giá trị XK. Trong XK các mặt hàng truyền thống với số lượng lớn, XK hàng may mặc và nguyên phụ liệu đạt 108,7 tỷ USD, tăng 3,1%; XK sợi, hàng dệt đạt 60,41 tỷ USD, tăng 18,1%, tốc độ tăng 2,8 điểm %; XK giày dép đạt 26,77 tỷ USD, tăng 16,2%. Năm 2009, trong các mặt hàng XK, kể từ tháng 8/2008 Trung Quốc đã 7 lần điều chỉnh tỷ lệ hoàn thuế XK liên quan đến 676,02 tỷ USD trị giá hàng hóa XK, giảm 16,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, mức giảm XK hàng hóa có mật độ tập trung lao động cao đều thấp hơn so với mức giảm 16% của tổng thể XK cùng kỳ, điều này đóng góp cho việc bảo đảm đời sống dân sinh và tạo ra công ăn việc làm. Theo số liệu thống kê của hải quan, trong tháng 12/2009, XK đạt kết quả tốt. Trong tháng 12/2009, XK sản phẩm cơ điện đạt 78,05 tỷ USD, tăng 26,9%; XK mặt hàng dệt đạt 6,22 tỷ USD, tăng 25,2%; XK dụng cụ gia đình đạt 3,09 tỷ USD, tăng 10,8%; XK đồ chơi đạt 0,62 tỷ USD, tăng 4,4%; XK valy, túi xách đạt 1,48 tỷ USD, tăng 1,9%; XK giày dép đạt 2,82 tỷ USD, giảm 2,2%; XK đồ may mặc đạt 10,57 tỷ USD, giảm 4,8%.  Trước đây, nói đến Trung Quốc, người ta thường nghĩ đến hình ảnh “xưởng gia công lớn nhất thế giới”, chuyên sản xuất những mặt hàng rẻ tiền, không đòi hỏi giá trị gia tăng cao. Những hình ảnh đó đang lùi dần vào quá khứ. Trung Quốc đã khẳng định được vị trí của mình trong nền sản xuất và xuất khẩu công nghệ cao. Chỉ riêng ngành điện thoại di động của Trung quốc, trong những năm gần đây, đã phát triển với “ tốc độ của ánh sáng”. Trung Quốc đã trình làng cả một hệ thống 3G riêng, để cạnh tranh với các tiêu chuẩn của Âu Mỹ. Tên tuổi các tập đoàn như Huawei, Heier, Chery, Lenovo, lâu nay chỉ được biết đến trên thị trường nội địa, nay đang trở nên quen thuộc với một số người tiêu dùng ở châu Á và tiếp theo là châu Âu hay Mỹ. Cơ cấu thị trường xuất khẩu Giai đoạn 2006-2010, không có sự thay đổi trong vị trí bạn hàng của Trung Quốc. EU luôn giữ vị trí quán quân, xếp thứ 2 là Mỹ và Nhật Bản đứng ở vị trí thứ 3 trong danh sách. Bảng: Tổng kim ngạch song phương giữa Trung Quốc và 3 bạn hàng lớn 2008-2010 ( tỷ USD) Thị trường  2008  2009  2010    Kim ngạch  Tỷ trọng so với năm trước  Kim ngạch  Tỷ trọng so với năm trước  Kim ngạch  Tỷ trọng so với năm trước   EU  416,88  +13,1%  364,09  -14,5%.  484.60  +33,1%.   Mỹ  329,87  +11,6%  298,26  -10,6%.  388,33  +30,2%.   Nhật Bản  261,35  +15,2%.  228,85  -14,2%.  301,39  +31,7%.   Đối với thị trường Việt Nam : Trung Quốc thường xuất khẩu sang Việt Nam các mặt hàng : máy móc thiết bị, sắt thép, phân bón và vật tư nông nghiệp, hoá chất, phương tiện vận tải, nguyên phụ liệu dệt may, da. Các nhóm hàng trên chiếm trên 90% kim ngạch nhập khẩu hàng năm từ Trung Quốc. Kim ngạch XNK giữa Trung Quốc với Việt Nam trong tháng 11 và 11 tháng năm 2010 đạt lần lượt là 3,26 tỷ USD và 26,39 tỷ USD, tăng lũy kế 43,2%. Trong đó, Trung Quốc XK sang Việt Nam đạt lần lượt là 2,63 tỷ USD và 20,22 tỷ USD, tăng lũy kế 42,4%; Việt Nam XK sang Trung Quốc đạt lần lượt là 0,63 tỷ USD và 6,16 tỷ USD, tăng lũy kế 46,1%. Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc là 14,06 tỷ USD. HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU Tình hình nhập khẩu giai đoạn 2006 - 2010 Theo WTO, trong giai đoạn 2006-2010, tỉ lệ giá trị nhập khẩu hàng hóa dịch vụ trên GDP của Trung Quốc có xu hướng giảm, cụ thể, năm 2006 là 31%, năm 2007 là 30%, năm 2008 là 27% và năm 2009 giảm mạnh còn 22%. Theo số liệu công bố của Tổng cục Hải quan Trung Quốc, từ tháng 1 đến tháng 4/2010, tổng giá trị XNK của Trung Quốc đạt 855,99 tỷ USD, tăng 42,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, XK đạt 436,05 tỷ USD, tăng 29,2%; NK đạt 419,9 tỷ USD, tăng 60,1%; thặng dư thương mại đạt 16,11 tỷ USD, giảm 78,6%. Trong tháng 4/2010, kim ngạch XNK của Trung Quốc đạt 238,16 tỷ USD, tăng 39,4%. Trong đó, XK đạt 119,92 tỷ USD, tăng 30,5%, tăng 6,3 điểm % so với tháng 3; NK đạt 118,24 tỷ USD, tăng 49,7%. Thặng dư thương mại trong tháng 4 đạt 1,68 tỷ USD, giảm 87%. So sánh với 4 tháng đầu năm 2008, tổng kim ngạch XNK trong 4 tháng đầu năm nay tăng 8%; XK tăng 2,6% và NK tăng 14,2%. Trong đó, kim ngạch XNK của tháng 4/2010 so sánh với cùng kỳ năm 2008 tăng 7,6%; XK tăng 0,8% và NK tăng 15,5%. Trong 4 tháng đầu năm 2010, XNK mậu dịch thông thường đạt 429,05 tỷ USD, tăng 46%, tốc độ cao hơn 3,3 điểm % so với tốc độ tăng XNK toàn quốc. Trong đó, XK đạt 194,88 tỷ USD, tăng 27,2%; NK đạt 234,17 tỷ USD, tăng 66,4%. Mậu dịch thông thường xuất hiện nhập siêu với giá trị là 39,29 tỷ USD, trong khi đó cùng kỳ năm 2009, giá trị xuất siêu là 12,48 tỷ USD. Cũng trong thời gian 4 tháng, kim ngạch XNK mậu dịch gia công đạt 333,16 tỷ USD, tăng 37,7%. Trong đó, XK đạt 208,87 tỷ USD, tăng 30%; NK đạt 124,29 tỷ USD, tăng 52,9%. Xuất siêu trong mậu dịch gia công đạt 84,58 tỷ USD, tăng 6,5%, tương đương với 5,2 lần so với mức xuất siêu tổng thể trong cùng thời gian. Bảng: Phần trăm thay đổi giá trị nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của Trung Quốc giai đoạn 2006-2010  Source: CEIC Latest actual data: 2010 Base year: 1990 Methodology used to derive volumes: Deflation by unit value indexes (from customs data) Formula used to derive volumes: Derived from value index and unit value index Chain-weighted: No Oil coverage: Primary or unrefined products;Secondary or refined products; Valuation of exports: Free on board (FOB) Valuation of imports: Cost, insurance, freight (CIF) Trong quan hệ thương mại song phương với các bạn hàng chủ yếu, trong 4 tháng đầu năm nay EU vẫn là bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc với kim ngạch song phương đạt 137,77 tỷ USD, tăng 34,6%. Kim ngạch song phương giữa Trung Quốc và Mỹ đạt 107,18 tỷ USD, tăng 25%. Nhật Bản vượt nhẹ ASEAN trở thành bạn hàng lớn thứ 3 của Trung Quốc, kim ngạch song phương giữa Trung Quốc và Nhật Bản đạt 88,66 tỷ USD, tăng 37,5%. Trong đó, Trung Quốc XK sang Nhật Bản 35,47 tỷ USD, tăng 19,5%; Trung Quốc NK từ Nhật Bản đạt 53,19 tỷ USD, tăng 52,8%; nhập siêu từ Nhật Bản đạt 17,72 tỷ USD, tăng 2,5 lần. Kim ngạch thương mại song phương giữa Trung Quốc và ASEAN đạt 87,09 tỷ USD, tăng 58,5%. Trong đó, Trung Quốc XK đạt 40.61 tỷ USD; và NK từ ASEAN đạt 46,48 tỷ USD, tăng 71,7%; Trung Quốc nhập siêu từ ASEAN là 5,87 tỷ USD, trong khi đó 4 tháng đầu năm 2009, Trung Quốc xuất siêu đạt 830 triệu USD. Kim ngạch XNK song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam trong tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2010 đạt lần lượt là 2,37 tỷ USD và 7,92 tỷ USD, tăng lũy kế là 50,1%. Trong đó, Trung Quốc XK sang Việt Nam đạt lần lượt là 1,82 tỷ USD và 6,04 tỷ USD, tăng lũy kế là 52,2%; Việt Nam XK sang Trung Quốc đạt lần lượt là 0,54 tỷ USD và 1,87 tỷ USD, tăng lũy kế là 42,9%. Trung Quốc xuất siêu đạt 4,17 tỷ USD. Cơ cấu thị trường nhập khẩu của Trung Quốc năm 2010 Bảng: China's Top Import Suppliers, 2010 ($ billion)  Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của Trung Quốc năm 2010 Bảng: China's Top Imports, 2010 ($ billion)  Tình hình nhập khẩu dầu mỏ Trung Quốc là một nền kinh tế nóng, vì thế nhu cầu nhiên liệu rất lớn và có ảnh hưởng sâu sắc đến tốc độ phát triển kinh tế của nước này. Hoạt động nhập khẩu dầu mỏ đóng vai trò quan trọng và chiếm tỉ trọng lớn trong tổng giá trị nhập khẩu của Trung Quốc. Theo giới chuyên môn, nhập khẩu dầu của Trung Quốc tăng dữ dội trong năm 2006 do nhu cầu trong nước tăng mạnh cùng đà tăng trưởng kinh tế nước này. Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNPC) ước tính năm 2006 nước này đã nhập về khoảng 144 triệu tấn, tăng hơn 10% so với năm 2005. Lượng dầu này được bơm vào nền kinh tế tăng trưởng không ngừng của quốc gia. Năm 2006, ước tính GDP Trung Quốc tăng 10,5%, lên đạt khoảng 2.550 tỷ USD. Trung Quốc là nước phụ thuộc vào năng lượng truyền thống để đáp ứng nhu cầu năng lượng với than chiếm 2/3 tổng lượng tiêu thụ năng lượng, dầu chiếm 1/4. Việc giá dầu trên thế giới tăng khiến quốc gia tiêu thụ dầu lớn thứ 2 (sau Mỹ) này phải tăng cường tìm kiếm các nguồn dầu khí mới trên khắp thế giới. Trung Quốc đã giành lấy nguồn năng lượng từ những nước xa xôi như Venezuela, Kazakhstan, Nigeria và Úc để tìm kiếm nguồn dầu mỏ và khí đốt cho nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh chóng. Đối với Trung Đông, Trung Quốc đã từng cố gắng cải thiện mối quan hệ với các nhà cung cấp dầu mỏ của mình như Ảrập Xêút, Iran bằng cách bán công nghệ quân sự, đầu tư vào sản xuất công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng tại nước đối tác này. Năm 2009, dầu nhập khẩu đạt mức báo động tại Trung Quốc: Nghiên cứu bởi Qian Wang (Trung Quốc hàng ngày) phụ thuộc dầu thô của Trung Quốc đạt mức báo động năm 2009 với hơn một nửa tổng số dầu tiêu thụ của nước này từ nước ngoài, thống kê chính thức mới nhất cho thấy. Theo số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc công bố ngày 10 tháng 1 năm 2010 cho thấy lượng nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc trong năm 2009 đạt 203,79 triệu tấn tăng 13,9% so với lượng nhập khẩu dầu thô 178,89 triệu tấn năm 2008. Riêng trong tháng 12 năm 2009 lượng nhập khẩu dầu thô đạt 21,26 triệu tấn và đây là mức nhập cao kỷ lục, tháng 11 năm 2009 lượng dầu thô nhập khẩu đạt 17,12 triệu tấn tăng 24% cũng là mức cao so với mức nhập trung bình 16 triệu tấn/tháng trong 9 tháng đầu năm 2009. Trong các năm trước lượng dầu thô nhập khẩu vượt 16 triệu tấn/tháng chỉ có 13 tháng thì riêng trong năm 2009 đã có đến 10 tháng duy trì mức nhập khẩu này, đặc biệt trong 6 tháng gần đây, lượng dầu thô nhập khẩu trung bình hàng tháng đều vượt trên 17 triệu tấn. Vì sản lượng dầu thô lũy kế trong 11 tháng đầu năm 2009 của Trung Quốc chỉ đạt 174 triệu tấn, trong khi đó lượng dầu thô nhập khẩu cả năm 2009 đạt 203,79 triệu tấn, vì vậy, lượng dầu thô nhập khẩu đã vượt lượng dầu thô mà Trung Quốc có thể tự sản xuất. Mức độ phụ thuộc nhập khẩu đối với sản phẩm dầu thô của Trung Quốc lần đầu tiên trong lịch sử đã vượt trên 50%. Theo số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc cũng cho thấy, năm 2009 tổng kim ngạch nhập
Luận văn liên quan